Tư liệu về Mạc Đĩnh Chi
Chia sẻ bởi Vũ Trung Kiên |
Ngày 27/04/2019 |
60
Chia sẻ tài liệu: Tư liệu về Mạc Đĩnh Chi thuộc Bài giảng khác
Nội dung tài liệu:
Với tài năng thiên bẩm và quá trình học tập cần mẫn ông đã trở thành một nhân tài trác việt của đất nước. Không chỉ nổi tiếng trong nước, khi đi sứ Tàu ông đã không để quốc thể bị hạ nhục và mặc dù vô cùng căm tức nhưng vua Nguyên vẫn phải công nhận ông là Lưỡng quốc trạng nguyên...
Mạc Đĩnh Chi tự là Tiết Phu, người làng Lũng Động huyện Chí Linh (Hải Dương, Bắc Việt) nguyên là giòng giõi quan thái thú Mạc Hiển Tích về triều nhà Lý (Hiển Tích đỗ trạng nguyên đời vua Trung Tôn nhà Lý, làm đến Lại bộ thượng thư) Tục truyền làng Lũng Động có một khu rừng rậm, cây cối bùm tum, lắm giống hầu (con khỉ) ở. Mẹ Ông ấy thường khi vào rừng kiếm củi, phải con hầu đực bắt hiếp. Về nói với chồng, chồng ăn mặc giả làm đàn bà, giắt sẵn con dao sắc vào rừng, con hầu quen thói lại ra, bị Ông kia chém chết bỏ thây tại đấy. Sáng hôm sau ra xem thì mối đã đùn đất lấp hết, thành gò mả. Bà kia từ đấy thụ thai, đủ tháng sinh ra Mạc Đĩnh Chi, mặt mũi xấu xí, người nhỏ loắt choắt tựa như giống hầu. Mạc Đĩnh Chi lớn lên bốn năm tuổi, tư chất thông minh hơn người. Bấy giờ Hoàng tử là Chiêu Quốc Công mở trường dạy học trò, Mạc Đĩnh Chi vào học. Đến năm gần hai mươi tuổi là năm Giáp Thìn đời vua Anh Tôn nhà Trần, Mạc Đĩnh Chi thi đình văn đáng đỗ đầu cả mọi người nhưng vua trông thấy người hình dáng xấu xa, toan không cho đỗ Trạng nguyên, Đĩnh Chi làm một bài phú "Ngọc tỉnh liên" để ví vào mình, vua mới lại cho đỗ Trạng Nguyên. Khi Mạc Đĩnh Chi phụng mênh sang sứ nhà Nguyên bên Tàu, có hẹn trước với người Tàu ngày mở cửa ải. Bất ngờ hôm ấy trời lại mưa, Mạc Đĩnh Chi sai hẹn; hôm sau mới đến thì người Tầu đóng cửa không cho vào. Đĩnh Chi nói tử tế xin cho mở cửa. Người Tầu ra một câu từ trên ải ném xuống và bảo hễ đối được thì mở cửa. Câu ra: "Qúa quan trì, quan quan bế; nguyện quá khách quá quan". Nghĩa là: Qua ải chậm, người coi ải đóng cửa ải, mời khách qua đường qua ải mà đi. Đĩnh Chi viết nagay một mảnh giấy, đối lại đưa lên: "Xuất đối dị, dối đối nan, thỉnh tiên sinh tiên đối". Nghĩa là: Ra đối dễ, đối lại khó, mời tiên sinh đối trước. Người Tàu khen có tài nhanh nhẩu, mới mở cửa ải cho vào. Khi đến cửa Yên Kim, người tàu thấy ông xấu xa, có bụng khinh bỉ. Một hôm, viên tể tướng Tàu mời vào phủ đường ngồi chơi, Đĩnh Chi trông thấy trên bức tường có thêu con chim sẻ vàng đậu trên cành trúc, tưởng là chim