Trường
Chia sẻ bởi Nguyễn Văn Trường |
Ngày 21/10/2018 |
4082
Chia sẻ tài liệu: trường thuộc Bài giảng khác
Nội dung tài liệu:
CHÀO MỪNG THẦY VÀ CÁC BẠN ĐẾN VỚI BÀI THUYẾT TRÌNH CỦA NHÓM 5
THƠ THIẾU NHI CỦA PHẠM HỔ
Nội dung trình bày:
Giới thiệu nhà thơ Phạm Hổ:
Sáng tác của Phạm Hổ dành cho thiếu nhi:
Một số bài thơ tiêu biểu:
I. Giới thiệu nhà thơ Phạm Hổ:
1. Về cuộc đời:
Phạm Hổ sinh ngày 28-11-1926 tại An Nhơn, Bình Định.
Thuở nhỏ, ông theo học trường làng. Sau đó, ông học Tiểu học ở Tam Kì, Huế, rồi học Trung học ở trường Quốc học Quy Nhơn.
Năm 1943, ông đỗ Thành Chung, chưa kịp thi tú tài thì CMT8 thành công, ông đi theo CM và hoạt động văn nghệ từ đó.
Năm1955, ông tập kết ra Bắc, là một trong những thành viên sáng lập nhà xuất bản Kim Đồng.
2. Sự nghiệp sáng tác:
Ông sáng tác nhều thể loại: thơ, truyện ngắn, tiểu thuyết,… cho cả người lớn và trẻ em.
Nhưng nói đến Phạm Hổ trước hết phải nói đến sự đóng góp của ông cho nền văn học thiếu nhi nước nhà.
Ông đã nhận nhiều giải thưởng Nhà nước về văn học nghệ thuật. Tác phẩm của ông được giới thiệu ở nhiều nước như: Anh, Trung Quốc, Pháp, Ý,…
Ở lĩnh vực viết cho trẻ em, ông là một cây bút viết nhiều, viết tốt.
Đến nay, ông đã in khoảng 20 tập thơ, 9 tập truyện và 4 vở kịch cho trẻ em.
Những tác phẩm chính là: Chú bò tìm bạn (tuyển tập thơ); Chuyện hoa,chuyện quả (6 tập truyện cổ tích mới); Nàng tiên nhỏ thành Ốc (bộ 3 vở kịch)…
Đàn gà mới nở
II. Sáng tác thơ của Phạm Hổ dành cho thiếu nhi:
Thơ ông vui tươi, ngộ nghĩnh, giàu tưởng tượng, những chuyện lạ trở nên chân thực trong thơ ông.
Những chi tiết hồn nhiên, ngộ nghĩnh được sử dụng nhiều trong thơ Phạm Hổ. Ai đã đọc Ngủ rồi, Chơi ú tim, Ngựa con… hẳn khó có thể quên được những câu nói, những suy nghĩ đáng yêu của con trẻ.
Trả lời câu hỏi của mẹ: Đã ngủ chưa đấy hả? cả đàn gà con nhao nhao :
“Ngủ cả rồi đấy ạ !”.
Ngủ rồi mà vẫn “nhao nhao” thì chỉ có trẻ con mới làm được. Cũng chỉ trẻ con mới có kiểu lý luận này:
Không mình nấp giỏi thật
Lỗi chỉ tại cái đuôi !
(Chơi ú tim)
Đôi khi, Phạm Hổ cũng đưa cả nét dí dỏm của người lớn vào thơ.
Bài thơ Soi gương là một ví dụ:
“Có ai đang khóc nhè
Mà soi gương không bố ?
Một đứa khóc đủ rồi
Soi chi thành hai đứa”
Bài thơ có cái hồn nhiên của đứa trẻ (câu hỏi), lại có cái hóm hỉnh của người bố (câu trả lời). Chất hồn nhiên, chất dí dỏm kết hợp hài hòa khiến cho bài thơ thêm phần đáng yêu.
=> Mỗi bài thơ là câu chuyện nhỏ xinh, tiếng cười hóm hỉnh, sảng khoái, thế giới sự vật hiện lên đáng yêu ngộ nghĩnh như trong thế giới tưởng tuợng của các bé.
2. Nội dung bao trùm nhất của thơ Phạm Hổ là chủ đề tình bạn.
Phạm Hổ thừa nhận: “Tôi đặc biệt chú ý đến tình bạn trong đời sống con người. Trong hơn mười tập thơ viết cho các em, đã có sáu tập tôi viết về tình bạn”.
Mối quan tâm của tác giả là có cơ sở hiện thực.
Dấu hiệu nhận biết chủ đề tình bạn trong thơ Phạm Hổ trước hết là ở việc đặt tên cho các tập thơ: Chú bò tìm bạn, Bạn trong vườn, Những người bạn im lặng, Những người bạn nhỏ, Ai kêu đấy?
Bài thơ Chú bò tìm bạn được xem là tiêu biểu cho phong cách thơ Phạm Hổ.
Sau bài thơ này, cảm hứng tình bạn như một dòng chảy tuôn trào mang những hạt phù sa màu mỡ vào cánh đồng thơ Phạm Hổ.
