Tư liệu Đông NAm Á

Chia sẻ bởi Lò Kiều Oanh | Ngày 09/05/2019 | 143

Chia sẻ tài liệu: Tư liệu Đông NAm Á thuộc Lịch sử 12

Nội dung tài liệu:

Bài Thực Hành
Các nước ĐÔNG NAM Á
MALAYSIA
Quốc kỳ Quốc huy

Malaysia (tiếng Mã Lai: Malaysia;âm Hán Việt: Mã Lai Tây Á) là một liên bang gồm mười ba bang tại Đông Nam Á.Nước này gồm hai vùng địa lý bị chia tách bởi Biển Đông
Bán đảo Malaysia (hay Tây Malaysia) trên Bán đảo Malay có biên giới trên bộ ở phía bắc với Thái Lan và thông qua Đường nổi Johor-Singapore và Đường nối Malaysia-Singapore thứ hai ở phía nam nối với Singapore. Nó gồm chín lãnh thổ quốc vương hồi giáo (Johor, Kedah, Kelantan, Negeri Sembilan, Pahang, Perak, Perlis, Selangor và Terengganu), hai bang dưới sự lãnh đạo của Thống đốc (Malacca và Penang), và hai lãnh thổ liên bang (Putrajaya và Kuala Lumpur).
Đông Malaysian (hay Borneo thuộc Malaysia) chiếm phần phía bắc đảo Borneo, giáp biên giới với Indonesia và bao quanh Vương quốc Hồi giáo Brunei. Nó gồm các bang Sabah và Sarawak lãnh thổ liên bang Labuan .
Cái tên "Malaysia" được chấp nhận năm 1963 khi Liên bang Malaya (tiếng Malay: Persekutuan Tanah Melayu), Singapore, Sabah và Sarawak hình thành một liên bang 14 bang. Singapore đã rời khỏi liên bang năm 1965 và sau đó trở thành một quốc gia độc lập.
Dù chính trị thuộc quyền thống trị của người Malay, xã hội Malaysia hiện đại không đồng nhất, với cộng đồng người Trung Quốc và Ấn Độ khá lớn. Chính trị Malaysia đáng lưu ý ở cái gọi là tính cộng đồng của nó; ba thành phần chính của Barisan Nasional đều giới hạn đảng viên trong sắc tộc của mình. Tuy nhiên, cuộc tranh giành bạo lực lớn duy nhất giữa các cộng đồng từ khi giành được độc lập là vụ náo loạn chủng tộc ngày 13 tháng 5 năm 1969 xảy ra khi chiến dịch vận động của một tranh cử bị các vấn đề sắc tộc gây ảnh hưởng.
"Ma Lay" theo tiếng Mã Lai là "hoàng kim".
مليسيا
Persukutuan Malaysia
Khẩu hiệu
Bersekutu Bertambah Mutu
(tiếng Mã Lai: "Đoàn kết là sức mạnh")Quốc ca
Negaraku

Thủ đôKuala Lumpur và Putrajaya
2°30′B, 112°30′ĐThành phố lớn nhấtKuala Lumpur
Ngôn ngữ chính thứctiếng Mã Lai
Chính phủquân chủ lập hiến liên bang 
 Vua Thủ tướng:Mizan Zainal Abidin
Abdullah Ahmad BadawiĐộc lập Từ Anh (chỉ Malaya)31 tháng 8 năm 1957  - Liên bang (với Sabah, Sarawak và Singapore² )16 tháng 9 năm 1963 
Diện tích - Tổng số329,758 km² (hạng 64)
 - Nước (%)0,3%Dân số - Ước lượng 200526.207.102 (hạng 46) - Điều tra 200023.953.136 (hạng 46) - Mật độ78 /km² (hạng 97)
GDP (PPP)Ước tính 2005 - Tổng số290 tỷ đô la Mỹ (hạng 33) - Theo đầu người12.106 đô la Mỹ (hạng 62)HDI (2003)0,796 (trung bình) (hạng 61)
Đơn vị tiền tệRinggit Malaysia (RM) (MYR)Múi giờSST (UTC+8)
Tên miền Internet.my
Mã số điện thoại+60¹¹ 020 từ Singapore
² Singapore đã trở thành nước độc lập từ ngày 9 tháng 8 năm 1965
Địa lí
Vị trí địa lý
 Đất nước Malaysia nằm ở khu vực Đông Nam Á. Bán đảo xinh đẹp  này tiếp  giáp với Thái Lan và 1/3 đảo Borneo, giáp với các nước như Brunei, và biển của Trung Quốc về phía Nam, và phía Nam của đất nước Việt Nam
 
Tọa độ địa lý
 230 độ về phía Bắc , 112,30 độ về phía Đông
 
Diện tích
 Tổng diện tích lãnh thổ là 329.750 km2 , trong đó diện tích đất liền chiếm 328.550 km2 và diện tích biển chiến 1.200 km2
  
Đường biên giới đất liền
 Đường biên giới đất liên có tổng chiều dài là 2.669 km, trong đó đường biên giới đất liền của các quốc gia tiếp giáp như sau: Brunei 381 km, Indonesia 1.782 km, Thailand 506 km
 
Đường bờ biển
  Dài 4.675 km (trong đó bán đảo Malaysia dài 2.068, phía Đông Malaysia dài 2.607 km)
 
Khí hậu
 Khí hậu nhiệt đới , ẩm và đặc biệt có gió mùa hàng năm ở những khu vực phía Tây Nam (kéo dài từ tháng 4 đến tháng 10) và khu vực Đông Bắc ( kéo dài từ tháng 10 đến tháng 3 của năm sau)
 
Độ cao so với mặt biển
 Điểm thấp nhất đạt 0m tại khu vực Ấn Độ Dương, và điểm cao nhất đạt được là 4.100m tại khu vực Gunung Kinabalu 
  
Vấn đề môi trường hiện nay
 Vấn đề ô nhiễm môi trường từ các chất thải công nghiệp và xe cộ; ô nhiễm nguồn nước  từ các ống dẫn dầu thô; nạn chặt phá rừng bừa bãi, và khói bụi/ khói mờ tỏa ra từ các đám cháy rừng ở nước lân cận Indonesia 
 
 Ghi chú về địa lý
 Ở vị trí chiến lược dọc theo eo biển Malacca và biển Trung Quốc về phía Nam