thực, đứng dậy chạy lại bắt. Người Tàu cười ầm cả lên. Đĩnh Chi xé tan ngay bức trướng ấy ra. Chúng ngạc nhiên hỏi cớ làm sao thì thưa rằng: Tôi có nghe người ta thường vẽ chim sẻ đậu cành mai không ai vẽ đậu cành trúc. Nay tể tướng sao lại cho vẽ thế. Trúc là giống cây quân tử, chim sẻ là loài vật tiểu nhân, vẽ thêu như thế là ra cho tiểu nhân ở trên quân tử, tôi e rằng đạo tiểu nhân mỗi ngày thịnh lên, mà đạo quân tử mỗi ngày suy đi, nên tôi trừ giúp cho thánh triều đấy thôi: Chúng chịu là biện bác có lẽ. Đến khi vào chầu, nhân có ngoại quốc dâng một đôi quạt quý. Vua Tàu xai Đĩnh Chi và một người sứ Cao Ly, mỗi người đề một bài tán vào quạt. Sứ Cao Ly làm xong trước. Lời tâu rằng: "Uẩn lòng trùng trùng, y Doãn Chu Công, Vũ tuyết thê thê, Bá Di Thúc Tề". Nghĩa là: Đang lúc nắng nực, thì như ông Y Doãn, ông Chu Côn (ý là đắc dụng với thời). Đến khi mưa tuyết lạnh ngắt thì như Bá Di, ông Thúc Tề (ý nói là xếp xó một chỗ). Bấy giờ Mạc Đĩnh Chi chưa nghĩ ra ý tứ làm sao, nhác trông sang quản bút bên kia, biết là lời lẽ như thế mới suy ra mà đề một bài như sau này: "Lưu kim thước thạnh thiên địa vi lô nhi ư tư thời hề Y Chu cự nho! Bắc phong kì lương, vủ tuyết tái đô; nhi ư tư thời hề Di Tề ngã phụ Y ! dụng chi tắc hành xả chi tắc tàng, dụng ngã nhữ hữu thị phù ?" Nghĩa là: Nắng chảy vàng tan đá, trời đất như lò lửa, người về lúc ấy ví như Y,
Mạc Đĩnh Chi tự là Tiết Phu, người làng Lũng Động huyện Chí Linh (Hải Dương, Bắc Việt) nguyên là giòng giõi quan thái thú Mạc Hiển Tích về triều nhà Lý (Hiển Tích đỗ trạng nguyên đời vua Trung Tôn nhà Lý, làm đến Lại bộ thượng thư) Tục truyền làng Lũng Động có một khu rừng rậm, cây cối bùm tum, lắm giống hầu (con khỉ) ở. Mẹ Ông ấy thường khi vào rừng kiếm củi, phải con hầu đực bắt hiếp. Về nói với chồng, chồng ăn mặc giả làm đàn bà, giắt sẵn con dao sắc vào rừng, con hầu quen thói lại ra, bị Ông kia chém chết bỏ thây tại đấy. Sáng hôm sau ra xem thì mối đã đùn đất lấp hết, thành gò mả. Bà kia từ đấy thụ thai, đủ tháng sinh ra Mạc Đĩnh Chi, mặt mũi xấu xí, người nhỏ loắt choắt tựa như giống hầu. Mạc Đĩnh Chi lớn lên bốn năm tuổi, tư chất thông minh hơn người. Bấy giờ Hoàng tử là Chiêu Quốc Công mở trường dạy học trò, Mạc Đĩnh Chi vào học. Đến năm gần hai mươi tuổi là năm Giáp Thìn đời vua Anh Tôn nhà Trần, Mạc Đĩnh Chi thi đình văn đáng đỗ đầu cả mọi người nhưng vua trông thấy người hình dáng xấu xa, toan không cho đỗ Trạng nguyên, Đĩnh Chi làm một bài phú "Ngọc tỉnh liên" để ví vào mình, vua mới lại cho