Kết quả, cánh đồng thơ ấy cứ lấp lánh lên những sắc màu đáng yêu của tình bạn. Đúng là với Phạm Hổ, thế giới được cấu trúc theo quan hệ tình bạn. Cái rế là bạn của cái chảo, cái nồi.
“ Chảo, nồi đang bận nấu
Rế ngồi bên đợi chờ”
Con chó, con mèo nào có ghét nhau. Chúng chơi với nhau thật thân thiết:
“Rủ nhau chơi ú tim
Giờ đến phiên cho trốn
Mèo đảo mắt tìm quanh
Chó nấp đâu giỏi gớm
Bỗng kìa chỗ khe tủ
Chó để lộ cái đuôi
Rón rén mèo đến nơi
Oà chộp ngay lưng bạn”
(Chơi ú tim).
Xây dựng chủ đề tình bạn là một chủ ý nghệ thuật của Phạm Hổ. Ngoài việc đặt tên cho từng tập thơ theo chủ đề tình bạn, ông cũng kết hợp tạo ra những hệ thống: bạn trong nhà, bạn trong vườn, những người bạn im lặng, những người bạn ồn ào… Tất cả những việc làm này không ngoài mục đích tô đậm cảm hứng tình bạn trong thơ ông.
3. Cùng với nội dung tình bạn, Phạm Hổ còn muốn cung cấp cho các em những hiểu biết ban đầu về thế giới sự vật, hiện tượng.
Tùy từng trường hợp cụ thể mà ông giới thiệu cho các em tên gọi hay đặc điểm hình thức, ích dụng của sự vật:
“Chị ơi, vì sao
Hoa hồng lại khóc
Không phải đâu em
Đấy là hạt ngọc
Người gọi là sương
Sao đêm gởi xuống
Tặng cô hoa hồng”
(Bướm em hỏi chị).
Vẫn là bài thơ về tình bạn, nhưng ở đây đã có sự lồng ghép thật tự nhiên một tri thức về đối tượng: giọt nước trên cành hoa hồng được gọi là “giọt sương”. Để mở mang khái niệm về nước, Phạm Hổ viết hẳn một bài thơ khác theo lối định nghĩa.
“Nước lên xuống: biển cả
Nước nằm im: ao hồ
Nước chảy xuôi: sông suối
Nước rơi đứng: trời mưa”
(Nước)
Hướng giải quyết của ông là khai thác tối đa các phép nhân hóa, so sánh, xây dựng các hình ảnh liên tưởng độc đáo và vui tươi.
Đọc bài thơ về cái đinh, ta ngỡ như đang tiếp xúc với một cậu bé vui nhộn, tự hào khi làm được một việc tốt:
“Cho chị treo gương
Cho em treo ảnh
Xong rồi hóm hỉnh
Nhô đầu nhìn quanh”
Cái chổi khác nào một cô bé thích làm đỏm:
“Thích buộc nhiều thắt lưng
Cả đời không đi dép
Chổi múa dạo một vòng
Rác trong nhà biến sạch”
Phép so sánh trong trường hợp sau đây giúp các em nắm được đặc điểm của từng đồ vật:
“Dao chỉ một lưỡi
Kéo có đến hai
Mỗi người một việc
Ai nào kém ai
Cả hai đều biết
Yêu ông đá mài”
Những câu thơ như thế không cầu kỳ, hoa mỹ nhưng tự nhiên, thiết thực. Đặt trong yêu cầu của nghệ thuật giáo dục cho thiếu nhi, hoàn toàn có thể khẳng định, đó là những câu thơ giá trị.
4. Phạm Hổ là một nhà thơ có nhiều tìm tòi trong nghệ thuật thể hiện. Thơ ông đa dạng về hình thức, nhạc điệu vui tươi, ngôn từ trong sáng.
Ngoài hình thức tổ chức thông thường, thơ Phạm Hổ còn sử dụng các hình thức khác.
Đó là hình thức hỏi – đáp, hình thức định nghĩa và hình thức trích dẫn.
Trong cuộc sống, trẻ em vẫn thường hay hỏi người lớn về nhiều điều.
Hay hỏi là một nét tính cách đặc trưng, hệ quả tất yếu của một nhu cầu ham hiểu biết của trẻ.
Người lớn trong trách nhiệm của mình cần phải giúp trẻ giải quyết những thắc mắc.
Trả lời cho trẻ là cả một nghệ thuật giao tiếp mà không phải ai, lúc nào cũng làm được.
Trong những bài thơ hỏi – đáp của mình, Phạm Hổ khi thì sử dụng nhân vật loài vật, khi thì sử dụng nhân vật con người.
Song dù sử dụng loại nhân vật nào thì ông cũng đều nêu ra được vấn đề mà trẻ em quan tâm, đáp án phù hợp với đối tượng.
Giọng thơ tâm tình, nhẹ nhàng, có sức thuyết phục lớn.
Một ví dụ:
“Cua con hỏi mẹ
Dưới ánh trăng đêm
Cô lúa đang hát
Sao bỗng lặng im
Đôi mắt lim dim
Mẹ cua liền đáp
Chú gió đi xa
Lúa buồn không hát”.