Lịch Sử
Bán đảo Malay đã phát triển thịnh vượng nhờ vị trí trung tâm của mình trên những con đường thương mại trên biển giữa Trung Quốc, Ấn Độ và Trung Đông. Ngay từ sớm, Ptolemy đã thể hiện trên tấm bản đồ của mình một dấu hiệu được dịch là "Bán đảo vàng", Eo Malacca được gọi là "Sinus Sabaricus". Từ giữa tới cuối thiên niên kỷ thứ nhất, đa số Bán đảo cũng như Quần đảo Malay were nằm dưới tầm ảnh hưởng của Srivijaya.
Mọi người cho rằng ban đầu đây là những quốc gia Hindu hay Phật giáo. Bằng chứng đầu tiên của Hồi giáo trên bán đảo Malay có niên đại từ thế kỷ 14 tại Terengganu, nhưng theo Biên niên sử Kedah, Maharaja Derbar Raja thứ 9 của Vương quốc Hồi giáo Kedah đã cải sang đạo Hồi và đổi tên thành Quốc vương Hồi giáo Muzaffar Shah. Từ đó đã có 27 quốc vương Hồi giáo cai trị Kedah.
Có rất nhiều vương quốc Malay ở thế kỷ thứ 2 và 3 CE, theo các nguồn thông tin Trung Quốc, con số này lên tới 30. Kedah – cũng được gọi là Kedaram hay Kataha, trong tiếng Pallava hay tiếng Phạn cổ – là con đường thương mại cũng như xâm lược trực tiếp của các nhà buôn và vua chúa Ấn Độ. Rajendra Chola, hiện được cho là đã khiến Kota Gelanggi bị tàn phá, đã giày xéo Kedah năm 1025 nhưng người kế tục ông, Vir Rajendra Chola, đã tiêu diệt một cuộc nổi dậy Kedah và đuổi quân xâm lược. Sự xuất hiện của Chola khiến tầm ảnh hưởng của Srivijaya, triều đình đã gây anh hưởng trên Kedah và Pattani và thậm chí tới cả Ligor, giảm sút.
Một Famosa được người Bồ Đào Nha xây dựng ở thế kỷ 15.
Vương quốc Ligor Phật giáo chiếm quyền kiểm soát Kedah một thời gian ngắn sau đó, và vị vua của nó Chandrabhanu đã dùng nơi này làm căn cứ tấn công Sri Lanka ở thế kỷ 11, và thậm chí đã được nhắc tới trên một bản văn khắc đá tại Nagapattinum ở Tamil Nadu và trong biên niên sử Sri Lanka, Mahavamsa. Trong thiên niên kỷ đầu tiên, người dân trên bán đảo Malay đã chấp nhận Hindu giáo và Phật giáo và sử dụng ngôn ngữ tiếng Phạn cho tới khi họ cải theo Đạo Hồi, nhưng không trước khi Hindu giáo và Phật giáo và tiếng Phạn lẫn vào trong quan điểm về thế giới của người Malay. Những dấu vết về những ảnh hưởng trong các quan niệm chính trị, cơ cấu xã hội, nghi lễ, ngôn ngữ, nghệ thuật và văn hóa vẫn còn tồn tại cho đến ngày nay.
Có những thông báo về các vùng khác cổ hơn Kedah – ví dụ vương quốc cổ Ganganegara, quanh Bruas tại Perak, – khiến lịch sử Malaysia thậm chí được kéo lùi xa hơn tới tận thời cổ đại. Nếu đó chưa đủ là bằng chứng, một bài thơ Tamil, Pattinapillai, ở thế kỷ thứ hai sau Công Nguyên, đã miêu tả những hàng hóa từ Kadaram tràn ngập trên những đường phố thủ đô Chola; một vở kịch tiếng Phạn thế kỷ thứ bảy, Kaumudhimahotsva, coi Kedah như Kataha-nagari. Agnipurana cũng đề cập tới một lãnh thổ được gọi là Anda-Kataha với một trong những biên giới được xác định bởi một đỉnh cao, mà các nhà sử học tin là Gunong Jerai. Những câu chuyện trong Katasaritasagaram miêu tả cuộc sống thanh lịch tại Kataha. Đầu thế kỷ 15, Vương quốc Hồi giáo Malacca được thành lập dưới một triều đại do Parameswara, một hoàng tử từ Palembang với liên hệ huyết thống với hoàng gia Srivijaya, người đã phải bỏ chạy khỏi Temasek (Singapore hiện nay) sáng lập. Parameswara đã quyết định thành lập vương quốc của mình tại Malacca sau khi chứng kiến một tai nạn bất ngờ khi một chú nai trắng đá một trong những con chó săn của ông. Ông coi đó là một dấu hiệu may mắn và đặt tên cho vương quốc của mình là "Melaka" theo tên loài cây ông đang ngồi dưới nghỉ ngơi. Ở thời đỉnh cao, vương quốc hồi giáo đã kiểm soát nhiều vùng hiện là Bán đảo Malaysia, nam Thái Lan (Patani), và bờ biển phía đông Sumatra. Nó đã tồn tại trong hơn một thế kỷ, và khoảng thời gian này chính là lúc Đạo Hồi lan tràn ra hầu hết Quần đảo Malay.Malacca là cảng thương mại tiền đồn thời ấy tại Đông Nam Á.[9]
Năm 1511, Malacca bị người Bồ Đào Nha chinh phục, và họ đã lập ra một thuộc địa ở đó. Những người con trai của vị quốc vương Hồi giáo cuối cùng của Malacca đã thành lập nên những vương quốc Hồi giáo ở nhiều địa điểm khác trên bán đảo - Vương quốc Hồi giáo Perak ở phía bắc, và Vương quốc Hồi giáo Johor (ban đầu là sự tiếp nối của Vương quốc Hồi giáo Malacca) ở phía nam. Sau khi Malacca sụp đổ, ba bên chiến đấu giành quyền kiểm soát Eo Malacca: người Bồ Đào Nha (tại Malacca), Vương quốc Hồi giáo Johor, và Vương quốc Hồi giáo Aceh. Cuộc xung đột này kéo dài đến tận năm 1641, khi người Hà Lan (liên minh với Vương quốc Hồi giáo Johor) giành quyền kiểm soát Malacca.
Tòa nhà Vua Hồi giáo Abdul tại Kuala Lumpur nơi đóng trụ sở của Tòa án Cấp cao Malaya và Tòa án Thương mại. Kuala Lumpur từng là thủ đô của Liên minh các Bang Malay và thủ đô Malaysia hiện nay.
