Tu lieu lich su vua Gia Long
Chia sẻ bởi Nguyễn Thái Bình |
Ngày 11/05/2019 |
158
Chia sẻ tài liệu: tu lieu lich su vua Gia Long thuộc Lịch sử 7
Nội dung tài liệu:
Gia Long
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Bước tới: menu, tìm kiếm
Gia Long
Tên húy
Nguyễn Phúc Ánh
Sinh
1762
Mất
1820
Trị vì
1802 - 1820
Triều đại
Nhà Nguyễn
Niên hiệu
Gia Long (1802 - 1820)
Miếu hiệu
Thế Tổ
Thụy hiệu
Cao Hoàng Đế
Nguyễn Phúc Ánh (chữ Hán: 阮福映; 1762–1820), là người đã lập ra triều đại nhà Nguyễn, lên ngôi ngày 1 tháng 6 âm lịch năm 1802, đặt niên hiệu là Gia Long (嘉隆). Ông phong cho trọng thần Nguyễn Văn Thành về Thăng Long (tức Hà Nội ngày nay) làm Tổng trấn Bắc Thành còn mình thì trở về kinh đô Phú Xuân (tức Huế ngày nay), đặt quốc hiệu là Việt Nam một cách chính thức[1]. Ông cũng là người lập ra hệ nhất chánh Nguyễn Phước.
Mục lục
[giấu]
1 Tiểu sử
2 Quá trình thống nhất đất nước
2.1 Nguyễn Ánh và triều đình Louis XVI
2.2 Những giúp đỡ của người Pháp
3 Cai trị đất nước
3.1 Các chính sách với người Pháp
3.2 Các chính sách cai trị trong nước
3.3 Phân chia hành chính
4 Việc truyền ngôi và gia đình riêng
4.1 Việc truyền ngôi
4.2 Gia đình riêng
5 Nhận định
6 Chú thích
7 Liên kết ngoài
[sửa] Tiểu sử
Ông là hoàng tử thứ 3 của Nguyễn Phúc Luân. Lúc còn tuổi thơ ấu, ông rất được Chúa Nguyễn Phúc Thuần thương yêu, nên được ở trong học đường Vương phủ. Vào tuổi thiếu niên, ông đã tỏ ra là người tài trí, khôn ngoan với đức tính khoan hòa, đầy nghị lực của người có khả năng lập nghiệp lớn.
Năm 1777 khi Thái Thượng Vương Nguyễn Phúc Thuần, cùng với cháu là Hoàng thân Nguyễn Phúc Đồng (con Nguyễn Phúc Luân - anh Phúc Ánh) và Tống Phước Thuận, Nguyễn Doanh Khoảng... bị Nguyễn Huệ bắt tại Long Xuyên và đem về Sài Gòn giết, thì chỉ có một mình hoàng thân Nguyễn Phúc Ánh thoát nạn. Ông chạy ra đảo Thổ Chu (trấn Hà Tiên) và từ đó mọi quyền hành quốc sự của các chúa Nguyễn do ông thống lĩnh.
Năm 1778, khi 16 tuổi ông được ba quân suy tôn lên làm nguyên soái nhiếp chính quốc và khởi binh chiếm lại Gia Định.
Trong 24 năm, được sự giúp đỡ của dân chúng vùng đất mới khai hoá từ Gia Định đến Phú Quốc, từ Cà Mau đến Hà Tiên, ông đã cùng với các tướng lĩnh vượt qua mọi gian nguy, bao phen vào sinh ra tử, kiên cường chống lại quân Tây Sơn. Cuối cùng, với sự hậu thuẫn của người Pháp cũng như nhờ có các mâu thuẫn nội bộ của nhà Tây Sơn, ông đã khôi phục lại xứ Đàng Trong của các Tiên Chúa. Năm 1801 ông tiến quân ra Bắc Hà, đánh bại hoàn toàn nhà Tây Sơn; năm 1802 lập nên nước Việt Nam thống nhất từ Nam chí Bắc, từ mũi Cà Mau đến ải Nam Quan như ngày nay.
Sau 18 năm ở ngôi, ông băng hà năm 1820 và được đặt miếu hiệu là Thế Tổ Cao Hoàng Đế (世祖高皇帝). Lăng của ông hiệu Thiên Thọ, tại làng Định Môn, huyện Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên. Tôn thờ ông tại Chánh Án Miếu ở Thế Miếu trong Đại Nội kinh thành Huế.
