Trung thu
Chia sẻ bởi Hoàng Huyền Nhung |
Ngày 02/05/2019 |
49
Chia sẻ tài liệu: trung thu thuộc Bài giảng khác
Nội dung tài liệu:
Pronunciation
Tết Trung Thu theo âm lịch là
ngày rằm tháng 8 hằng năm.
Đây là ngày tết của trẻ em,
còn được gọi là "Tết trông Trăng".
Trẻ em rất mong đợi được đón tết này vì thường được người lớn tặng đồ chơi, thường là đèn ông sao, mặt nạ, đèn kéo quân,... rồi bánh nướng, bánh dẻo. Vào ngày tết này, người ta tổ chức bày cỗ, trông trăng. Thời điểm trăng lên cao, trẻ em sẽ vừa múa hát vừa ngắm trăng phá cỗ.
Tục vui Tết Trung-Thu đã có từ thời Đường Minh Hoàng bên Trung-Hoa, vào đầu thế kỷ thứ tám (713-755).
Sách xưa chép rằng, nhân một đêm
rằm tháng tám, lên thăm cung trăng
một lần cho biết. Pháp-sư Diệu Pháp Thiên
tâu xin làm phép đưa vua lên cung trăng. Lên tới cung trăng, Minh Hoàng được chúa tiên tiếp rước, bày tiệc đãi đằng và cho hàng trăm tiên nữ xinh tươi mặc áo lụa mỏng nhiều màu sắc rực rỡ, tay cầm tấm lụa trắng tung múa trên sân, vừa múa vừa hát, gọi là khúc Nghê-Thường vũ y. Vua Đường thích quá; nhờ có khiếu thẩm âm nên vừa trầm trồ khen ngợi vừa lẩm nhẩm học thuộc lòng bài hát và điệu múa mong đem về hoàng cung bày cho các cung nữ trình diễn. Cuối năm đó, quan Tiết Độ Sứ cai trị xứ Tây Lương mang về triều tiến dâng một đoàn vũ nữ với điệu múa Bà-la-môn.
Vua thấy điệu múa có nhiều chỗ giống Nghê-Thường vũ y, liền chỉnh đốn hai bài hát và hai điệu làm thành Nghê-Thường vũ y khúc. Về sau các quan cũng bắt chước vua mang điệu múa hát về các phiên trấn xa xôi nơi họ cai trị rồi dần dần phổ biến khắp dân gian.
Tục ngắm trăng, xem ca múa sau biến thành
thú vui chơi đêm rằm Trung Thu .
Về sau tết Trung Thu lan rộng sang các
nước láng giềng và thuộc địa của Trung Hoa.
Sách sử Việt không nói rõ dân ta bắt đầu chơi
Tết Trung Thu từ bao giờ, chỉ biết hàng mấy trăm năm trước,
tổ tiên ta đã theo tục này. Ngay từ đầu tháng tám âm lịch, chợ
búa bắt đầu có màu sắc Trung Thu. Lồng đèn, bánh nướng,
bánh dẻo đã được bày bán la liệt trong các cửa hiệu rực rỡ
ánh đèn. Người mua lẫn người đi xem đông chen như hội.
Ngoài các loại đèn giấy, bánh kẹo còn có các con giống đầu lân,
mặt ông địa bày bán đầy các chợ. Những nhà giàu còn bày cỗ
Trung Thu để khoe tài nấu nướng của các cô con gái tới tuổi lấy chồng.
Ở Việt Nam, ngày tết Trung Thu được ông Phan Kế Bính diễn tả trong "VN Phong tục": "ban ngày làm cỗ cúng gia tiên, tối đến bày cỗ thưởng Nguyệt. Ðầu cỗ là bánh mặt trăng, và dùng nhiều thứ bánh trái hoa quả, nhuộm các màu các sắc, sặc sỡ xanh, đỏ, trắng, vàng. Con gái hàng phố thi nhau tài khéo, gọt đu đủ thành các thứ hoa nọ hoa kia, nặn bột làm con tôm con cá coi cũng đẹp".
Sự tích chị Hằng Nga
Tương truyền, vào thời xa xưa, trên trời xuất hiện mười ông mặt trời, cùng chiếu xuống mặt đất nóng đến bốc khói, biển hồ khô cạn, người dân gần như không thể sống nổi. Chuyện này đã làm kinh động đến một anh hùng tên là Hậu Nghệ. Anh đã trèo lên đỉnh núi Côn Lôn, dùng thần lực giương nỏ thần bắn rụng chín ông mặt trời. Hậu Nghệ đã lập nên thần công cái thế, nhận được sự tôn kính và yêu mến của mọi người, rất nhiều chí sĩ mộ danh đã tìm đến tầm sư học đạo, trong đó có Bồng Mông là một kẻ tâm thuật bất chính.