Anh Quốc đã thành lập thuộc địa đầu tiên của mình tại bán đảo Malay năm 1786, với việc cho thuê đảo Penang cho Công ty Đông Ấn Anh của Quốc vương Hồi giáo Kedah. Năm 1824, người Anh nắm quyền kiểm soát Malacca sau Hiệp ước Anh-Hà Lan 1824 phân chia quần đảo Malaya giữa Anh và Hà Lan, Malaya thuộc vùng của Anh. Năm 1826, Anh Quốc lập thuộc địa chưa độc lập (crown colony) Straits Settlements, thống nhất ba vùng thuộc sở hữu của họ tại Malaya: Penang, Malacca và Singapore. Straits Settlements nằm dưới quyền quản lý hành chính của Công ty Đông Ấn tại Calcutta cho tới năm 1867, khi quyền này được chuyển giao cho Văn phòng Thuộc địa tại London.
Cuối thế kỷ 19, nhiều bang Malay đã quyết định nhờ sự giúp đỡ của Anh để giải quyết các cuộc xung đột nội bộ của họ. Tầm quan trọng trong thương mại của ngành mở thiếc tại các bang Malay với các thương gia tại Straits Settlements khiến chính phủ Anh phải can thiệp vào các bang sản xuất thiếc trên Bán đảo Malay. Chính sách ngoại giao thuyền chiến của Anh được áp dụng để mang lại giải pháp hòa bình cho sự bất ổn do những tên cướp Trung Hoa gây ra, và Hiệp ước Pangkor năm 1874 đã mở đường cho sự mở rộng ảnh hưởng Anh tại Malaya. Tới đầu thế kỷ 20, các bang Pahang, Selangor, Perak, và Negeri Sembilan, được gọi chung là Liên minh các Bang Malay (không nên nhầm với Liên bang Malaya), trên thực tế nằm dưới quyền điều khiển của các Toàn quyền được chỉ định để cố vấn cho các vị vua cai trị Malay. Trên danh nghĩa người Anh chỉ là "cố vấn", nhưng trên thực tế họ có ảnh hưởng mang tính quyết định với mọi vị vua cai trị Malay.
Năm bang còn lại trên Bán đảo Malay, được gọi là Các bang Malay không Liên minh, tuy không trực tiếp nằm dưới quyền quản lý của London, cũng đã chấp nhận các cố vấn Anh ở đầu thế kỷ 20. Trong số họ, bốn bang phía bắc là Perlis, Kedah, Kelantan và Terengganu từng nằm dưới tầm ảnh hưởng của Xiêm trước kia.
Trên đảo Borneo, Sabah được cai quản như thuộc địa chưa độc lập British North Borneo, tuy Sarawak đã được Brunei chấp nhận là một vương quốc riêng của gia đỉnh Brooke, những người cai trị như những Rajahs Trắng.
Sau khi người Nhật chiếm Malaya) trong Chiến tranh thế giới thứ hai, sự ủng hộ của dân chúng cho một nền độc lập ngày càng tăng.[10] Những kế hoạch hậu chiến của Anh nhằm thống nhất quản lý hành chính Malaya dưới một thuộc địa duy nhất được gọi là Liên minh Malaya hình thành trong sự phản đối mạnh mẽ từ người Malay, họ phản đối sự nhu nhược của tầng lớp cai trị Malay và việc trao quyền công dân cho những người Trung Quốc.Liên minh Malaya, được thành lập năm 1946 và gồm tất cả các vùng đất thuộc quyền quản lý của Anh tại Malaya ngoại trừ Singapore, đã giải tán năm 1948 và bị thay thế bởi Liên bang Malaya, giữ lại quyền tự trị của những vị vua cai trị các bang Malay dưới sự bảo hộ của Anh.
Trong thời gian này, những người nổi dậy dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Malaya đã tung ra các cuộc tấn công du kích nhằm đẩy lực lượng Anh khỏi Malaya. Tình trạng khẩn cấp Malaya, như nó từng được gọi, kéo dài từ 1948 tới 1960, và dẫn tới một chiến dịch chống nổi dậy kéo dài của quân đội Khối thịnh vượng chung Anh ở Malaya. Chống lại tình hình này, nền độc lập cho liên minh trong Khối thịnh vượng chung đã được trao ngày 31 tháng 8 năm 1957.
Năm 1963 Liên bang được đổi tên thành Malaysia với sự chấp nhận của các thuộc địa khi ấy của Anh là Singapore, Sabah (British North Borneo) và Sarawak. Vương quốc Hồi giáo Brunei, dù ban đầu thể hiện ý muốn gia nhập Liên bang, đã rút khỏi kế hoạch hợp nhất vì sự chống đối từ một số phe phái nhân dân cũng như những tranh cãi về việc chi trả các khoản đặc lợi dầu mỏ và vị thế Vương quốc Hồi giáo của kế hoạch hợp nhất.
Buổi đầu độc lập đã gặp trở ngại bởi cuộc xung đột với Indonesia (Konfrontasi) về việc thành lập Malaysia, sự rút lui năm 1965 của Singapore và cuộc tranh giành sắc tộc dưới hình thức những cuộc bạo loạn sắc tộc năm 1969.[8][16] Philippines cũng đưa ra tuyên bố chủ quyền với Sabah trong giai đoạn đó vì Vương quốc Hồi giáo Brunei nhượng lại những lãnh thổ đông bắc của họ cho Vương quốc Hồi giáo Sulu năm 1704. Tranh cãi lãnh thổ này vẫn đang tiếp diễn.Sau những vụ bạo loạn sắc tộc ngày 13 tháng 5 năm 1969, Chính sách Kinh tế Mới gây nhiều tranh cãi – được dự định làm gia tăng phần sở hữu trong nền kinh tế của các bumiputra ("người bản xứ", gồm cả cộng đồng người Malay đa số, nhưng không phải luôn là người bản xứ) đối lập với các nhóm sắc tộc khác - được Thủ tướng Tun Abdul Razak đưa ra . Từ đó Malaysia đã duy trì một sự cân bằng sắc tộc-chính trị mong manh, với một hệ thống chính phủ nỗ lực tổng hợp các lợi ích phát triển kinh tế với chính trị và các chính sách kinh tế dành ưu tiên cho Bumiputra.