Sách Hoàng tộc lược biên có viết:
Lăng của Ngài là lăng Diên Thọ, thuộc địa phận làng Định Môn, huyện Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên. Lăng Bà Thừa Thiên Cao Hoàng Hậu và Bà Thuận Thiên Cao Hoàng Hậu, nguyên phối và đệ nhị phối của Ngài cũng đều táng tại vùng ấy cả. Ngài và hai Bà đều thờ tại Chánh án Thế Miếu và tại Chánh án điện Phụng Tiên ở Kinh Thành Nội.
[sửa] Quá trình thống nhất đất nước
[sửa] Nguyễn Ánh và triều đình Louis XVI
Trong quá trình vào miền Nam để lẩn tránh cuộc tìm kiếm của phong trào Tây Sơn, Nguyễn Ánh đã có dịp làm quen với một giáo sĩ người Pháp trong "Hội truyền đạo nước ngoài" là Pigneau de Béhaine (tức Bá-đa-lộc). Mối quan hệ của Nguyễn Ánh và Pigneau de Béhaine ngày càng thắt chặt và hình ảnh nước Pháp ngày càng lớn dần trong tâm trí của Nguyễn Ánh, ông nảy sinh ý định cầu viện các nước phương Tây.
Vào cuối năm 1783, giám mục Pigneau de Béhaine được giao nhiệm vụ làm sứ thần thay mặt Nguyễn Ánh sang Pháp cầu viện triều đình vua Louis XVI. Sinh mạng của vị hoàng tử trưởng 4 tuổi Nguyễn Phúc Cảnh đã bị đưa ra "thế chấp" trong cuộc cầu viện này[2].
Sau một năm chuẩn bị, ngày 25 tháng 11 năm 1784 giám mục Pigneau de Béhaine đã cùng Hoàng tử Cảnh và phái đoàn đem quốc thư của Nguyễn Ánh xuống thuyền đi Malacca rồi sang Pondichéry ở Ấn Độ (thuộc Pháp). Tại đây có một số vấn đề rắc rối nên hành trình sang Pháp bị trì hoãn. Mãi đến giữa năm 1786 phái đoàn mới rời khỏi Pondichéry và sang hải cảng Lorient ở Pháp vào tháng 2 năm 1787. Mất một thời gian vận động khá lâu thì đến đầu tháng 5 năm 1787 Pigneau de Béhaine cùng Hoàng tử Cảnh mới tiếp kiến được vua Louis XVI. Ngày 28 tháng 11 năm 1787, tại cung điện Versailles Thượng thư Bộ Ngoại giao Pháp là Armand Marc, Bá tước de Montmorin, thay mặt vua Pháp ký với đại diện của Nguyễn Ánh là giám mục Pigneau de Béhaine bản hiệp ước "Tương trợ tấn công và phòng thủ" (thường gọi là Hiệp ước Versailles). Hiệp ước này gồm có 10 khoản, nội dung chính là về việc vua Pháp cam kết cung cấp cho Nguyễn Ánh 4 chiếc tàu chiến loại frégaté cùng 1.650 binh sĩ và các phương tiện trang bị vũ khí tương ứng; ngược lại Nguyễn Ánh chấp thuận nhường cửa biển Đà Nẵng và quần đảo Côn Lôn cho Pháp, cho phép người Pháp được quyền tự do buôn bán và kiểm soát thương mại của người nước ngoài ở Việt Nam, cung cấp lương thực và quân nhu thiết yếu cho Pháp khi Pháp có chiến tranh với một nước khác ở khu vực Viễn Đông.
Hiệp ước Versailles 1787 chính thức đánh dấu mối quan hệ ràng buộc giữa hai chính quyền Louis XVI và Nguyễn Ánh, cho phép nước Pháp có cơ sở pháp lý để đòi hỏi quyền lợi ở Việt Nam một cách hợp lý về sau và khẳng định trước thế giới phương Tây quyền thâm nhập Việt Nam của tư bản Pháp[3].