Không lâu sau, Hậu Nghệ lấy một người vợ xinh đẹp, tốt bụng, tên là Hằng Nga. Ngoài dạy học săn bắn, cả ngày Hậu Nghệ luôn ở bên cạnh vợ, mọi người đều ngưỡng mộ đôi vợ chồng trai tài gái sắc này.
Một hôm, Hậu Nghệ đến núi Côn Lôn thăm bạn, trên đường tình cờ gặp được Vương mẫu nương nương đi ngang qua, bèn xin Vương mẫu thuốc trường sinh bất tử. Nghe nói, uống thuốc này vào, sẽ lập tức được bay lên trời thành tiên. Nhưng Hậu Nghệ không nỡ rời xa vợ hiền, đành tạm thời đưa thuốc bất tử cho Hằng Nga cất giữ. Hằng Nga cất thuốc vào hộp đựng gương lược của mình, không ngờ đã bị Bồng Mông nhìn thấy.
Ba ngày sau, Hậu Nghệ dẫn học trò ra ngoài săn bắn, Bồng Mông với tâm địa xấu xa đã giả vờ lâm bệnh, xin ở lại. Đợi Hậu Nghệ dẫn các học trò đi không lâu, Bồng Mông tay cầm bảo kiếm, đột nhập vào hậu viện, ép Hằng Nga phải đưa ra thuốc bất tử. Hằng Nga biết mình không phải là đối thủ của Bồng Mông, trong lúc nguy cấp đã vội vàng mở hộp gương lược, lấy thuốc bất tử ra và uống hết. Hằng Nga uống thuốc xong, thấy người bỗng nhẹ rời khỏi mặt đất, hướng về cửa sổ và bay lên trời. Nhưng do Hằng Nga còn nhớ chồng, nên chỉ bay đến mặt trăng là nơi gần với nhân gian nhất rồi trở thành tiên.
Tối hôm đó, khi Hậu Nghệ về đến nhà,
các thị nữ vừa khóc vừa kể lại câu
chuyện xảy ra lúc sáng. Hậu Nghệ
vừa lo vừa giận, đã rút kiếm tìm giết nghịch đồ, nhưng Bồng Mông đã trốn đi từ lâu.
Hậu Nghệ nổi giận nhưng chỉ biết vỗ ngực giậm chân
kêu khóc. Trong lúc đau khổ, Hậu Nghệ đã ngửa cổ
lên trời đêm gọi tên vợ hiền. Khi đó, anh kinh ngạc
phát hiện ra, trăng hôm nay đặc biệt sáng ngời, mà
còn có thêm một bóng người cử động trông giống
Hằng Nga. Hậu Nghệ vội sai người đến hậu hoa viên
nơi Hằng Nga yêu thích, lập bàn hương án, đặt lên đó
những món ăn và trái cây mà bình thường Hằng Nga
thích ăn nhất, để tế Hằng Nga nơi cung trăng đang
nhớ đến mình.
Sau khi mọi người nghe tin Hằng Nga lên cung trăng thành tiên nữ, đều đã lần lượt bày hương án dưới ánh trăng, cầu xin Hằng Nga tốt bụng ban cho may mắn và bình an. Từ đó, phong tục “bái nguyệt” vào tết trung thu được truyền đi trong dân gian.
Đố vui có thưởng đây
Câu 1: Cái gì năm cánh
mà chẳng biết bay,
em cầm trên tay
đêm rằm toả sáng?
Câu 2: Cái gì lơ lửng,
trên tận trời cao,
bên các vì sao
không ai lấy được?
Câu 3: Con gì mào đỏ
lông mượt như tơ
sáng sớm tinh mơ
gọi người thức dậy?
Câu 4: Con gì mới nở
như cục tơ vàng
hễ có quạ sang
núp vào nách mẹ?
Câu 5: Con gì có cánh
mà lại biết bơi,
ngày xuống ao chơi
đêm về đẻ trứng?
Câu 6: Con gì ăn no,
bụng to mắt híp,
ngủ thì khìn khịt,
miệng thở phì phò?
Câu 7: Con gì lông mượt,
bắt chuột hộ ta
thích chèo cau, na,
thích ăn cơm cá
Câu 8: Con gì giữ nhà
hay hỏi "đâu đâu"
Thấy em ở đâu
Là đuôi vẫy mừng
Tết Trung Thu theo âm lịch là
ngày rằm tháng 8 hằng năm.
