Toán học Việt Nam
Chia sẻ bởi Nguyễn Văn Quân |
Ngày 16/10/2018 |
27
Chia sẻ tài liệu: Toán học Việt Nam thuộc Tin học 9
Nội dung tài liệu:
Phần 1: Thành tựu toán học của người việt thời xưa.
Từ thế kỷ 17, một người Anh tên là Dampier, sau một thời gian sống tại Việt Nam đã nhận xét: "Người Việt Nam rất giỏi số học, hình học và thiên văn học" . Ngày nay, dựa vào tài liệu khảo cổ học, vào lịch sử ngôn ngữ, vào khảo sát cấu trúc các công trình kiến trúc cổ còn lại... ta thấy rõ người Việt Nam xưa ắt phải giỏi tính toán, và toán học đã được ứng dụng khá nhiều vào đời sống. Trong toán học, số học là môn phát sinh trước, sớm nhất. Nếu đứng ở góc độ số học để khảo cứu những cánh sao, tia sáng mặt trời, đàn con chim, chiếc thuyền... khắc vẽ trên mặt, trên thân các trống đồng Đông Sơn, chúng ta sẽ tập hợp được nhiều sự kiện toán học nằm trong đó, cung cấp cho ta một bức tranh đẹp về trình độ nắm vững và sử dụng số học của tổ tiên ta thời cổ đại. Nghiên cứu các hoa văn trên đồ gốm tìm được ở Phùng Nguyên, Gò Bông, Xóm Rền... chúng ta thấy các dạng hoa văn rất phong phú: hình chữ S, có loại dài, loại vuông, loại nối ngang lưng nhau; hình chữ X, chữ A; hai đường song song uốn khúc đều đặn, liên tục; hình tam giác xếp ngược chiều nhau, hình tam giác cuộn. Qua đấy, không thể nghi ngờ gì được khi nói rằng người Việt Nam 3-4 nghìn năm trước đây đã có những nhận thức hình học và tư duy chính xác khá cao. Từ hình dáng, kích thước các trống đồng loại cổ nhất ở Việt Nam, chúng ta hiểu, để tạo được những mặt tròn đường kính to nhỏ khác nhau, những mặt phẳng, những góc độ chính xác ấy, các nhà chế tác trống đồng thuở đó phải sử dụng các con số, các loại thước chính xác.
ở nước ta, thi toán được đưa vào chương trình khoa cử từ thế kỷ thứ 11 (đời Lý, năm 1077). Thời nhà Hồ không những bắt buộc chương trình thi toán mà còn áp dụng rộng rãi toán học vào kinh tế, sản xuất: dùng toán học đo lại tổng số ruộng đất toàn quốc, lập thành sổ sách điền địa từng lộ, phủ, châu, huyện. Năm 1506, Nhà nước tổ chức kỳ thi toán có 30 nghìn người dự thi. Kết quả 1.519 người trúng tuyển, trong đó có 144 người giỏi, 25 người rất giỏi. Nói chung, ở nước ta thời xưa cứ khoảng 10 đến 15 năm lại một lần mở khoa thi toán, hỏi về các phép bình phân và sai phân. Truyền thống này được duy trì lâu dài. Thế kỷ thứ 18, cứ 12 năm lại tổ chức một lần thi toán. Thí dụ, kỳ thi toán năm 1762 có 120 người trúng tuyển.
Trong số các nhà toán học giỏi của nước ta thế kỷ thứ 15 - 16, Lương Thế Vinh và Vũ Hữu là những người nổi bật, được đương thời tôn làm "thần toán".
Trong phạm vi thế giới, cuộc thi toán đầu tiên được tổ chức ở Hungari, từ năm 1894. Cuộc thi toán đã khiến cho đất nước này xuất hiện rất nhiều nhà toán học ưu tú và do đó Hungari đã trở thành một nước lớn về Toán học. Cách làm của Hungari được các quốc gia khác hết sức coi trọng và lần lượt tiến hành các cuộc thi khác như sau: Rumani (1902), Liên Xô cũ (1950), Bulgari (1949), Balan (1950), Tiệp Khắc cũ (1951), Việt Nam (1962)...
Từ năm 1959, cuộc thi Olimpic Toán quốc tế bắt đầu được tổ chức ở các nước Đông Âu, cuộc thi đã bồi dưỡng không ít nhân tài. Nhưng không phải tất cả những người thắng cuộc trong các cuộc thi đó về sau đều có những thành công nổi bật.
Phần 2: Các nhà toán học lớn của nước ta.
Nhà toán học Lê Văn Thiêm (1918 - 1991)
Lê Văn Thiêm sinh tại làng Trung Lễ, huyện Đức Thọ
(Hà Tĩnh). Năm 1939, ông du học tại Pháp.