(Cua con hỏi mẹ).
Bài thơ trên gồm lời hỏi của cua con và lời đáp của cua mẹ. Cua mẹ đã giải thích với cua con rằng, vì chú gió đi xa nên cô lúa buồn, cô thôi không hát nữa. Lời giải thích này dễ được trẻ chấp nhận. Chuyện “cô lúa không hát” thấm đượm tình cảm con người.
Thực ra, cấu trúc hỏi - đáp được sử dụng nhiều trong thơ cho thiếu nhi. Hình thức này không phải là sáng tạo riêng của Phạm Hổ.
Đóng góp của ông là ở chỗ đã sử dụng thành công, tạo ra những bài thơ hay như Ngủ rồi, Bướm em hỏi chị, Đất và hoa, Thỏ dùng máy nói…
Sáng tạo riêng của Phạm Hổ chính là ở hình thức thơ định nghĩa và trích dẫn.
Bài Nước vừa dẫn trên là một bài thơ theo hình thức định nghĩa. Dấu hai chấm tương đương với từ “là”. tạo ra sự đồng nhất giữa hai đối tượng.
Kiểu thơ định nghĩa giới hạn ở chức năng cung cấp khái niệm về đối tượng.
Kiểu thơ trích dẫn được xây dựng trên cơ sở mô phỏng lời nói. Thuộc loại thơ này là nhóm bài có câu mở đầu “mẹ, mẹ ơi, cô bảo”.
Vd: “Mẹ, mẹ ơi, cô bảo
Cháu ơi, chơi với bạn
Cãi nhau là không vui
Cái mồm nó xinh thế
Chỉ nói điều hay thôi !”.
Ở bài thơ này, câu mở đầu là lời đứa trẻ, các câu còn lại là lời cô giáo được trích dẫn. Toàn bộ bài thơ là lời đứa trẻ nói với mẹ khi ở trường về. Đến trường các em tiếp thu được nhiều điều mới lạ. Khi trở về nhà, các em không quên khoe với mẹ về những gì mà mình học được. Câu thơ « mẹ, mẹ ơi, cô bảo » chất chứa niềm vui, sự háo hức của đứa trẻ. Quả là, đọc những bài như thế, ta cũng dễ vui lây !
Làm thơ cho các em, Phạm Hổ cũng rất coi trọng vai trò của nhạc điệu.
Ông viết: “Viết thơ cho các em bé, theo tôi, rất cần chú ý đến nhạc điệu. Nhiều khi các em nhớ được là nhờ nhạc điệu…”.
Nhạc điệu của thơ liên quan chặt chẽ tới việc sắp xếp, tổ chức câu thơ, vần và nhịp.
Phạm Hổ thường hay sử dụng thể thơ hai, ba, bốn hoặc năm chữ.
Nhịp thơ ông thường ngắn, có giá trị miêu tả hiện thực.
Chẳng hạn, nhịp 2/2 ở bài Sen nở gợi tả những cánh sen đang từ từ hé mở : “Từ từ / Khẽ mở / Trăm nghìn / Cửa lụa / Xinh tươi / Sáng hồng…”.
Bài Tàu dài lại gợi hình ảnh đoàn tàu nhiều toa, đang chuyển động một cách nhịp nhàng, đều đặn.
5. Một đặc sắc khác của thơ Phạm Hổ là cách tạo nghĩa mới cho những âm thanh tự nhiên.
Tiếng “ tí te…tí te” của xe chữa cháy được nhà thơ cảm nhận là tiếng sẵn sàng “có ngay… có ngay”(Xe chữa cháy).
Tiếng “xạch, xạch, xạch” của máy khâu là “sắp xong rồi, sắp xong rồi”(Máy khâu).
Còn tiếng “cục tác… cục tác” của cô gà mái là một thông báo vui trứng còn nhiều, đẻ hoài “không hết, không hết ”(Gà đẻ)…
Cách tạo nghĩa này đã làm cho hình tượng thơ thêm phần sinh động, ý nghĩa. Cuộc sống cứ như đang rộn ràng lên, hối hả và tràn đầy sức sống.
Trong tương quan với các nhà thơ viết cho thiếu nhi:
Phạm Hổ là người viết nhiều và viết hay. Thơ cho lứa tuổi nhi đồng của ông có nhiều đặc sắc về nội dung cũng như nghệ thuật.
Nói tới ông là nói tới một nhà thơ của tình bạn, một cây bút với nhiều sáng tạo về hình thức biểu hiện.
Ông thực sự có một vị trí quan trọng trong nền thơ cho thiếu nhi Việt Nam.
III. Một số bài thơ tiêu biểu:
Chú bò tìm bạn.
Đàn gà mới nở.
Phân tích bài “chú bò tìm bạn” của Phạm Hổ
Phạm Hổ sinh năm 1924, mất năm 2007.
Xuất thân trong một gia đình Nho học.
Ông vừa viết văn, làm thơ, viết kịch và vẽ tranh. Nổi bật trong các sáng tác của ông là dành cho thiếu nhi.
Tác phẩm nổi tiếng: Chú vịt bông (tập thơ), Nàng tiên nhỏ thành ốc (kịch), Chú bò tìm bạn (tập thơ).