Trong khoảng thập niên 1980 và giữa thập niên 1990, Malaysia trải qua thời kỳ tăng trưởng kinh tế đáng kinh ngạc với Thủ tướng Tun Dr Mahathir bin Mohamad.[19] Giai đoạn này cũng là sự chuyển đổi từ nền kinh tế dựa trên nông nghiệp sang chế tạo và công nghiệp trong những khu vực như máy tính và hàng điện tử tiêu dùng. Cũng ở thời gian này, bộ mặt Malaysia đã thay đổi với sự xuất hiện của nhiều dự án lớn. Đáng chú ý nhất là những dự án như Tháp đôi Petronas (khi ấy là toà nhà cao nhất thế giới), Sân bay Quốc tế KL (KLIA), Đường cao tốc Bắc-Nam, Đường đua F-1 Sepang, Siêu Hành lang Truyền thông (MSC), đập thuỷ điện Bakun và Putrajaya, một thủ đô hành chính liên bang mới.
Cuối thập niên 1990, Malaysia rung động bởi cuộc Khủng hoảng tài chính Châu Á cũng như tình trạng chính trị bất ổn do việc sa thải phó thủ tướng Dato` Seri Anwar Ibrahim.[20] Năm 2003, Tiến sĩ Mahathir, thủ tướng có thời gian cầm quyền dài nhất tại Malaysia về hưu, nhường chỗ cho phó thủ tướng Abdullah Badawi.
Chính Trị
Malaysia là một Liên bang Quân chủ theo bầu cử lập hiến . Nguyên thủ quốc gia Liên bang Malaysia là Yang di-Pertuan Agong, thường được gọi là Vua Malaysia. Yang di-Pertuan Agong được bầu với nhiệm kỳ năm năm trong số chín người thừa kế các Quốc vương Hồi giáo của các bang Malay; bốn bang kia, theo chế độ Thống đốc, không tham gia vào việc lựa chọn ngôi vua.
Hệ thống chính phủ tại Malaysia theo sát hình thức hệ thống nghị viện Westminster, một di sản thời kỳ thuộc địa Anh. Tuy nhiên, trên thực tế quyền lực được trao nhiều hơn cho nhánh hành pháp chứ không phải lập pháp, và tư pháp đã bị suy yếu sau những mưu toan của chính phủ thời thủ tướng Mahathir. Từ khi độc lập năm 1957, Malaysia đã nằm dưới sự điều hành của một liên minh đa đảng, được gọi là Barisan Nasional (trước kia gọi là Liên minh).
Quyền lập pháp được phân chia giữa liên bang và các cơ quan lập pháp bang. Lưỡng viện gồm hạ viện, Viện đại biểu hay Dewan Rakyat (dịch nghĩa "Viện Nhân dân") và thượng viện, Senate hay Dewan Negara (dịch nghĩa "Viện Quốc gia").219 thành viên của Viện đại biểu được bầu từ các đơn vị bầu cử một đại biểu được lập ra dựa trên số dân với nhiệm kỳ tối đa 5 năm. Tất cả 70 thượng nghị sĩ có nhiệm kỳ 3 năm; 26 người được bầu bởi 13 quốc hội bang, 2 đại diện cho lãnh thổ liên bang Kuala Lumpur, 1 cho mỗi lãnh thổ liên bang Labuan và Putrajaya, và 40 do nhà vua chỉ định. Bên cạnh Nghị viện ở mức độ liên bang, mỗi bang đều có một viện lập pháp riêng (Tiếng Malay:Dewan Undangan Negeri) đại biểu của các viện này được bầu từ các đơn vị bầu cử một đại biểu. Bầu cử nghị viện được tổ chức ít nhất một lần mỗi năm năm, cuộc bầu cử gần đây nhất diễn ra tháng 3 năm 2004.Nội các được lựa chọn trong những thành viên của cả hai viện và chịu trách nhiệm trước viện của mình.[
Các chính phủ bang do các chief ministers lãnh đạo (Menteri Besar tại các bang Malay hay Ketua Menteri tại các bang không do lãnh đạo do thừa kế cầm quyền). quốc hội bang (Dewan Undangan Negeri) lựa chọn người lãnh đạo này có tham khảo ý kiến các quốc vương Hồi giáo hay các Thống đốc
Địa Lí
Diện tích của Malaysia là 330.000 km². Malaysia gồm hai phần:
Malaysia bán đảo, gọi là bán đảo Malaysia, phía bắc giáp Thái Lan, phía đông giáp Biển Đông, phía nam giáp eo biển Singapore, phía đông giáp eo biển Malacca.
Malaysia hải đảo, gồm hai bang Sabah và Sarawak ở phía bắc đảo Borneo, giáp Brunei và Indonesia.
Hai phần này chia tách nhau bởi Biển Đông và có nhiều đặc điểm địa hình tương tự ở cả Tây và Đông Malaysia với những đồng bằng ven biển xen giữa những đồi rừng dày đặc và núi non, điểm cao nhất là Núi Kinabalu ở độ cao 4,095.2 mét (13,435.7 ft), cao nhất Đông Nam Á, trên đảo Borneo. Khí hậu địa phương là khí hậu xích đạo đặc trưng bởi những cơn gió mùatây nam (tháng 4 tới tháng 10) và đông bắc (tháng 10 tới tháng 2).
Tanjung Piai, nằm ở bang phía nam Johor, là mũi cực nam của lục địa Châu Á.
Eo Malacca, nằm giữa Sumatra và Bán đảo Malaysia, được cho là tuyến đường hàng hải quan trọng nhất thế giới.
Putrajaya là thủ đô hành chính mới được xây dựng của chính phủ liên bang Malaysia, với mục đích một phần để giảm bớt sự chênh lệch phát triển giữa thành phố thủ đô Kuala Lumpur với các vùng còn lại. Kuala Lumpur vẫn là nơi đóng trụ sở của nghị viện, cũng như thủ đô thương mại và tài chính quốc gia. Các thành phố lớn khác gồm Georgetown, Ipoh, Johor Bahru, Kuching, Kota Kinabalu, Alor Star, Malacca Town, và Klang.
