Tu dong am
Chia sẻ bởi Phạm Thanh Hien |
Ngày 10/10/2018 |
42
Chia sẻ tài liệu: tu dong am thuộc Tập đọc 5
Nội dung tài liệu:
MỤC LỤC
A - PHẦN MỞ ĐẦU : trang
I - Lý do chọn đề tài 2
II - Mục đích, phương pháp nghiên cứu 3
III- Đối tượng nghiên cứu 3
IV- Phạm vi nghiên cứu 3
B - PHẦN NỘI DUNG
I - Cơ sở lí luận và thực tiễn 4
II – Thực trạng học sinh trong quá trình học từ đồng âm … 9
III – Một số giải pháp 10
C- PHẦN KẾT LUẬN
I – Bài học kinh nghiệm ,kiến nghị 13
II- Lời kết 14
A / PHẦN MỞ ĐẦU
I / LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Một trong những nguyên tắc cơ bản của dạy Tiếng Việt là dạy học thông qua giao tiếp. Các hoạt động giao tiếp, đặc biệt giao tiếp bằng ngôn ngữ là công cụ cực mạnh để học sinh tiếp cận, rèn luyện và phát triển khả năng sử dụng từ Tiếng Việt. Do đó, việc đưa học sinh vào các hoạt động học tập trong giờ Tiếng Việt được giáo viên đặc biệt quan tâm, chú ý.
Vấn đề từ đồng âm và từ nhiều nghĩa được bắt đầu đưa vào chương trình Tiểu học ở lớp 5 với 5 tiết từ bài 10, 12,13,14,16. Vấn đề từ đồng âm và từ nhiều nghĩa là một vấn đề khá phức tạp, dễ nhầm lẫn. Dân gian có câu:”Phong ba bão táp không bằng ngữ pháp Việt Nam.”.
Hiện nay do điều kiện khách quan và chủ quan nên vấn đề bồi dưỡng học sinh học giỏi văn hóa không còn thật sự được đặc biệt chú trọng như những năm trước đây tại một số trường Tiểu học.
Mặt khác, để học sinh tự giác tham gia vào các hoạt động học tập không phải là một công việc dễ dàng thực hiện ở mỗi lúc, mỗi nơi, nhất là những nơi có điều kiện khó khăn như mức sống, mặt bằng dân trí thấp, có sự giao thoa của các dân tộc thì việc đó gặp không ít trở ngại. Cụ thể như ở trường Tiểu học Lê Văn Tám, một trường vùng 2 với tỉ lệ học sinh là người đồng bào dân tộc tại chỗ chiếm trên 50% thì việc hướng học sinh tham gia vào các hoạt động học tập Tiếng Việt một cách tự nguyện và đạt hiệu quả cao quả là một vấn đề khá nan giải.
Vào đầu năm học ,các lớp 5 tại trường Tiểu học Lê Văn Tám có tỉ lệ học sinh đồng bào dân tộc tại chỗ chiếm khoảng gần 37 % trong đó có rất ít học sinh trung bình và khá .
Ngoài ra trong số học sinh kinh còn lại số học lực yếu cũng tương đối cao.Thống kê sơ bộ thì số học sinh yếu “thực chất” phải ở mức khá cao. Phải thẳng thắn thừa nhận rằng,trong số học sinh yếu nói trên có số đông là yếu đều các môn. Những em này do có nhiều mặc cảm nên dẫn đến tâm lí thiếu tự tin, mạnh dạn trong các giờ học, nhất là những giờ học đòi hỏi phải có vốn ngôn từ phong phú như các tiết về từ đồng âm và từ nhiều nghĩa.
Bên cạnh đó các em vẫn còn hiểu khá mơ hồ về từ Tiếng Việt..
Trong một giờ dạy Luyện từ và câu, phần cơ bản nhất là thực hành của học sinh nhưng tôi nhận thấy rằng, việc các em tự giác tích cưc tham gia vào hoạt động này còn rất ít ,chỉ tập trung vào các em khá giỏi, mà số này chỉ chiếm chưa tới 20% tổng số học sinh trong các lớp .Số còn lại chỉ chuẩn bị một cách thụ động và rất ít tự giác tham gia làm bài .Như vậy, mỗi tiết học chỉ có 4- 5 học sinh tham gia và tiết sau số học sinh đó lại tiếp tục lặp lại . Nếu kéo dài tình trạng này thì sẽ nảy sinh tư tưởng ỉ lại và có một bộ phận không nhỏ học sinh yếu đứng bên lề lớp học.
Với những lí nêu trên , tôi đã chọn sáng kiến kinh nghiệm :Giúp học sinh phân biệt được từ đồng âm với từ nhiều nghĩa” .
II – MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU:
Để giúp cho chúng ta thấy rõ vị trí quan trọng của việc phân biệt từ đồng âm và từ nhiều nghĩa.
Để giúp học sinh tiếp thu bài giảng một cách nhẹ nhàng, khắc sâu kiến thức .
* Qua sách giáo khoa, tài liệu tham khảo, phương pháp giảng dạy phân môn và khảo sát thực tế để tìm ra cách giải quyết vấn đề nêu trên.
III/ TƯỢNG NGHIÊN CỨU
Để thực hiện bài viết này tôi đã tìm hiểu ,khảo sát trên 99 em học sinh lớp 5 và trực tiếp thực hiện đối với 25 em học sinh lớp 5A1 trường Tiểu học Lê Văn Tám .Trong đó, có 9 em học sinh là người đồng bào
* Một số tài liệu cũ có thể bị lỗi font khi hiển thị do dùng bộ mã không phải Unikey ...
Người chia sẻ: Phạm Thanh Hien
Dung lượng: 1,12MB|
Lượt tài: 0
Loại file: doc
Nguồn : Chưa rõ
(Tài liệu chưa được thẩm định)