Thơ Phạm Hổ nói nhiều về chủ đề tình bạn.
Bài thơ Chú bò tìm bạn được viết vào năm 1952, và tập thơ cùng tên được nhận giải thưởng loại A cuộc vận động sáng tác cho thiếu nhi do TW Đoàn Thanh niên cộng sản tổ chức năm 1957.
Bài thơ nói về một chú bò ngốc nghếch, ngu ngơ nhưng lại dễ thương đáng yêu.
Một buổi chiều mát mẻ, chú bò ra sông uống nước thấy bóng mình dưới sông tưởng một chú bò khác đang cười với mình liền cất tiếng chào.
Khi chú bò kia biến mất chú vội gọi tìm bạn.
Mặt trời rúc bụi tre
Buổi chiều về nghe mát
Bò ra sông uống nước
Thấy bóng mình, ngỡ ai
Bò chào: Kìa anh bạn!
Lại gặp anh ở đây
Nước đang nằm nhìn mây
Nghe bò, cười nhoẻn miệng
Bóng bò chợt tan biến
Bò tưởng bạn đi đâu
Cứ ngoái trước nhìn sau
"Ậm ò" tìm gọi mãi...
Bài thơ trên miêu tả chú bò ngốc nghếch, đáng yêu được nhà thơ nhân cách hóa và được xuyên suốt bài thơ. Nhưng không chỉ có nhân vật ấy, quây quần xung quanh chú bò còn có cả dòng sông, bụi tre, cánh đồng, mặt trời, mây… tất cả làm nên một thế giới bầu bạn, chúng giao hòa với nhau trong cái nhìn thân thiện, sự cảm thông và lòng nhân ái.
Từ “rúc” trong bài thơ gợi lên sự thân thương trìu mến, như đứa trẻ nũng nịu rúc vào ngực mẹ.
Còn từ “nghe mát” là sự cảm nhận của giác quan. Ở đây không chì là sự mát mẻ bình thường của gió trời, mà còn là sự cảm nhận cái bình yên, tĩnh lặng của không gian và cả cái tĩnh lặng của lòng người.
Cụm từ “Cười nhoẻn miệng” là cái cười không lớn lắm. Đây chỉ là nụ cười duyên của mặt nước khi mõm bò vừa chạm tới, cũng là cái cười độ lượng trước sự nhầm lẫn đến ngốc nghếch của chú bò.
Thời gian diễn ra sự kiện chú bò tìm bạn là buổi chiều. Buổi chiều thường gợi lên sự an nhàn, yên tĩnh, khoan khoái, dễ chịu.
Không gian của bài thơ là đồng quê êm mát. Sự bình yên của cảnh quê càng làm cho thiên nhiên đẹp hơn gấp bội lần. Không gian yên tĩnh bỗng nhiên xao động bởi tiếng gọi bạn của chú bò đang “ậm ò…” lan tỏa.
Cung cấp cho học sinh tiểu học một câu chuyện hay và cảm động về tình bạn của chú bò.
Một chú bò lơ ngơ nhưng lại rất đáng yêu. Đáng yêu ở hành vi biết chào hỏi. Đáng yêu ở hành vi thiết tha gọi bạn…Qua đó giúp cho các em hiểu được tình bạn thật đáng quý.
Bài thơ Chú bò tìm bạn giúp cho các em:
Biết cởi mở hòa đồng để biết kết bạn với nhau.
Biết quý trọng tình bạn…
Bài thơ năm chữ, có sử dụng những từ ngữ độc đáo, ngắn gọn.
Nhạc điệu vui tươi, ngắt nhịp theo nhịp 3/2, 2/4,..
Ngôn từ trong sáng, các vần thơ được viết bằng những từ ngữ hết sức đời thường => nhà thơ đã kể cho các em nghe một câu chuyện về tình bạn đầy xúc động và tinh tế.
Hình ảnh quen thuộc: mặt trời, ngọn tre, nước, mây, con bò.
Sử dụng biện pháp nhân hóa: “Nước đang nằm nhìn mây - Nghe bò, cười nhoẽn miệng” , bò có thể nói, có thể cười,..
Bài thơ “ chú bò tìm bạn” thật ngộ nghĩnh, vui tươi nhưng kết thúc bài thơ đượm một chút buồn bởi tiếng ậm ò gọi bạn của chú bò.
Sự chân thành của chú bò đối với bạn thật cao quý, vừa mới gặp nhau đây, vừa cất tiếng chào nhau để làm quen (đâu phải đã quen), thế mà mới không thấy nhau đã cuống quýt “ngoái trước nhìn sau” tìm gọi mãi.
Tiếng “ậm ò!” gọi bạn của chú bò sẽ vang mãi trong tâm tưởng của người đọc. Nó là tiếng gọi bạn, kết bầy của lứa tuổi trẻ thơ.