Kinh tế
Bán đảo Malay và cả Đông Nam Á từng là một trung tâm thương mại trong nhiều thế kỷ. Nhiều đồ vật như gốm sứ và gia vị đã được buôn bán thậm chí cả trước thời Malacca và Singapore nổi lên giành ảnh hưởng.
Hình:20070104rubberlatex.jpg Mủ cao su.
Ở thế kỷ 17 cao su đã xuất hiện tại nhiều bang Malay. Sau này, khi người Anh bắt đầu nắm quyền kiểm soát Malaya, cây cao su và dầu cọ được canh tác cho mục đích thương mại. Cùng với thời gian, Malaya đã trở thành nhà sản xuất thiếc, cao su, và dầu cọ lớn trên thế giới.Ba mặt hàng chính này, cộng với các loại nguyên liệu thô khác, đã trở thành căn bản của nền kinh tế Malaysia giai đoạn giữa thế kỷ 20.
Thay vì dựa vào nguồn nhân lực người Malay bản xứ, người Anh đã đưa người Trung Quốc, Ấn Độ tới làm việc tại những mỏ khai thác và trên những cánh đồng. Dù nhiều người trong số họ sau đó đã quay về quê hương khi hết hạn hợp đồng, một số người đã ở lại Malaysia và định cư vĩnh viễn.
Khi Malaya tiến tới độc lập, chính phủ bắt đầu đưa ra những kế hoạch kinh tế năm năm, bắt đầu bằng Kế hoạch Năm năm Malaya lần thứ Nhất năm 1955. Ngay khi Malaysia thành lập, các kế hoạch được đổi tên và đánh số lại, bắt đầu bằng Kế hoạch Malaysia lần thứ Nhất năm 1965.
Trong thập kỷ 1970, Malaysia bắt đầu bắt chước Những con Hổ Châu Á và bắt đầu quá trình chuyển tiếp từ nền kinh tế phụ thuộc vào công nghiệp mỏ và nông nghiệp sang nền kinh tế chế tạo. Với đầu tư từ Nhật Bản, các ngành công nghiệp nặng nhanh chóng phát triển trong vài năm. Xuất khẩu của Malaysia trở thành khu vực mang lại tăng trưởng chủ yếu. Malaysia liên tục đạt mức tăng trưởng GDP hơn 7% với tỷ lệ lạm phát thấp trong thập niên 1980 và 1990.
Cùng trong giai đoạn này, chính phủ đã tìm cách xóa bỏ nghèo đói với Chính sách Kinh tế Mới (NEP) gây nhiều tranh cãi, sau vụ nổi loạn sắc tộc ngày 13 tháng 5 năm 1969. Mục tiêu chính của nước này là xóa bỏ sự liên hệ sắc tộc với chức năng kinh tế, và kế hoạch năm năm đầu tiên áp dụng Chính sách Kinh tế Mới là Kế hoạch Malaysia lần Hai. Thành công hay thất bại của Chính sách Kinh tế mới là chủ đề của nhiều cuộc tranh luận, dù nó đã bị chính thức bãi bỏ năm 1990 và được thay thế bởi Chính sách Phát triển Quốc gia (NDP).
Tuy nhiên, sự bùng nổ kinh tế đã dẫn tới nhiều vấn đề về cung cấp nguyên liệu. Thiếu hụt nhân công nhanh chóng dẫn tới làn sóng hàng triệu lao động nước ngoài tràn vào, nhiều người trong số họ là lao động bất hợp pháp. Cash-rich PLC và các consortium giữa các nhà băng hăm hở lao vào kiếm lợi nhuận từ những dự án hạ tầng lớn. Tất cả chúng đã chấm dứt khi cuộc Khủng hoảng Kinh tế Châu Á xảy ra vào mùa thu năm 1997, gây rúng động nền kinh tế Malaysia.
Tương tự như các quốc gia khác bị ảnh hưởng từ cuộc khủng hoảng này, tình trạng bán ra trước hạn (short-shelling) đồng tiền tệ Malaysia, đồngringgit diễn ra. Đầu tư trực tiếp nước ngoài rơi xuống mức báo động, khi dòng vốn chảy ra khỏi đất nước, giá trị đồng ringgit giảm từ MYR 2.50 trên USD xuống còn, ở một thời điểm, MYR 4.80 trên USD. Chỉ số tổng hợp Thị trường Chứng khoán Kuala Lumpur mất gần 1300 điểm xuống gần mức 400 sau vài tuần. Sau sự sa thải gây tranh cãi bộ trưởng tài chính Anwar Ibrahim, một Hội đồng Hành động Kinh tế Quốc gia được thành lập để giải quyết cuộc khủng hoảng tiền tệ. Ngân hàng Negara đặt ra các biện pháp kiểm soát vốn và chốt giữ tỷ giá đồng ringgit Malaysia ở mức 3.80 trên US dollar. Tuy nhiên, Malaysia đã từ chối các gói hỗ trợ kinh tế từ Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF) và Ngân hàng Thế giới, gây ngạc nhiên cho nhiều nhà phân tích.
Tháng 3 năm 2005, Hội nghị Liên hiệp quốc về Thương mại và Phát triển (UNCTAD) đã xuất bản báo cáo về các nguồn và các bước phục hồi kinh tế cho Malaysia, do Jomo K.S. thuộc Đại học Malaya, Kuala Lumpur thực hiện. Văn bản này kết luận rằng những biện pháp kiểm soát do chính phủ Malaysia áp đặt không cản trở cũng không giúp nền kinh tế hồi phục. Yếu tố chủ chốt là sự tăng trưởng xuất khẩu các sản phẩm điện tử, do sự gia tăng nhu cầu tại Hoa Kỳ, do lo ngại về những hiệu ứng 2000 (Y2K) với các sản phẩm điện tử đời cũ.
Tuy nhiên, sự hạ giá sau sự kiện Y2K năm 2001 không ảnh hưởng tới Malaysia nhiều như các quốc gia khác. Đây có thể là một bằng chứng cho thấy có những lý do và hiệu ứng khác thực sự liên quan tới quá trình phục hồi hơn. Một nguyên nhân có thể là những nhà đầu cơ đã hết tiềm lực tài chính sau vụ tấn công bất thành vào đồng dollar Hong Kong tháng 8 năm 1998 và sau khi đồng Ruble Nga sụp đổ. (Xem George Soros)