[sửa] Những giúp đỡ của người Pháp
Ngày 27 tháng 12 năm 1787, Pigneau de Béhaine rời nước Pháp cùng Hoàng tử Cảnh và trở lại Pondichéry để đợi sự chi viện từ phía chính quyền Louis, nhưng ngày 14 tháng 7 năm 1789 giai cấp tư sản Pháp đã làm cuộc cách mạng lật đổ triều đại phong kiến Louis, thiết lập nền cộng hòa tư sản. Chờ mãi mà không nhận được sự chi viện, giám mục Pigneau de Béhaine đã quyên góp tiền từ các thương gia có mưu đồ đặt cơ sở buôn bán ở Việt Nam cùng với số tiền 15.000 franc Pháp của gia đình mình cho, đem mua súng đạn và tàu chiến. Tháng 7 thì giám mục Pigneau de Béhaine cùng Hoàng tử Cảnh về đến Gia Định. Các hoạt động quyên góp sau này về tiền hay xây dựng, sửa sang thành Gia Định, Vĩnh Long, Châu Đốc, Hà Tiên, Biên Hòa, Bà Rịa, huấn luyện cơ đội pháo thủ, tổ chức bộ binh và rèn luyện tập binh lính theo lối châu Âu,... đều có sự góp sức của những người Pháp mà do Pigneau de Béhaine chiêu mộ, kêu gọi.
Các hoạt động giúp đỡ Nguyễn Ánh về mặt quân sự của giám mục Pigneau de Béhaine không phải là sự trợ giúp chính thức của chính phủ Pháp mà chỉ là hành động tự nguyện của một nhóm người theo sự vận động cá nhân của giám mục. Thực tế này đã bị cuộc cách mạng 1789 ở Pháp biến thành một "sự nhập nhằng không rõ ràng" và những biến động liên tục của nước Pháp từ cuộc cách mạng này khiến hơn nửa thế kỷ sau nước Pháp luôn phải hoài nghi và nuôi hy vọng hão huyền về những quyền lợi tại Việt Nam mà họ nghĩ lý ra là họ phải được nhận. Chính phủ Pháp chỉ còn ghi nhớ hiệp ước 1787 và công cuộc trợ giúp của người Pháp đối với Nguyễn Ánh ở Việt Nam, ngoài ra không còn một bằng cớ xác đáng nào về vấn đề đó[3].
[sửa] Cai trị đất nước
[sửa] Các chính sách với người Pháp
Sau khi lên ngôi hoàng đế năm 1802, Nguyễn Ánh lên ngôi lấy hiệu Gia Long và vẫn tiếp tục những biểu hiện tỏ ra thân mật với người Pháp. Ông trả công hậu hĩ cho những người đã từng theo giúp mình, một số sĩ quan người Pháp cũng được làm quan trong triều đình Huế với những ưu đãi đặc biệt. Các giáo sĩ Thiên Chúa giáo không bị cấm đoán và tự do đi truyền đạo khắp nơi. Về mặt hình thức vua Gia Long là người có những quan hệ tốt với nước Pháp, đối xử với họ như những kẻ phải mang ơn. Chính những biểu hiện đó khiến người ta thường đánh giá Gia Long trong bản chất Nguyễn Ánh, phê phán Gia Long về những hành động khi ông đang còn là Nguyễn Ánh. Do vậy, hình ảnh Gia Long trở nên không tốt đẹp vì sự tồi tệ mà Nguyễn Ánh đã tạo ra trong lịch sử dân tộc[3].
Gia Long mặc dù rất hậu đãi với người Pháp nhưng ông chỉ cho bổng lộc, chức tước mà không ban quyền hạn, do đó họ không chi phối được chính sự nhà Nguyễn. Nhà vua thường cảnh tỉnh các triều thần về mối đe dọa sự an nguy của quốc gia từ sự thông thương và truyền đạo của Pháp. Nhà vua đã nhiều lần tỏ ra rất hài lòng về việc trước kia không nhận được cứu viện của triều đình Louis XVI[4]. Ông vẫn giữ gìn không thắt chặt mối liên lạc chính thức cũng như các cam kết chính trị với chính phủ phương Tây để khỏi sa vào những lỗi lầm dẫn đến số phận như Ấn Độ[5].