Bài thơ chú bò tìm bạn của Phạm Hổ sẽ ở mãi trong lòng trẻ thơ với bài học về tình bạn – Phải biết trân trọng tình bạn,…
CHÂN THÀNH CẢM ƠN THẦY VÀ CÁC BẠN ĐÃ LẮNG NGHE
THƠ THIẾU NHI CỦA PHẠM HỔ
Nội dung trình bày:
Giới thiệu nhà thơ Phạm Hổ:
Sáng tác của Phạm Hổ dành cho thiếu nhi:
Một số bài thơ tiêu biểu:
I. Giới thiệu nhà thơ Phạm Hổ:
1. Về cuộc đời:
Phạm Hổ sinh ngày 28-11-1926 tại An Nhơn, Bình Định.
Thuở nhỏ, ông theo học trường làng. Sau đó, ông học Tiểu học ở Tam Kì, Huế, rồi học Trung học ở trường Quốc học Quy Nhơn.
Năm 1943, ông đỗ Thành Chung, chưa kịp thi tú tài thì CMT8 thành công, ông đi theo CM và hoạt động văn nghệ từ đó.
Năm1955, ông tập kết ra Bắc, là một trong những thành viên sáng lập nhà xuất bản Kim Đồng.
2. Sự nghiệp sáng tác:
Ông sáng tác nhều thể loại: thơ, truyện ngắn, tiểu thuyết,… cho cả người lớn và trẻ em.
Nhưng nói đến Phạm Hổ trước hết phải nói đến sự đóng góp của ông cho nền văn học thiếu nhi nước nhà.
Ông đã nhận nhiều giải thưởng Nhà nước về văn học nghệ thuật. Tác phẩm của ông được giới thiệu ở nhiều nước như: Anh, Trung Quốc, Pháp, Ý,…
Ở lĩnh vực viết cho trẻ em, ông là một cây bút viết nhiều, viết tốt.
Đến nay, ông đã in khoảng 20 tập thơ, 9 tập truyện và 4 vở kịch cho trẻ em.
Những tác phẩm chính là: Chú bò tìm bạn (tuyển tập thơ); Chuyện hoa,chuyện quả (6 tập truyện cổ tích mới); Nàng tiên nhỏ thành Ốc (bộ 3 vở kịch)…
Đàn gà mới nở
II. Sáng tác thơ của Phạm Hổ dành cho thiếu nhi:
Thơ ông vui tươi, ngộ nghĩnh, giàu tưởng tượng, những chuyện lạ trở nên chân thực trong thơ ông.
Những chi tiết hồn nhiên, ngộ nghĩnh được sử dụng nhiều trong thơ Phạm Hổ. Ai đã đọc Ngủ rồi, Chơi ú tim, Ngựa con… hẳn khó có thể quên được những câu nói, những suy nghĩ đáng yêu của con trẻ.
Trả lời câu hỏi của mẹ: Đã ngủ chưa đấy hả? cả đàn gà con nhao nhao :
“Ngủ cả rồi đấy ạ !”.
Ngủ rồi mà vẫn “nhao nhao” thì chỉ có trẻ con mới làm được. Cũng chỉ trẻ con mới có kiểu lý luận này:
Không mình nấp giỏi thật
Lỗi chỉ tại cái đuôi !
(Chơi ú tim)
Đôi khi, Phạm Hổ cũng đưa cả nét dí dỏm của người lớn vào thơ.
Bài thơ Soi gương là một ví dụ:
“Có ai đang khóc nhè
Mà soi gương không bố ?
Một đứa khóc đủ rồi
Soi chi thành hai đứa”
Bài thơ có cái hồn nhiên của đứa trẻ (câu hỏi), lại có cái hóm hỉnh của người bố (câu trả lời). Chất hồn nhiên, chất dí dỏm kết hợp hài hòa khiến cho bài thơ thêm phần đáng yêu.
=> Mỗi bài thơ là câu chuyện nhỏ xinh, tiếng cười hóm hỉnh, sảng khoái, thế giới sự vật hiện lên đáng yêu ngộ nghĩnh như trong thế giới tưởng tuợng của các bé.
2. Nội dung bao trùm nhất của thơ Phạm Hổ là chủ đề tình bạn.
Phạm Hổ thừa nhận: “Tôi đặc biệt chú ý đến tình bạn trong đời sống con người. Trong hơn mười tập thơ viết cho các em, đã có sáu tập tôi viết về tình bạn”.
Mối quan tâm của tác giả là có cơ sở hiện thực.
Dấu hiệu nhận biết chủ đề tình bạn trong thơ Phạm Hổ trước hết là ở việc đặt tên cho các tập thơ: Chú bò tìm bạn, Bạn trong vườn, Những người bạn im lặng, Những người bạn nhỏ, Ai kêu đấy?
Bài thơ Chú bò tìm bạn được xem là tiêu biểu cho phong cách thơ Phạm Hổ.
Sau bài thơ này, cảm hứng tình bạn như một dòng chảy tuôn trào mang những hạt phù sa màu mỡ vào cánh đồng thơ Phạm Hổ.
Kết quả, cánh đồng thơ ấy cứ lấp lánh lên những sắc màu đáng yêu của tình bạn. Đúng là với Phạm Hổ, thế giới được cấu trúc theo quan hệ tình bạn. Cái rế là bạn của cái chảo, cái nồi.