đỗ Trạng Nguyên. Khi Mạc Đĩnh Chi phụng mênh sang sứ nhà Nguyên bên Tàu, có hẹn trước với người Tàu ngày mở cửa ải. Bất ngờ hôm ấy trời lại mưa, Mạc Đĩnh Chi sai hẹn; hôm sau mới đến thì người Tầu đóng cửa không cho vào. Đĩnh Chi nói tử tế xin cho mở cửa. Người Tầu ra một câu từ trên ải ném xuống và bảo hễ đối được thì mở cửa. Câu ra: "Qúa quan trì, quan quan bế; nguyện quá khách quá quan". Nghĩa là: Qua ải chậm, người coi ải đóng cửa ải, mời khách qua đường qua ải mà đi. Đĩnh Chi viết nagay một mảnh giấy, đối lại đưa lên: "Xuất đối dị, dối đối nan, thỉnh tiên sinh tiên đối". Nghĩa là: Ra đối dễ, đối lại khó, mời tiên sinh đối trước. Người Tàu khen có tài nhanh nhẩu, mới mở cửa ải cho vào. Khi đến cửa Yên Kim, người tàu thấy ông xấu xa, có bụng khinh bỉ. Một hôm, viên tể tướng Tàu mời vào phủ đường ngồi chơi, Đĩnh Chi trông thấy trên bức tường có thêu con chim sẻ vàng đậu trên cành trúc, tưởng là chim thực, đứng dậy chạy lại bắt. Người Tàu cười ầm cả lên. Đĩnh Chi xé tan ngay bức trướng ấy ra. Chúng ngạc nhiên hỏi cớ làm sao thì thưa rằng: Tôi có nghe người ta thường vẽ chim sẻ đậu cành mai không ai vẽ đậu cành trúc. Nay tể tướng sao lại cho vẽ thế. Trúc là giống cây quân tử, chim sẻ là loài vật tiểu nhân, vẽ thêu như thế là ra cho tiểu nhân ở trên quân tử, tôi e rằng đạo tiểu nhân mỗi ngày thịnh lên, mà đạo quân tử mỗi ngày suy đi, nên tôi trừ giúp cho thánh triều đấy thôi: Chúng chịu là biện bác có lẽ. Đến khi vào chầu, nhân có ngoại quốc dâng một đôi quạt quý. Vua Tàu xai Đĩnh Chi và một người sứ Cao Ly, mỗi người đề một bài tán vào quạt. Sứ Cao Ly làm xong trước. Lời tâu rằng: "Uẩn lòng trùng trùng, y Doãn Chu Công, Vũ tuyết thê thê, Bá Di Thúc Tề". Nghĩa là: Đang lúc nắng nực, thì như ông Y Doãn, ông Chu Côn (ý là đắc dụng với thời). Đến khi mưa tuyết lạnh ngắt thì như Bá Di, ông Thúc Tề (ý nói là xếp xó một chỗ). Bấy giờ Mạc Đĩnh Chi chưa nghĩ ra ý tứ làm sao, nhác trông sang quản bút bên kia, biết là lời lẽ như thế mới suy ra mà đề một bài như sau này: "Lưu kim thước thạnh thiên địa vi lô nhi ư tư thời hề Y Chu cự nho! Bắc phong kì lương, vủ tuyết tái đô; nhi ư tư thời hề Di Tề ngã phụ Y ! dụng chi tắc hành xả chi tắc tàng, dụng ngã nhữ hữu thị phù ?" Nghĩa là: Nắng chảy vàng tan đá, trời đất như lò lửa, người về lúc ấy ví như Y,
* Một số tài liệu cũ có thể bị lỗi font khi hiển thị do dùng bộ mã không phải Unikey ...
Người chia sẻ: Vũ Trung Kiên
Dung lượng: |
Lượt tài: 1
Loại file:
Nguồn : Chưa rõ
(Tài liệu chưa được thẩm định)