Dù những lý lẽ về nguyên nhân/kết quả có thế nào chăng nữa, sự hồi phục của nền kinh tế xảy ra đồng thời với chính sách chi tiêu mạnh của chính phủ và thâm hụt ngân sách trong những năm sau khủng hoảng. Sau này, Malaysia đã có được sự phục hồi kinh tế tốt hơn các nước láng giềng. Tuy nhiên, theo nhiều cách, đất nước này vẫn chưa đạt được mức độ trước khủng hoảng.
Tuy tốc độ phát triển hiện nay không cao, nhưng nó được coi là bền vững. Dù những biện pháp kiểm soát và sự nắm chặt kinh tế có thể không phải là nguyên nhân chính của sự hồi phục, không nghi ngờ rằng lĩnh vực ngân hàng đã trở nên mau chóng phục hồi hơn sau những chấn động từ bên ngoài. Tài khoản vãng lai cũng được đặt trong một thặng dư cơ cấu (The current account has also settled into a structural surplus), cho phép làm giảm nhẹ sự rút lui của nguồn vốn. Giá tài sản hiện chỉ bằng một phần nhỏ so với thời kỳ cao điểm trước khủng hoảng.
Tỷ giá hối đoái cố định đã bị bãi bỏ tháng 7 năm 2005 nhằm tạo thuận lợi cho một hệ thống tỷ giá tự do có quản lý trong thời điểm Trung Quốc công bố cùng một động thái. Cùng trong tuần đó, đồng ringgit đã tăng giá so với hầu hết các đồng tiền tệ chính và được cho là sẽ còn tăng thêm. Tuy nhiên, tới tháng 12 năm 2005 những hy vọng đó đã mất khi dòng vốn rút đi vượt quá 10 tỷ dollar Mỹ.
Tháng 9 năm 2005, Ngài Howard J. Davies, giám đốc Trường Kinh tế London, trong một cuộc gặp gỡ tại Kuala Lumpur, đã cảnh báo các quan chức Malaysia nếu họ muốn có một thị trường vốn linh hoạt, họ sẽ phải dỡ bỏ lệnh cấm bán trước hạn (short-selling) đã được áp dụng trong cuộc khủng hoảng. Tháng 3 năm 2006, Malaysia đã dỡ bỏ lệnh cấm này.
Tài nguyên thiên nhiên
Malaysia giàu các nguồn tài nguyên thiên nhiên trong các lĩnh vực như nông nghiệp, lâm nghiệp và khoáng sản. Về nông nghiệp, Malaysia là nước xuất khẩu hàng đầu thế giới sản phẩm cao su tự nhiên và dầu cọ, gỗ xẻ và gỗ nguyên liệu, cocoa, hạt tiêu, dứa và thuốc lá cũng là những mặt hàng chủ lực trong lĩnh vực này. Dầu cọ là một nguồn thu ngoại tệ lớn.
Về các nguồn tài nguyên lâm nghiệp, cần lưu ý các sản phẩm gỗ chỉ bắt đầu trở thành mặt hàng đóng góp lớn cho kinh tế trong thế kỷ mười chín. Ngày nay, ước tính 59% diện tích Malaysia được rừng bao phủ. Sự mở rộng nhanh chóng của công nghiệp rừng, đặc biệt sau thập niên 1960, đã mang lại những vấn đề về xói mòn nghiêm trọng với các nguồn tài nguyên rừng quốc gia. Tuy nhiên, cùng với sự cam kết của chính phủ trong việc bảo vệ môi trường và hệ sinh thái, các nguồn tài nguyên rừng đang được quản lý trên cơ sở bền vững và tỷ lệ cây bị khai thác đang giảm dần.
Ngoài ra, nhiều vùng rộng lớn đang được quản lý một các đúng đắn và việc tái trồng rừng tại những vùng đất đã bị khai thác cũng đang được triển khai. Chính phủ Malaysia đã đưa ra kế hoạch phủ xanh khoảng 312.30 kilômét vuông (120.5 dặm vuông) đất với loại cây mây theo những điều kiện rừng tự nhiên và trồng xen cây cao su. Để tăng cường hơn nữa những nguồn tài nguyên thiên nhiên, những loại cây mọc nhanh như meranti tembaga, merawan và sesenduk cũng đang được trồng. Cùng lúc đó, những loại cây có giá trị cao như tếch và các loại cây nguyên liệu giấy giá trị cao khác cũng được khuyến khích canh tác. Cao su, từng một thời là tâm điểm nền kinh tế Malaysia, đã bị thay thế phần lớn bởi dầu cọ trở thành sản phẩm nông nghiệp xuất khẩu hàng đầu của Malaysia.
Thiếc và dầu mỏ là hai nguồn tài nguyên khoáng sản có giá trị của kinh tế Malaysia. Malaysia từng là nước sản xuất thiếc hàng đầu thế giới cho tới khi thị trường này sụp đổ đầu thập niên 1980. Trong thế kỷ 19 và 20, thiếc đóng vai trò tối quan trọng trong nền kinh tế Malaysia. Chỉ tới năm 1972 dầu mỏ và khí tự nhiên mới thay thế thiếc trở thành mặt hàng chính trong lĩnh vực khai mỏ. Trong lúc ấy, thị phần thiếc trong nền kinh tế đã suy giảm. Dầu mỏ và khí tự nhiên được tìm thấy tại các mỏ dầu ngoài khơi Sabah, Sarawak và Terengganu đã có đóng góp lớn vào nền kinh tế Malaysia đặc biệt tại các bang đó. Các sản phẩm khoáng sản khác cũng khá quan trọng gồm đồng, vàng, bô xít, quặng sắt và than cùng với các khoáng sản công nghiệp như đất sét, cao lanh, silica, đá vôi, barite, phốt phát và các sản phẩm đá cắt như đá granite và đá mable khối hoặc tấm. Một lượng nhỏ vàng được sản xuất tại đây.
Năm 2004, Chủ nhiệm văn phòng Thủ tướng, Datuk Mustapa Mohamed, đã tiết lộ trữ lượng dầu khí Malaysia ở mức 4.84 tỷ barrels còn trữ lượng khí thiên nhiên trên 89 nghìn tỉ Feet khối (2,500 km³). Con số này tăng 7.2% so với dự đoán trước đó.[cần dẫn nguồn]