“ Chảo, nồi đang bận nấu
Rế ngồi bên đợi chờ”
Con chó, con mèo nào có ghét nhau. Chúng chơi với nhau thật thân thiết:
“Rủ nhau chơi ú tim
Giờ đến phiên cho trốn
Mèo đảo mắt tìm quanh
Chó nấp đâu giỏi gớm
Bỗng kìa chỗ khe tủ
Chó để lộ cái đuôi
Rón rén mèo đến nơi
Oà chộp ngay lưng bạn”
(Chơi ú tim).
Xây dựng chủ đề tình bạn là một chủ ý nghệ thuật của Phạm Hổ. Ngoài việc đặt tên cho từng tập thơ theo chủ đề tình bạn, ông cũng kết hợp tạo ra những hệ thống: bạn trong nhà, bạn trong vườn, những người bạn im lặng, những người bạn ồn ào… Tất cả những việc làm này không ngoài mục đích tô đậm cảm hứng tình bạn trong thơ ông.
3. Cùng với nội dung tình bạn, Phạm Hổ còn muốn cung cấp cho các em những hiểu biết ban đầu về thế giới sự vật, hiện tượng.
Tùy từng trường hợp cụ thể mà ông giới thiệu cho các em tên gọi hay đặc điểm hình thức, ích dụng của sự vật:
“Chị ơi, vì sao
Hoa hồng lại khóc
Không phải đâu em
Đấy là hạt ngọc
Người gọi là sương
Sao đêm gởi xuống
Tặng cô hoa hồng”
(Bướm em hỏi chị).
Vẫn là bài thơ về tình bạn, nhưng ở đây đã có sự lồng ghép thật tự nhiên một tri thức về đối tượng: giọt nước trên cành hoa hồng được gọi là “giọt sương”. Để mở mang khái niệm về nước, Phạm Hổ viết hẳn một bài thơ khác theo lối định nghĩa.
“Nước lên xuống: biển cả
Nước nằm im: ao hồ
Nước chảy xuôi: sông suối
Nước rơi đứng: trời mưa”
(Nước)
Hướng giải quyết của ông là khai thác tối đa các phép nhân hóa, so sánh, xây dựng các hình ảnh liên tưởng độc đáo và vui tươi.
Đọc bài thơ về cái đinh, ta ngỡ như đang tiếp xúc với một cậu bé vui nhộn, tự hào khi làm được một việc tốt:
“Cho chị treo gương
Cho em treo ảnh
Xong rồi hóm hỉnh
Nhô đầu nhìn quanh”
Cái chổi khác nào một cô bé thích làm đỏm:
“Thích buộc nhiều thắt lưng
Cả đời không đi dép
Chổi múa dạo một vòng
Rác trong nhà biến sạch”
Phép so sánh trong trường hợp sau đây giúp các em nắm được đặc điểm của từng đồ vật:
“Dao chỉ một lưỡi
Kéo có đến hai
Mỗi người một việc
Ai nào kém ai
Cả hai đều biết
Yêu ông đá mài”
Những câu thơ như thế không cầu kỳ, hoa mỹ nhưng tự nhiên, thiết thực. Đặt trong yêu cầu của nghệ thuật giáo dục cho thiếu nhi, hoàn toàn có thể khẳng định, đó là những câu thơ giá trị.
4. Phạm Hổ là một nhà thơ có nhiều tìm tòi trong nghệ thuật thể hiện. Thơ ông đa dạng về hình thức, nhạc điệu vui tươi, ngôn từ trong sáng.
Ngoài hình thức tổ chức thông thường, thơ Phạm Hổ còn sử dụng các hình thức khác.
Đó là hình thức hỏi – đáp, hình thức định nghĩa và hình thức trích dẫn.
Trong cuộc sống, trẻ em vẫn thường hay hỏi người lớn về nhiều điều.
Hay hỏi là một nét tính cách đặc trưng, hệ quả tất yếu của một nhu cầu ham hiểu biết của trẻ.
Người lớn trong trách nhiệm của mình cần phải giúp trẻ giải quyết những thắc mắc.
Trả lời cho trẻ là cả một nghệ thuật giao tiếp mà không phải ai, lúc nào cũng làm được.
Trong những bài thơ hỏi – đáp của mình, Phạm Hổ khi thì sử dụng nhân vật loài vật, khi thì sử dụng nhân vật con người.
Song dù sử dụng loại nhân vật nào thì ông cũng đều nêu ra được vấn đề mà trẻ em quan tâm, đáp án phù hợp với đối tượng.
Giọng thơ tâm tình, nhẹ nhàng, có sức thuyết phục lớn.
Một ví dụ:
“Cua con hỏi mẹ
Dưới ánh trăng đêm
Cô lúa đang hát
Sao bỗng lặng im
Đôi mắt lim dim
Mẹ cua liền đáp
Chú gió đi xa
Lúa buồn không hát”.
(Cua con hỏi mẹ).
Bài thơ trên gồm lời hỏi của cua con và lời đáp của cua mẹ. Cua mẹ đã giải thích với cua con rằng, vì chú gió đi xa nên cô lúa buồn, cô thôi không hát nữa. Lời giải thích này dễ được trẻ chấp nhận. Chuyện “cô lúa không hát” thấm đượm tình cảm con người.