[sửa] Các chính sách cai trị trong nước
Ông đã xếp đặt lại cơ cấu điều hành quốc gia, cho soạn bộ luật mới có tên gọi là Hoàng Việt luật lệ (còn gọi là "luật Gia Long"), do Tổng trấn Bắc Thành Nguyễn Văn Thành chủ biên, bộ luật này gần như lấy nguyên mẫu là luật nhà Thanh cho nên nhìn tổng thể khá khắc nghiệt và không được tiến bộ như bộ Luật Hồng Đức của nhà Lê, thành lập Quốc Tử Giám ở kinh đô, ấn định học hiệu và các loại thuế. Công cuộc cai trị đất nước được thuận lợi sau khi thực hiện các việc lớn như: tổ chức triều đình gồm có lục bộ là: Lại, Công, Lễ, Hộ, Binh, Hình do thượng thư (tương đương nhự bộ trưởng ngày nay) đứng đầu và đô sát viện do Tả, Hữu đô ngự sử đứng đầu với hoạt động giống như của các cơ quan thanh tra, giám sát hiện nay; ông phân chia khu vực hành chính thành các tổng trấn (vùng), trấn (doanh), phủ, huyện, xã; ấn định quyền hạn các chức tước, lương bổng, văn võ theo các cấp bậc (cả văn và võ đều có chín bậc), tu soạn sách sử, văn truyện, địa lý (nổi tiếng nhất là Nhất thống địa dư chí), lập dinh Điền Sứ trông coi việc khai khẩn ruộng đất. Ở các trấn, ông cho lập kho dự trữ thóc để đề phòng mất mùa. Ông cũng cho thi hành chế độ tiền dưỡng liêm để phòng trừ tệ nạn tham nhũng trong hàng ngũ quan lại nhà Nguyễn.
[sửa] Phân chia hành chính
Nguyễn Phúc Ánh phân chia đất nước thành 2 tổng trấn: (Bắc Hà, Nam Hà), 2 vùng (miền Trung và Kinh kỳ). Cụ thể như sau:
Tổng trấn Bắc Hà có 11 trấn là:
5 nội trấn: Hải Dương, Kinh Bắc, Sơn Nam thượng, Sơn Nam hạ, Sơn Tây.
6 ngoại trấn: Cao Bằng, Hưng Hóa, Lạng Sơn, Quảng Yên, Thái Nguyên, Tuyên Quang.
Tổng trấn Nam Hà có 5 trấn là: Biên Hòa, Hà Tiên,
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Bước tới: menu, tìm kiếm
Gia Long
Tên húy
Nguyễn Phúc Ánh
Sinh
1762
Mất
1820
Trị vì
1802 - 1820
Triều đại
Nhà Nguyễn
Niên hiệu
Gia Long (1802 - 1820)
Miếu hiệu
Thế Tổ
Thụy hiệu
Cao Hoàng Đế
Nguyễn Phúc Ánh (chữ Hán: 阮福映; 1762–1820), là người đã lập ra triều đại nhà Nguyễn, lên ngôi ngày 1 tháng 6 âm lịch năm 1802, đặt niên hiệu là Gia Long (嘉隆). Ông phong cho trọng thần Nguyễn Văn Thành về Thăng Long (tức Hà Nội ngày nay) làm Tổng trấn Bắc Thành còn mình thì trở về kinh đô Phú Xuân (tức Huế ngày nay), đặt quốc hiệu là Việt Nam một cách chính thức[1]. Ông cũng là người lập ra hệ nhất chánh Nguyễn Phước.
Mục lục
[giấu]
1 Tiểu sử
2 Quá trình thống nhất đất nước
2.1 Nguyễn Ánh và triều đình Louis XVI
2.2 Những giúp đỡ của người Pháp
3 Cai trị đất nước
3.1 Các chính sách với người Pháp
3.2 Các chính sách cai trị trong nước
3.3 Phân chia hành chính
4 Việc truyền ngôi và gia đình riêng
4.1 Việc truyền ngôi
4.2 Gia đình riêng
5 Nhận định
6 Chú thích
7 Liên kết ngoài
[sửa] Tiểu sử
Ông là hoàng tử thứ 3 của Nguyễn Phúc Luân. Lúc còn tuổi thơ ấu, ông rất được Chúa Nguyễn Phúc Thuần thương yêu, nên được ở trong học đường Vương phủ. Vào tuổi thiếu niên, ông đã tỏ ra là người tài trí, khôn ngoan với đức tính khoan hòa, đầy nghị lực của người có khả năng lập nghiệp lớn.