Những ước tính của chính phủ cho rằng ở mức sản xuất hiện nay Malaysia sẽ có khả năng khai thác dầu thêm 18 năm và khí gas trong 35 năm nữa. Năm 2004 Malaysia được xếp hạng thứ 24 về trữ lượng dầu và 13 cho trữ lượng khí gas. 56% trữ lượng dầu nằm tại Bán đảo và 19% tại Đông Malaysia. Chính phủ thu số tiền đặc lợi từ dầu khí, 5% trong số đó được trao lại cho các bang và số còn lại bị chính phủ liên bang thu giữ
Vận tải - Viễn thông
Malaysia có mạng lưới đường rộng lớn nối tất cả các thành phố và thị trấn chính trên bờ biển phía tây Bán đảo Malaysia. Tổng chiều dài của mạng lưới đường cao tốc Malaysia là 1,192 kilômét (740 dặm). Mạng lưới này nối toàn bộ các thành phố lớn và các khu đô thị như Thung lũng Klang, Johor Bahru và Penang với nhau. Đường cao tốc chính, Đường cao tốc Bắc-Nam, trải dài từ cực bắc tới cực nam Bán đảo Malaysia tại Bukit Kayu Hitam và Johor Bahru. Đây là một phần của Mạng lưới đường cao tốc Châu Á, cũng kết nối cả Thái Lan và Singapore.
Đường xá tại Đông Malaysia và bờ biển phía đông Bán đảo Malaysia nói chung chưa được phát triển. Chúng là những con đường rất quanh co xuyên qua các vùng núi non và nhiều đường còn chưa được trải nhựa. Điều này dẫn tới việc các con sông thường được dùng làm đường vận tải hàng hóa cho cư dân trong vùng.
Dịch vụ đường sắt tại Tây Malaysia do Keretapi Tanah Melayu (Malayan Railways) điều hành và mạng lưới đường sắt lớn của nước này kết nối mọi thành phố và thị trấn lớn trên bán đảo, gồm cả Singapore. Cũng có một tuyến đường sắt ngắn tại Sabah do North Borneo Railway điều hành chủ yếu dùng để vận chuyển hàng.
Có các cảng biển tại Tanjong Kidurong, Kota Kinabalu, Kuching, Kuantan, Pasir Gudang, Tanjung Pelepas, Penang, Cảng Klang, Sandakan và Tawau.
Những sân bay tầm vóc quốc tế, như Sân bay Quốc tế Kuala Lumpur tại Sepang, Sân bay Quốc tế Penang tại Penang, Sân bay Quốc tế Kuching và Sân bay Quốc tế Langkawi phục vụ các chuyến bay nội địa và quốc tế. Cũng có sân bay tại các thị trấn nhỏ cũng như đường băng nội địa tại vùng nông thôn Sabah và Sarawak. Có các chuyến bay hàng ngài giữa Đông và Tây Malaysia, đây là các di chuyển duy nhất của hành khách giữa hai phần đất nước, cũng như các chuyến bay thường xuyên tới nhiều điểm trên thế giới. Malaysia là nước có hãng hàng không giá rẻ đầu tiên trong vùng, Air Asia. Kuala Lumpur là đầu mối của hãng và hãng này có nhiều đường bay quanh khu vực Đông Nam Á và Trung Quốc. Tại Kuala Lumpur.
Dịch vụ viễn thông liên thành phố trên Bán đảo Malaysia chủ yếu dùng vi sóng. Dịch vụ viễn thông quốc tế được cung cấp qua các đường cáp quang biển và vệ tinh. Một trong những công ty viễn thông lớn và quan trọng nhất tại Malaysia là Telekom Malaysia Berhad (TM), cung cấp các sản phẩm và dịch vụ viễn thông cố định, di động cũng như kết nối internet dial-up và băng thông rộng. Công ty này hầu như độc quyền về dịch vụ viễn thông cố định trong nước.
Tháng 12 năm 2004, Bộ trưởng Năng lượng, Nước và Viễn thông Datuk Seri Dr Lim Keng Yaik đã thông báo rằng chỉ 0.85% hay 218,004 người tại Malaysia sử dụng dịch vụ băng thông rộng. Tuy nhiên những con số đó dựa trên số lượng thuê bao, trong khi số phần trăm gia đình sẽ phản ánh tình hình chính xác hơn. Con số này đã tăng từ 0.45% trong ba quý. Ông cũng bình luận rằng chính phủ đặt mục tiêu con số người sử dụng đạt 5% năm 2006 và lên gấp đôi thành 10% năm 2008. Lim Keng Yaik đã hối thúc các công ty viễn thông và cung cấp dịch vụ trong nước hạ giá thành và mở rộng dịch vụ vì lợi ích người tiêu dùng.
Chăm sóc sức khoẻ
Xã hội Malaysia đặt nặng tầm quan trọng trên việc mở rộng và phát triển dịch vụ chăm sóc sức khoẻ, chi 5% ngân sách lĩnh vực phát triển công cộng chính phủ cho y tế — tăng 47% so với trước đó. Con số này đồng nghĩa với mức tăng hơn 2 tỷ Ringgit Malaysia. Với số người cao tuổi ngày càng lớn, chính phủ muốn cải thiện nhiều lĩnh vực gồm nâng cấp các bệnh viện sẵn có, xây dựng và trang bị mới các bệnh viện, mở rộng số bệnh viện đa khoa, cải tiến đào tạo và mở rộng chăm sóc sức khỏe từ xa. Trong vài năm vừa qua họ đã gia tăng đang kể nỗ lực nhằm cải thiện những hệ thống sẵn có và thu hút thêm đầu tư nước ngoài.
Hệ thống y tế Malaysia đòi hỏi các bác sĩ phải làm việc 3 năm trong các bệnh viện công để đảm bảo nguồn nhân lực cho các bệnh viện đó. Gần đây các bác sĩ nước ngoài cũng được khuyến khích tới đây làm việc. Tuy nhiên, lĩnh vực này vẫn gặp phải khó khăn về nhân lực, đặc biệt các chuyên gia có trình độ cao dẫn tới việc điều trị một số bệnh đặc biệt chỉ có thể được tiến hành tại các thành phố lớn. Những nỗ lực gần đây nhằm đưa thêm cơ sở vật chất y tế về các vùng khác đã gặp trở ngại bởi thiếu đội ngũ nhân viên có trình độ điều khiển những loại máy móc mới được trang bị.