Thực ra, cấu trúc hỏi - đáp được sử dụng nhiều trong thơ cho thiếu nhi. Hình thức này không phải là sáng tạo riêng của Phạm Hổ.
Đóng góp của ông là ở chỗ đã sử dụng thành công, tạo ra những bài thơ hay như Ngủ rồi, Bướm em hỏi chị, Đất và hoa, Thỏ dùng máy nói…
Sáng tạo riêng của Phạm Hổ chính là ở hình thức thơ định nghĩa và trích dẫn.
Bài Nước vừa dẫn trên là một bài thơ theo hình thức định nghĩa. Dấu hai chấm tương đương với từ “là”. tạo ra sự đồng nhất giữa hai đối tượng.
Kiểu thơ định nghĩa giới hạn ở chức năng cung cấp khái niệm về đối tượng.
Kiểu thơ trích dẫn được xây dựng trên cơ sở mô phỏng lời nói. Thuộc loại thơ này là nhóm bài có câu mở đầu “mẹ, mẹ ơi, cô bảo”.
Vd: “Mẹ, mẹ ơi, cô bảo
Cháu ơi, chơi với bạn
Cãi nhau là không vui
Cái mồm nó xinh thế
Chỉ nói điều hay thôi !”.
Ở bài thơ này, câu mở đầu là lời đứa trẻ, các câu còn lại là lời cô giáo được trích dẫn. Toàn bộ bài thơ là lời đứa trẻ nói với mẹ khi ở trường về. Đến trường các em tiếp thu được nhiều điều mới lạ. Khi trở về nhà, các em không quên khoe với mẹ về những gì mà mình học được. Câu thơ « mẹ, mẹ ơi, cô bảo » chất chứa niềm vui, sự háo hức của đứa trẻ. Quả là, đọc những bài như thế, ta cũng dễ vui lây !
Làm thơ cho các em, Phạm Hổ cũng rất coi trọng vai trò của nhạc điệu.
Ông viết: “Viết thơ cho các em bé, theo tôi, rất cần chú ý đến nhạc điệu. Nhiều khi các em nhớ được là nhờ nhạc điệu…”.
Nhạc điệu của thơ liên quan chặt chẽ tới việc sắp xếp, tổ chức câu thơ, vần và nhịp.
Phạm Hổ thường hay sử dụng thể thơ hai, ba, bốn hoặc năm chữ.
Nhịp thơ ông thường ngắn, có giá trị miêu tả hiện thực.
Chẳng hạn, nhịp 2/2 ở bài Sen nở gợi tả những cánh sen đang từ từ hé mở : “Từ từ / Khẽ mở / Trăm nghìn / Cửa lụa / Xinh tươi / Sáng hồng…”.
Bài Tàu dài lại gợi hình ảnh đoàn tàu nhiều toa, đang chuyển động một cách nhịp nhàng, đều đặn.
5. Một đặc sắc khác của thơ Phạm Hổ là cách tạo nghĩa mới cho những âm thanh tự nhiên.
Tiếng “ tí te…tí te” của xe chữa cháy được nhà thơ cảm nhận là tiếng sẵn sàng “có ngay… có ngay”(Xe chữa cháy).
Tiếng “xạch, xạch, xạch” của máy khâu là “sắp xong rồi, sắp xong rồi”(Máy khâu).
Còn tiếng “cục tác… cục tác” của cô gà mái là một thông báo vui trứng còn nhiều, đẻ hoài “không hết, không hết ”(Gà đẻ)…
Cách tạo nghĩa này đã làm cho hình tượng thơ thêm phần sinh động, ý nghĩa. Cuộc sống cứ như đang rộn ràng lên, hối hả và tràn đầy sức sống.
Trong tương quan với các nhà thơ viết cho thiếu nhi:
Phạm Hổ là người viết nhiều và viết hay. Thơ cho lứa tuổi nhi đồng của ông có nhiều đặc sắc về nội dung cũng như nghệ thuật.
Nói tới ông là nói tới một nhà thơ của tình bạn, một cây bút với nhiều sáng tạo về hình thức biểu hiện.
Ông thực sự có một vị trí quan trọng trong nền thơ cho thiếu nhi Việt Nam.
III. Một số bài thơ tiêu biểu:
Chú bò tìm bạn.
Đàn gà mới nở.
Phân tích bài “chú bò tìm bạn” của Phạm Hổ
Phạm Hổ sinh năm 1924, mất năm 2007.
Xuất thân trong một gia đình Nho học.
Ông vừa viết văn, làm thơ, viết kịch và vẽ tranh. Nổi bật trong các sáng tác của ông là dành cho thiếu nhi.
Tác phẩm nổi tiếng: Chú vịt bông (tập thơ), Nàng tiên nhỏ thành ốc (kịch), Chú bò tìm bạn (tập thơ).
Thơ Phạm Hổ nói nhiều về chủ đề tình bạn.
Bài thơ Chú bò tìm bạn được viết vào năm 1952, và tập thơ cùng tên được nhận giải thưởng loại A cuộc vận động sáng tác cho thiếu nhi do TW Đoàn Thanh niên cộng sản tổ chức năm 1957.