Anh thanh niên Lê Văn Thiêm, con một gia đình thanh bạch, có truyền thống ham học, phải rời quê hương Đức Thọ, Hà Tĩnh, sống nhờ người anh là y sĩ Lê Văn Kỷ làm việc ở Quy Nhơn để tiếp tục học. Sau khi đỗ Thành chung năm 1936, anh Lê Văn Thiêm tự học trong 3 tháng thi đậu tiếp bằng Tú tài I thay vì phải học 2 năm như mọi người. Năm học 1936-1937, Lê Văn Thiêm ghi tên vào lớp học Toán (tương đương lớp 12 chuyên ban) trường Bưởi ở Hà Nội để chuẩn bị thi Tú tài Toán học. Anh vào học chậm 3 năm, ăn mặc lại "quê mùa", nói giọng nặng trịch với những thổ âm khó
Từ thế kỷ 17, một người Anh tên là Dampier, sau một thời gian sống tại Việt Nam đã nhận xét: "Người Việt Nam rất giỏi số học, hình học và thiên văn học" . Ngày nay, dựa vào tài liệu khảo cổ học, vào lịch sử ngôn ngữ, vào khảo sát cấu trúc các công trình kiến trúc cổ còn lại... ta thấy rõ người Việt Nam xưa ắt phải giỏi tính toán, và toán học đã được ứng dụng khá nhiều vào đời sống. Trong toán học, số học là môn phát sinh trước, sớm nhất. Nếu đứng ở góc độ số học để khảo cứu những cánh sao, tia sáng mặt trời, đàn con chim, chiếc thuyền... khắc vẽ trên mặt, trên thân các trống đồng Đông Sơn, chúng ta sẽ tập hợp được nhiều sự kiện toán học nằm trong đó, cung cấp cho ta một bức tranh đẹp về trình độ nắm vững và sử dụng số học của tổ tiên ta thời cổ đại. Nghiên cứu các hoa văn trên đồ gốm tìm được ở Phùng Nguyên, Gò Bông, Xóm Rền... chúng ta thấy các dạng hoa văn rất phong phú: hình chữ S, có loại dài, loại vuông, loại nối ngang lưng nhau; hình chữ X, chữ A; hai đường song song uốn khúc đều đặn, liên tục; hình tam giác xếp ngược chiều nhau, hình tam giác cuộn. Qua đấy, không thể nghi ngờ gì được khi nói rằng người Việt Nam 3-4 nghìn năm trước đây đã có những nhận thức hình học và tư duy chính xác khá cao. Từ hình dáng, kích thước các trống đồng loại cổ nhất ở Việt Nam, chúng ta hiểu, để tạo được những mặt tròn đường kính to nhỏ khác nhau, những mặt phẳng, những góc độ chính xác ấy, các nhà chế tác trống đồng thuở đó phải sử dụng các con số, các loại thước chính xác.
ở nước ta, thi toán được đưa vào chương trình khoa cử từ thế kỷ thứ 11 (đời Lý, năm 1077). Thời nhà Hồ không những bắt buộc chương trình thi toán mà còn áp dụng rộng rãi toán học vào kinh tế, sản xuất: dùng toán học đo lại tổng số ruộng đất toàn quốc, lập thành sổ sách điền địa từng lộ, phủ, châu, huyện. Năm 1506, Nhà nước tổ chức kỳ thi toán có 30 nghìn người dự thi. Kết quả 1.519 người trúng tuyển, trong đó có 144 người giỏi, 25 người rất giỏi. Nói chung, ở nước ta thời xưa cứ khoảng 10 đến 15 năm lại một lần mở khoa thi toán, hỏi về các phép bình phân và sai phân. Truyền thống này được duy trì lâu dài. Thế kỷ thứ 18, cứ 12 năm lại tổ chức một lần thi toán. Thí dụ, kỳ thi toán năm 1762 có 120 người trúng tuyển.
Trong số các nhà toán học giỏi của nước ta thế kỷ thứ 15 - 16, Lương Thế Vinh và Vũ Hữu là những người nổi bật, được đương thời tôn làm "thần toán".
Trong phạm vi thế giới, cuộc thi toán đầu tiên được tổ chức ở Hungari, từ năm 1894. Cuộc thi toán đã khiến cho đất nước này xuất hiện rất nhiều nhà toán học ưu tú và do đó Hungari đã trở thành một nước lớn về Toán học. Cách làm của Hungari được các quốc gia khác hết sức coi trọng và lần lượt tiến hành các cuộc thi khác như sau: Rumani (1902), Liên Xô cũ (1950), Bulgari (1949), Balan (1950), Tiệp Khắc cũ (1951), Việt Nam (1962)...
Từ năm 1959, cuộc thi Olimpic Toán quốc tế bắt đầu được tổ chức ở các nước Đông Âu, cuộc thi đã bồi dưỡng không ít nhân tài. Nhưng không phải tất cả những người thắng cuộc trong các cuộc thi đó về sau đều có những thành công nổi bật.
Phần 2: Các nhà toán học lớn của nước ta.
Nhà toán học Lê Văn Thiêm (1918 - 1991)
Lê Văn Thiêm sinh tại làng Trung Lễ, huyện Đức Thọ
(Hà Tĩnh). Năm 1939, ông du học tại Pháp.
Anh thanh niên Lê Văn Thiêm, con một gia đình thanh bạch, có truyền thống ham học, phải rời quê hương Đức Thọ, Hà Tĩnh, sống nhờ người anh là y sĩ Lê Văn Kỷ làm việc ở Quy Nhơn để tiếp tục học. Sau khi đỗ Thành chung năm 1936, anh Lê Văn Thiêm tự học trong 3 tháng thi đậu tiếp bằng Tú tài I thay vì phải học 2 năm như mọi người. Năm học 1936-1937, Lê Văn Thiêm ghi tên vào lớp học Toán (tương đương lớp 12 chuyên ban) trường Bưởi ở Hà Nội để chuẩn bị thi Tú tài Toán học. Anh vào học chậm 3 năm, ăn mặc lại "quê mùa", nói giọng nặng trịch với những thổ âm khó
* Một số tài liệu cũ có thể bị lỗi font khi hiển thị do dùng bộ mã không phải Unikey ...
Người chia sẻ: Nguyễn Văn Quân
Dung lượng: 189,00KB|
Lượt tài: 0
Loại file: doc
Nguồn : Chưa rõ
(Tài liệu chưa được thẩm định)