Đây là ngày tết của trẻ em,
còn được gọi là "Tết trông Trăng".
Trẻ em rất mong đợi được đón tết này vì thường được người lớn tặng đồ chơi, thường là đèn ông sao, mặt nạ, đèn kéo quân,... rồi bánh nướng, bánh dẻo. Vào ngày tết này, người ta tổ chức bày cỗ, trông trăng. Thời điểm trăng lên cao, trẻ em sẽ vừa múa hát vừa ngắm trăng phá cỗ.
Tục vui Tết Trung-Thu đã có từ thời Đường Minh Hoàng bên Trung-Hoa, vào đầu thế kỷ thứ tám (713-755).
Sách xưa chép rằng, nhân một đêm
rằm tháng tám, lên thăm cung trăng
một lần cho biết. Pháp-sư Diệu Pháp Thiên
tâu xin làm phép đưa vua lên cung trăng. Lên tới cung trăng, Minh Hoàng được chúa tiên tiếp rước, bày tiệc đãi đằng và cho hàng trăm tiên nữ xinh tươi mặc áo lụa mỏng nhiều màu sắc rực rỡ, tay cầm tấm lụa trắng tung múa trên sân, vừa múa vừa hát, gọi là khúc Nghê-Thường vũ y. Vua Đường thích quá; nhờ có khiếu thẩm âm nên vừa trầm trồ khen ngợi vừa lẩm nhẩm học thuộc lòng bài hát và điệu múa mong đem về hoàng cung bày cho các cung nữ trình diễn. Cuối năm đó, quan Tiết Độ Sứ cai trị xứ Tây Lương mang về triều tiến dâng một đoàn vũ nữ với điệu múa Bà-la-môn.
Vua thấy điệu múa có nhiều chỗ giống Nghê-Thường vũ y, liền chỉnh đốn hai bài hát và hai điệu làm thành Nghê-Thường vũ y khúc. Về sau các quan cũng bắt chước vua mang điệu múa hát về các phiên trấn xa xôi nơi họ cai trị rồi dần dần phổ biến khắp dân gian.
Tục ngắm trăng, xem ca múa sau biến thành
thú vui chơi đêm rằm Trung Thu .
Về sau tết Trung Thu lan rộng sang các
nước láng giềng và thuộc địa của Trung Hoa.
Sách sử Việt không nói rõ dân ta bắt đầu chơi
Tết Trung Thu từ bao giờ, chỉ biết hàng mấy trăm năm trước,
tổ tiên ta đã theo tục này. Ngay từ đầu tháng tám âm lịch, chợ
búa bắt đầu có màu sắc Trung Thu. Lồng đèn, bánh nướng,
bánh dẻo đã được bày bán la liệt trong các cửa hiệu rực rỡ
ánh đèn. Người mua lẫn người đi xem đông chen như hội.
Ngoài các loại đèn giấy, bánh kẹo còn có các con giống đầu lân,
mặt ông địa bày bán đầy các chợ. Những nhà giàu còn bày cỗ
Trung Thu để khoe tài nấu nướng của các cô con gái tới tuổi lấy chồng.
Ở Việt Nam, ngày tết Trung Thu được ông Phan Kế Bính diễn tả trong "VN Phong tục": "ban ngày làm cỗ cúng gia tiên, tối đến bày cỗ thưởng Nguyệt. Ðầu cỗ là bánh mặt trăng, và dùng nhiều thứ bánh trái hoa quả, nhuộm các màu các sắc, sặc sỡ xanh, đỏ, trắng, vàng. Con gái hàng phố thi nhau tài khéo, gọt đu đủ thành các thứ hoa nọ hoa kia, nặn bột làm con tôm con cá coi cũng đẹp".
Sự tích chị Hằng Nga
Tương truyền, vào thời xa xưa, trên trời xuất hiện mười ông mặt trời, cùng chiếu xuống mặt đất nóng đến bốc khói, biển hồ khô cạn, người dân gần như không thể sống nổi. Chuyện này đã làm kinh động đến một anh hùng tên là Hậu Nghệ. Anh đã trèo lên đỉnh núi Côn Lôn, dùng thần lực giương nỏ thần bắn rụng chín ông mặt trời. Hậu Nghệ đã lập nên thần công cái thế, nhận được sự tôn kính và yêu mến của mọi người, rất nhiều chí sĩ mộ danh đã tìm đến tầm sư học đạo, trong đó có Bồng Mông là một kẻ tâm thuật bất chính.