Bài thơ nói về một chú bò ngốc nghếch, ngu ngơ nhưng lại dễ thương đáng yêu.
Một buổi chiều mát mẻ, chú bò ra sông uống nước thấy bóng mình dưới sông tưởng một chú bò khác đang cười với mình liền cất tiếng chào.
Khi chú bò kia biến mất chú vội gọi tìm bạn.
Mặt trời rúc bụi tre
Buổi chiều về nghe mát
Bò ra sông uống nước
Thấy bóng mình, ngỡ ai
Bò chào: Kìa anh bạn!
Lại gặp anh ở đây
Nước đang nằm nhìn mây
Nghe bò, cười nhoẻn miệng
Bóng bò chợt tan biến
Bò tưởng bạn đi đâu
Cứ ngoái trước nhìn sau
"Ậm ò" tìm gọi mãi...
Bài thơ trên miêu tả chú bò ngốc nghếch, đáng yêu được nhà thơ nhân cách hóa và được xuyên suốt bài thơ. Nhưng không chỉ có nhân vật ấy, quây quần xung quanh chú bò còn có cả dòng sông, bụi tre, cánh đồng, mặt trời, mây… tất cả làm nên một thế giới bầu bạn, chúng giao hòa với nhau trong cái nhìn thân thiện, sự cảm thông và lòng nhân ái.
Từ “rúc” trong bài thơ gợi lên sự thân thương trìu mến, như đứa trẻ nũng nịu rúc vào ngực mẹ.
Còn từ “nghe mát” là sự cảm nhận của giác quan. Ở đây không chì là sự mát mẻ bình thường của gió trời, mà còn là sự cảm nhận cái bình yên, tĩnh lặng của không gian và cả cái tĩnh lặng của lòng người.
Cụm từ “Cười nhoẻn miệng” là cái cười không lớn lắm. Đây chỉ là nụ cười duyên của mặt nước khi mõm bò vừa chạm tới, cũng là cái cười độ lượng trước sự nhầm lẫn đến ngốc nghếch của chú bò.
Thời gian diễn ra sự kiện chú bò tìm bạn là buổi chiều. Buổi chiều thường gợi lên sự an nhàn, yên tĩnh, khoan khoái, dễ chịu.
Không gian của bài thơ là đồng quê êm mát. Sự bình yên của cảnh quê càng làm cho thiên nhiên đẹp hơn gấp bội lần. Không gian yên tĩnh bỗng nhiên xao động bởi tiếng gọi bạn của chú bò đang “ậm ò…” lan tỏa.
Cung cấp cho học sinh tiểu học một câu chuyện hay và cảm động về tình bạn của chú bò.
Một chú bò lơ ngơ nhưng lại rất đáng yêu. Đáng yêu ở hành vi biết chào hỏi. Đáng yêu ở hành vi thiết tha gọi bạn…Qua đó giúp cho các em hiểu được tình bạn thật đáng quý.
Bài thơ Chú bò tìm bạn giúp cho các em:
Biết cởi mở hòa đồng để biết kết bạn với nhau.
Biết quý trọng tình bạn…
Bài thơ năm chữ, có sử dụng những từ ngữ độc đáo, ngắn gọn.
Nhạc điệu vui tươi, ngắt nhịp theo nhịp 3/2, 2/4,..
Ngôn từ trong sáng, các vần thơ được viết bằng những từ ngữ hết sức đời thường => nhà thơ đã kể cho các em nghe một câu chuyện về tình bạn đầy xúc động và tinh tế.
Hình ảnh quen thuộc: mặt trời, ngọn tre, nước, mây, con bò.
Sử dụng biện pháp nhân hóa: “Nước đang nằm nhìn mây - Nghe bò, cười nhoẽn miệng” , bò có thể nói, có thể cười,..
Bài thơ “ chú bò tìm bạn” thật ngộ nghĩnh, vui tươi nhưng kết thúc bài thơ đượm một chút buồn bởi tiếng ậm ò gọi bạn của chú bò.
Sự chân thành của chú bò đối với bạn thật cao quý, vừa mới gặp nhau đây, vừa cất tiếng chào nhau để làm quen (đâu phải đã quen), thế mà mới không thấy nhau đã cuống quýt “ngoái trước nhìn sau” tìm gọi mãi.
Tiếng “ậm ò!” gọi bạn của chú bò sẽ vang mãi trong tâm tưởng của người đọc. Nó là tiếng gọi bạn, kết bầy của lứa tuổi trẻ thơ.
Bài thơ chú bò tìm bạn của Phạm Hổ sẽ ở mãi trong lòng trẻ thơ với bài học về tình bạn – Phải biết trân trọng tình bạn,…
CHÂN THÀNH CẢM ƠN THẦY VÀ CÁC BẠN ĐÃ LẮNG NGHE
* Một số tài liệu cũ có thể bị lỗi font khi hiển thị do dùng bộ mã không phải Unikey ...
Người chia sẻ: Nguyễn Văn Trường
Dung lượng: |
Lượt tài: 37
Loại file:
Nguồn : Chưa rõ
(Tài liệu chưa được thẩm định)