Đa số bệnh viện tư nằm tại các vùng thành thị và, không giống nhiều bệnh viện công, chúng được trang bị máy móc chẩn đoán và hình ảnh hiện đại nhất. Các bệnh viện tư nói chung không được coi là một hình thức đầu tư lý tưởng - thường mất tới 10 năm trước khi công ty có được bất kỳ khoản lợi nhuận nào. Tuy nhiên, tình hình gần đây đã có thay đổi và các công ty lại đang để mắt tới lĩnh vực này, đặc biệt trước viễn cảnh người nước ngoài đang tới Malaysia coi đây là địa điểm chăm sóc sức khoẻ.
Giáo Dục
Giáo dục tại Malaysia được quản lý bởi Bộ Giáo dục thuộc chính phủ Liên bang.[33]
Đa số trẻ em Malaysian bắt đầu tới trường trong độ tuổi từ 3 tới 6, tại các trường mầm non. Đa số trường mầm non thuộc tư nhân, cũng có một số trường công.
Trẻ em bắt đầu đi học khi 7 tuổi và học sáu năm tiểu học. Có hai kiểu trường tiểu học do nhà nước điều hành và do chính phủ hỗ trợ chính: các trường quốc gia (Sekolah Kebangsaan) dùng tiếng Malay làm ngôn ngữ dạy học, và trường kiểu quốc gia (Sekolah Jenis Kebangsaan) dùng cả tiếng Trung Quốc hay Tamil làm ngôn ngữ dạy. Trước khi lên cấp hai, học sinh năm thứ 6 phải trải qua Ujian Pencapaian Sekolah Rendah (UPSR), hay Kỳ thi Đánh giá Tiểu học. Một kỳ thi được gọ là Penilaian Tahap Satu (PTS), Đánh giá Mức độ thứ Nhất, từng được dùng để đánh giá khả năng và trình độ học sinh, và cho phép học sinh chuyển từ Năm thứ 3 lên Năm thứ 5, bỏ qua Năm thứ 4.[34] Kỳ thi này đã bị hủy năm 2001.
Giáo dục cấp hai tại các trường cấp hai chính phủ kéo dài năm năm. Các trường cấp hai chính phủ dùng tiếng Malay giảng dạy, ngoài ngôn ngữ, các môn Toán và Khoa học cũng được dạy. Cuối năm thứ ba, học sinh trải qua kỳ thi Penilaian Menengah Rendah (PMR), Đánh giá Trung học. Các môn học cho sinh viên Năm thứ 4 khác nhau tùy theo trường. Năm cuối (Năm thứ 5), học sinh trải qua kỳ thi Sijil Pelajaran Malaysia (SPM), Chứng nhận Giáo dục Malaysia, tương đương với British Ordinary hay Trình độ `O`, hiện được coi tương đương GCSE.
Các môn Toán học và Khoa học tại các trường cấp một, cấp hai chính phủ như Sinh học, Vật lý, Hóa học được dạy bằng tiếng Anh. Lý do để giúp sinh viên không gặp trở ngại với giáo dục đại học trong những môn như y và cơ khí.
Cũng có 60 Trường Trung học Độc lập Trung Quốc tại Malaysia, nơi đa số các môn được dạy bằng tiếng Trung. Các trường này được quản lý và tuân thủ các tiêu chuẩn của Ủy ban Trường học Thống Nhất Malaysia (UCSCAM, thường được gọi bằng tiếng Trung là Dong Zong 董总), tuy nhiên, không giống các trường chính phủ, mọi trường độc lập tự do đưa ra quyết định của mình. Việc học tập tại các trường độc lập kéo dài 6 năm, được chia làm 3 năm Trung học và 3 năm Cao cấp. Học sinh phải trải qua một kỳ thi tiêu chuẩn hóa bởi Dong Zong và được gọi là Bằng Thi Thống nhất (UEC) ở cấp Trung học (tương đương PMR) và Cao học (tương đương AO level). Một số trường độc lập có các lớp dùng tiếng Malay và tiếng Anh ngoài tiếng Trung, cho phép học sinh trải qua các kỳ thi PMR và SPM.
Đại học Nottingham Malaysia.
Sinh viên muốn vào các trường đại học công phải hoàn thành một năm rưỡi học theo Form Six và trải qua kỳ thi Sijil Tinggi Persekolahan Malaysia (STPM), Chứng nhận Trung học Malaysia; tương đương trình độ Advanced Anh hay `A` level.
Như đối với giáo dục cấp ba, có các trường đại học công như Đại học Malaya và Universiti Kebangsaan Malaysia. Ngoài ra, 5 trường đại học quốc tế có uy tín đã thiết lập chi nhánh tại Malaysia từ năm 1998. Một chi nhánh có thể được coi là một cơ sở ‘nước ngoài’ của trường, sử dụng chương trình và văn bằng tương đương tại ‘mẫu quốc’. Cả các sinh viên bản địa và nước ngoài đều có thể theo học và được cấp bằng nhưng với chi phí rẻ hơn tại Malaysia. Các chi nhánh trường đại học nước ngoài tại Malaysia gồm: Đại học Monash (Sunway Campus), Đại học Công nghệ Curtin (Sarawak Campus), Đại học Swinburne Chi nhánh Sarawak, Đại học Nottingham Chi nhánh Malaysia và Đại học FTMS-De Monfort Chi nhánh Malaysia tại Kuala Lumpur.
Sinh viên có thể chọn lựa theo học các trường đại học tư sau khi hoàn thành cấp hai. Đa số trường có liên kết giáo dục với các trường đại học nước ngoài, đặc biệt với Hoa Kỳ, Anh Quốc và Australia. Sinh viên Malaysia ở nước ngoài chủ yếu học tại Anh Quốc, Hoa Kỳ, Australia, New Zealand, Canada, Singapore, và Nhật Bản.
Ngoài Chương trình giảng dạy Quốc gia, Malaysia có nhiều trường quốc tế. Các trường quốc tế trao cho sinh viên cơ hội theo học chương trình giảng dạy của quốc gia khác. Nhữ
* Một số tài liệu cũ có thể bị lỗi font khi hiển thị do dùng bộ mã không phải Unikey ...

Người chia sẻ: Lò Kiều Oanh
Dung lượng: | Lượt tài: 1
Loại file:
Nguồn : Chưa rõ
(Tài liệu chưa được thẩm định)