Năm 1777 khi Thái Thượng Vương Nguyễn Phúc Thuần, cùng với cháu là Hoàng thân Nguyễn Phúc Đồng (con Nguyễn Phúc Luân - anh Phúc Ánh) và Tống Phước Thuận, Nguyễn Doanh Khoảng... bị Nguyễn Huệ bắt tại Long Xuyên và đem về Sài Gòn giết, thì chỉ có một mình hoàng thân Nguyễn Phúc Ánh thoát nạn. Ông chạy ra đảo Thổ Chu (trấn Hà Tiên) và từ đó mọi quyền hành quốc sự của các chúa Nguyễn do ông thống lĩnh.
Năm 1778, khi 16 tuổi ông được ba quân suy tôn lên làm nguyên soái nhiếp chính quốc và khởi binh chiếm lại Gia Định.
Trong 24 năm, được sự giúp đỡ của dân chúng vùng đất mới khai hoá từ Gia Định đến Phú Quốc, từ Cà Mau đến Hà Tiên, ông đã cùng với các tướng lĩnh vượt qua mọi gian nguy, bao phen vào sinh ra tử, kiên cường chống lại quân Tây Sơn. Cuối cùng, với sự hậu thuẫn của người Pháp cũng như nhờ có các mâu thuẫn nội bộ của nhà Tây Sơn, ông đã khôi phục lại xứ Đàng Trong của các Tiên Chúa. Năm 1801 ông tiến quân ra Bắc Hà, đánh bại hoàn toàn nhà Tây Sơn; năm 1802 lập nên nước Việt Nam thống nhất từ Nam chí Bắc, từ mũi Cà Mau đến ải Nam Quan như ngày nay.
Sau 18 năm ở ngôi, ông băng hà năm 1820 và được đặt miếu hiệu là Thế Tổ Cao Hoàng Đế (世祖高皇帝). Lăng của ông hiệu Thiên Thọ, tại làng Định Môn, huyện Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên. Tôn thờ ông tại Chánh Án Miếu ở Thế Miếu trong Đại Nội kinh thành Huế.
Sách Hoàng tộc lược biên có viết:
Lăng của Ngài là lăng Diên Thọ, thuộc địa phận làng Định Môn, huyện Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên. Lăng Bà Thừa Thiên Cao Hoàng Hậu và Bà Thuận Thiên Cao Hoàng Hậu, nguyên phối và đệ nhị phối của Ngài cũng đều táng tại vùng ấy cả. Ngài và hai Bà đều thờ tại Chánh án Thế Miếu và tại Chánh án điện Phụng Tiên ở Kinh Thành Nội.
[sửa] Quá trình thống nhất đất nước
[sửa] Nguyễn Ánh và triều đình Louis XVI
Trong quá trình vào miền Nam để lẩn tránh cuộc tìm kiếm của phong trào Tây Sơn, Nguyễn Ánh đã có dịp làm quen với một giáo sĩ người Pháp trong "Hội truyền đạo nước ngoài" là Pigneau de Béhaine (tức Bá-đa-lộc). Mối quan hệ của Nguyễn Ánh và Pigneau de Béhaine ngày càng thắt chặt và hình ảnh nước Pháp ngày càng lớn dần trong tâm trí của Nguyễn Ánh, ông nảy sinh ý định cầu viện các nước phương Tây.
Vào cuối năm 1783, giám mục Pigneau de Béhaine được giao nhiệm vụ làm sứ thần thay mặt Nguyễn Ánh sang Pháp cầu viện triều đình vua Louis XVI. Sinh mạng của vị hoàng tử trưởng 4 tuổi Nguyễn Phúc Cảnh đã bị đưa ra "thế chấp" trong cuộc cầu viện này[2].