Không lâu sau, Hậu Nghệ lấy một người vợ xinh đẹp, tốt bụng, tên là Hằng Nga. Ngoài dạy học săn bắn, cả ngày Hậu Nghệ luôn ở bên cạnh vợ, mọi người đều ngưỡng mộ đôi vợ chồng trai tài gái sắc này.
Một hôm, Hậu Nghệ đến núi Côn Lôn thăm bạn, trên đường tình cờ gặp được Vương mẫu nương nương đi ngang qua, bèn xin Vương mẫu thuốc trường sinh bất tử. Nghe nói, uống thuốc này vào, sẽ lập tức được bay lên trời thành tiên. Nhưng Hậu Nghệ không nỡ rời xa vợ hiền, đành tạm thời đưa thuốc bất tử cho Hằng Nga cất giữ. Hằng Nga cất thuốc vào hộp đựng gương lược của mình, không ngờ đã bị Bồng Mông nhìn thấy.
Ba ngày sau, Hậu Nghệ dẫn học trò ra ngoài săn bắn, Bồng Mông với tâm địa xấu xa đã giả vờ lâm bệnh, xin ở lại. Đợi Hậu Nghệ dẫn các học trò đi không lâu, Bồng Mông tay cầm bảo kiếm, đột nhập vào hậu viện, ép Hằng Nga phải đưa ra thuốc bất tử. Hằng Nga biết mình không phải là đối thủ của Bồng Mông, trong lúc nguy cấp đã vội vàng mở hộp gương lược, lấy thuốc bất tử ra và uống hết. Hằng Nga uống thuốc xong, thấy người bỗng nhẹ rời khỏi mặt đất, hướng về cửa sổ và bay lên trời. Nhưng do Hằng Nga còn nhớ chồng, nên chỉ bay đến mặt trăng là nơi gần với nhân gian nhất rồi trở thành tiên.
Tối hôm đó, khi Hậu Nghệ về đến nhà,
các thị nữ vừa khóc vừa kể lại câu
chuyện xảy ra lúc sáng. Hậu Nghệ
vừa lo vừa giận, đã rút kiếm tìm giết nghịch đồ, nhưng Bồng Mông đã trốn đi từ lâu.
Hậu Nghệ nổi giận nhưng chỉ biết vỗ ngực giậm chân
kêu khóc. Trong lúc đau khổ, Hậu Nghệ đã ngửa cổ
lên trời đêm gọi tên vợ hiền. Khi đó, anh kinh ngạc
phát hiện ra, trăng hôm nay đặc biệt sáng ngời, mà
còn có thêm một bóng người cử động trông giống
Hằng Nga. Hậu Nghệ vội sai người đến hậu hoa viên
nơi Hằng Nga yêu thích, lập bàn hương án, đặt lên đó
những món ăn và trái cây mà bình thường Hằng Nga
thích ăn nhất, để tế Hằng Nga nơi cung trăng đang
nhớ đến mình.
Sau khi mọi người nghe tin Hằng Nga lên cung trăng thành tiên nữ, đều đã lần lượt bày hương án dưới ánh trăng, cầu xin Hằng Nga tốt bụng ban cho may mắn và bình an. Từ đó, phong tục “bái nguyệt” vào tết trung thu được truyền đi trong dân gian.
Đố vui có thưởng đây
Câu 1: Cái gì năm cánh
mà chẳng biết bay,
em cầm trên tay
đêm rằm toả sáng?
Câu 2: Cái gì lơ lửng,
trên tận trời cao,
bên các vì sao
không ai lấy được?
Câu 3: Con gì mào đỏ
lông mượt như tơ
sáng sớm tinh mơ
gọi người thức dậy?
Câu 4: Con gì mới nở
như cục tơ vàng
hễ có quạ sang
núp vào nách mẹ?
Câu 5: Con gì có cánh
mà lại biết bơi,
ngày xuống ao chơi
đêm về đẻ trứng?
Câu 6: Con gì ăn no,
bụng to mắt híp,
ngủ thì khìn khịt,
miệng thở phì phò?
Câu 7: Con gì lông mượt,
bắt chuột hộ ta
thích chèo cau, na,
thích ăn cơm cá
Câu 8: Con gì giữ nhà
hay hỏi "đâu đâu"
Thấy em ở đâu
Là đuôi vẫy mừng
* Một số tài liệu cũ có thể bị lỗi font khi hiển thị do dùng bộ mã không phải Unikey ...
Người chia sẻ: Hoàng Huyền Nhung
Dung lượng: |
Lượt tài: 0
Loại file:
Nguồn : Chưa rõ
(Tài liệu chưa được thẩm định)