Sau một năm chuẩn bị, ngày 25 tháng 11 năm 1784 giám mục Pigneau de Béhaine đã cùng Hoàng tử Cảnh và phái đoàn đem quốc thư của Nguyễn Ánh xuống thuyền đi Malacca rồi sang Pondichéry ở Ấn Độ (thuộc Pháp). Tại đây có một số vấn đề rắc rối nên hành trình sang Pháp bị trì hoãn. Mãi đến giữa năm 1786 phái đoàn mới rời khỏi Pondichéry và sang hải cảng Lorient ở Pháp vào tháng 2 năm 1787. Mất một thời gian vận động khá lâu thì đến đầu tháng 5 năm 1787 Pigneau de Béhaine cùng Hoàng tử Cảnh mới tiếp kiến được vua Louis XVI. Ngày 28 tháng 11 năm 1787, tại cung điện Versailles Thượng thư Bộ Ngoại giao Pháp là Armand Marc, Bá tước de Montmorin, thay mặt vua Pháp ký với đại diện của Nguyễn Ánh là giám mục Pigneau de Béhaine bản hiệp ước "Tương trợ tấn công và phòng thủ" (thường gọi là Hiệp ước Versailles). Hiệp ước này gồm có 10 khoản, nội dung chính là về việc vua Pháp cam kết cung cấp cho Nguyễn Ánh 4 chiếc tàu chiến loại frégaté cùng 1.650 binh sĩ và các phương tiện trang bị vũ khí tương ứng; ngược lại Nguyễn Ánh chấp thuận nhường cửa biển Đà Nẵng và quần đảo Côn Lôn cho Pháp, cho phép người Pháp được quyền tự do buôn bán và kiểm soát thương mại của người nước ngoài ở Việt Nam, cung cấp lương thực và quân nhu thiết yếu cho Pháp khi Pháp có chiến tranh với một nước khác ở khu vực Viễn Đông.
Hiệp ước Versailles 1787 chính thức đánh dấu mối quan hệ ràng buộc giữa hai chính quyền Louis XVI và Nguyễn Ánh, cho phép nước Pháp có cơ sở pháp lý để đòi hỏi quyền lợi ở Việt Nam một cách hợp lý về sau và khẳng định trước thế giới phương Tây quyền thâm nhập Việt Nam của tư bản Pháp[3].
[sửa] Những giúp đỡ của người Pháp
Ngày 27 tháng 12 năm 1787, Pigneau de Béhaine rời nước Pháp cùng Hoàng tử Cảnh và trở lại Pondichéry để đợi sự chi viện từ phía chính quyền Louis, nhưng ngày 14 tháng 7 năm 1789 giai cấp tư sản Pháp đã làm cuộc cách mạng lật đổ triều đại phong kiến Louis, thiết lập nền cộng hòa tư sản. Chờ mãi mà không nhận được sự chi viện, giám mục Pigneau de Béhaine đã quyên góp tiền từ các thương gia có mưu đồ đặt cơ sở buôn bán ở Việt Nam cùng với số tiền 15.000 franc Pháp của gia đình mình cho, đem mua súng đạn và tàu chiến. Tháng 7 thì giám mục Pigneau de Béhaine cùng Hoàng tử Cảnh về đến Gia Định. Các hoạt động quyên góp sau này về tiền hay xây dựng, sửa sang thành Gia Định, Vĩnh Long, Châu Đốc, Hà Tiên, Biên Hòa, Bà Rịa, huấn luyện cơ đội pháo thủ, tổ chức bộ binh và rèn luyện tập binh lính theo lối châu Âu,... đều có sự góp sức của những người Pháp mà do Pigneau de Béhaine chiêu mộ, kêu gọi.
Các hoạt động giúp đỡ Nguyễn Ánh về mặt quân sự của giám mục Pigneau de Béhaine không phải là sự trợ giúp chính thức của chính phủ Pháp mà chỉ là hành động tự nguyện của một nhóm người theo sự vận động cá nhân của giám mục. Thực tế này đã bị cuộc cách mạng 1789 ở Pháp biến thành một "sự nhập nhằng không rõ ràng" và những biến động liên tục của nước Pháp từ cuộc cách mạng này khiến hơn nửa thế kỷ sau nước Pháp luôn phải hoài nghi và nuôi hy vọng hão huyền về những quyền lợi tại Việt Nam mà họ nghĩ lý ra là họ phải được nhận. Chính phủ Pháp chỉ còn ghi nhớ hiệp ước 1787 và công cuộc trợ giúp của người Pháp đối với Nguyễn Ánh ở Việt Nam, ngoài ra không còn một bằng cớ xác đáng nào về vấn đề đó[3].
[sửa] Cai trị đất nước
[sửa] Các chính sách với người Pháp
Sau khi lên ngôi hoàng đế năm 1802, Nguyễn Ánh lên ngôi lấy hiệu Gia Long và vẫn tiếp tục những biểu hiện tỏ ra thân mật với người Pháp. Ông trả công hậu hĩ cho những người đã từng theo giúp mình, một số sĩ quan người Pháp cũng được làm quan trong triều đình Huế với những ưu đãi đặc biệt. Các giáo sĩ Thiên Chúa giáo không bị cấm đoán và tự do đi truyền đạo khắp nơi. Về mặt hình thức vua Gia Long là người có những quan hệ tốt với nước Pháp, đối xử với họ như những kẻ phải mang ơn. Chính những biểu hiện đó khiến người ta thường đánh giá Gia Long trong bản chất Nguyễn Ánh, phê phán Gia Long về những hành động khi ông đang còn là Nguyễn Ánh. Do vậy, hình ảnh Gia Long trở nên không tốt đẹp vì sự tồi tệ mà Nguyễn Ánh đã tạo ra trong lịch sử dân tộc[3].
Gia Long mặc dù rất hậu đãi với người Pháp nhưng ông chỉ cho bổng lộc, chức tước mà không ban quyền hạn, do đó họ không chi phối được chính sự nhà Nguyễn. Nhà vua thường cảnh tỉnh các triều thần về mối đe dọa sự an nguy của quốc gia từ sự thông thương và truyền đạo của Pháp. Nhà vua đã nhiều lần tỏ ra rất hài lòng về việc trước kia không nhận được cứu viện của triều đình Louis XVI[4]. Ông vẫn giữ gìn không thắt chặt mối liên lạc chính thức cũng như các cam kết chính trị với chính phủ phương Tây để khỏi sa vào những lỗi lầm dẫn đến số phận như Ấn Độ[5].
[sửa] Các chính sách cai trị trong nước
Ông đã xếp đặt lại cơ cấu điều hành quốc gia, cho soạn bộ luật mới có tên gọi là Hoàng Việt luật lệ (còn gọi là "luật Gia Long"), do Tổng trấn Bắc Thành Nguyễn Văn Thành chủ biên, bộ luật này gần như lấy nguyên mẫu là luật nhà Thanh cho nên nhìn tổng thể khá khắc nghiệt và không được tiến bộ như bộ Luật Hồng Đức của nhà Lê, thành lập Quốc Tử Giám ở kinh đô, ấn định học hiệu và các loại thuế. Công cuộc cai trị đất nước được thuận lợi sau khi thực hiện các việc lớn như: tổ chức triều đình gồm có lục bộ là: Lại, Công, Lễ, Hộ, Binh, Hình do thượng thư (tương đương nhự bộ trưởng ngày nay) đứng đầu và đô sát viện do Tả, Hữu đô ngự sử đứng đầu với hoạt động giống như của các cơ quan thanh tra, giám sát hiện nay; ông phân chia khu vực hành chính thành các tổng trấn (vùng), trấn (doanh), phủ, huyện, xã; ấn định quyền hạn các chức tước, lương bổng, văn võ theo các cấp bậc (cả văn và võ đều có chín bậc), tu soạn sách sử, văn truyện, địa lý (nổi tiếng nhất là Nhất thống địa dư chí), lập dinh Điền Sứ trông coi việc khai khẩn ruộng đất. Ở các trấn, ông cho lập kho dự trữ thóc để đề phòng mất mùa. Ông cũng cho thi hành chế độ tiền dưỡng liêm để phòng trừ tệ nạn tham nhũng trong hàng ngũ quan lại nhà Nguyễn.
[sửa] Phân chia hành chính
Nguyễn Phúc Ánh phân chia đất nước thành 2 tổng trấn: (Bắc Hà, Nam Hà), 2 vùng (miền Trung và Kinh kỳ). Cụ thể như sau:
Tổng trấn Bắc Hà có 11 trấn là:
5 nội trấn: Hải Dương, Kinh Bắc, Sơn Nam thượng, Sơn Nam hạ, Sơn Tây.
6 ngoại trấn: Cao Bằng, Hưng Hóa, Lạng Sơn, Quảng Yên, Thái Nguyên, Tuyên Quang.
Tổng trấn Nam Hà có 5 trấn là: Biên Hòa, Hà Tiên,
* Một số tài liệu cũ có thể bị lỗi font khi hiển thị do dùng bộ mã không phải Unikey ...
Người chia sẻ: Nguyễn Thái Bình
Dung lượng: |
Lượt tài: 1
Loại file:
Nguồn : Chưa rõ
(Tài liệu chưa được thẩm định)