TÌM HIỂU VỀ BÀI THƠ TIẾNG HÁT CON TÀU
Chia sẻ bởi Lê Trọng Châu |
Ngày 18/10/2018 |
21
Chia sẻ tài liệu: TÌM HIỂU VỀ BÀI THƠ TIẾNG HÁT CON TÀU thuộc Ngữ văn 6
Nội dung tài liệu:
TÌM HIỂU VỀ BÀI THƠ TIẾNG HÁT CON TÀU
Tây bắc ư? Có riêng gì Tây Bắc Khi lòng ta đã hoá thành những con tàu, Khi Tở quốc bốn bề lên tiếng hát Tâm hồn ta là Tây Bắc, chứ còn đâu. Con tàu này lên Tây Bắc anh đi chăng? Bạn bè đi xa anh giữ trời Hà Nội Anh có nghe gió ngàn đang rú gọi Ngoài cửa ô? Tàu đói những vành trăng. Đất nước mênh mông, đời anh nhỏ hẹp Tàu gọi anh đi, sao chửa ra đi? Chẳng có thơ đâu giữa lòng đóng khép Tâm hồn anh chờ gặp anh trên kia. Trên Tây Bắc! Ôi mười năm Tây Bắc Xứ thiêng liêng, rừng núi đã anh hùng Nơi máu đỏ tâm hồn ta thấm đất Nay dạt dào đã chín trái đầu xuân. Ơi kháng chiến! Mười năm qua như ngọn lửa Nghìn năm sau, còn đủ sức soi đuờng Con đã đi nhưng con cần vượt nữa Cho con về gặp lại Mẹ yêu thương. Con gặp lại nhận dân như nai về suối cũ Cỏ đón giêng hai, chim én gặp mùa Như đứa trẻ thơ đói lòng gặp sữa Chiếc nôi ngừng bỗng đập cánh tay đưa. Con nhớ anh con, người anh du kích Chiếc áo nâu anh mặc đêm công đồn Chiếc áo nâu suốt một đời vá rách Đêm cuối cùng cho anh con cởi lại cho con. Con nhớ em con, thằng em liên lạc Rừng thưa em băng, rừng rậm em liên lạc Sáng bản Na, chiều em qua bản bắc Mười năm tròn! Chưa mất một phong thư. Cón nhớ quê mế! Lửa hồng soi tóc bạc Năm con đau, mế thức một mùa dài Con với mế không phải hòn máu cắt Nhưng trọn đời con nhớ mãi ơn nuôi. Nhớ bản sương giăng, nhớ đèo mây phủ Nơi nao qua, lòng lại chẳng yêu thương? Khi ta ở, chỉ là nơi đất ở Khi ta đi, đất bỗng hoá tâm hồn! Anh bỗng nhớ em như đông về nhớ rét Tình yêu ta như cánh kiến hoa vàng Như xuân đến chim rừng lông trở biếc Tình yêu làm đất lạ hoá quê hương. Anh nắm tay em cuối mùa chiến dịch Vắt xuôi nuôi quân em giấu giữa rừng Đất Tây Bắc tháng ngày không có lịch Bữa xôi đầu còn toả mùi hương. Đất nước gọi ta hay lòng ta gọi? Tình em đang mong tình mẹ đang chờ Tình hãy vỗ dùm ta đôi cánh vội Mắt ta thèm mái ngói đỏ trăm ga. Mắt ta nhớ mặt người, tai ta nhớ tiếng Mùa nhân dân giăng lúa chín rì rào Rẽ người mà đi vịn tay mà đến Mặt đất nồng nhụa nóng của cần lao. Nhựa nóng của mười năm nhân dân máu đổ Tây Bắc ơi, ngưòi mẹ của hồn thơ Mười năm chiến tranh vàng ta đau trong lửa Nay trở về, ta lấy lại vàng ta. Lấy cả những cơn mơ! Ai bảo con tàu không mộng tưởng? Mỗi đêm khuya không uống một vầng trăng Lòng ta cũng như tàu, ta cũng uống Mắt hồng em trong suối lớn mùa xuân.
Tác giả Phan Ngọc Hoan, bút danh Chế Lan Viên (1820 – 1989). Tác phẩm: “Điêu tàn” (1937), “Ánh sáng và phù sa” (1960), “Hoa ngày thường – chim báo bão” (1967), “Những bài thơ đánh giặc” (1972),… : “Hoa trên đá…” (1984)… Thơ Chế Lan Viên giàu chất suy tưởng và vẻ đẹp trí tuệ, sử dụng thủ pháp nghệ thuật tương phản đối lập, sáng tạo ra những hình ảnh đẹp mới lạ và ngôn ngữ sắc sảo. Xuất xứ và ý tưởng chính của bài thơ 1. Bài thơ “Tiếng hát con tàu” rút từ tập thơ “Ánh sáng và phù sa” xuất bản năm 1960. 2. Bài thơ thể hiện sự gắn bó với đất nước và nhân dân trong kháng chiến cũng như trong kiến thiết hoà hình là để đền ơn đáp nghĩa, để trở về cội nguồn hạnh phúc cũng là tìm thấy nguồn vui trong lao động sáng tạo nghệ thuật. Những vần thơ đẹp và hay 1. Khổ thơ đề từ
“Tây Bắc ư? Có riêng gì Tây Bắc, Khi lòng ta đã hóa những con tàu Khi Tổ quốc bốn bề lên tiếng hát Tâm hồn ta là Tây Bắc chứ còn đâu?”
Tây Bắc trong bài thơ là biểu
Tây bắc ư? Có riêng gì Tây Bắc Khi lòng ta đã hoá thành những con tàu, Khi Tở quốc bốn bề lên tiếng hát Tâm hồn ta là Tây Bắc, chứ còn đâu. Con tàu này lên Tây Bắc anh đi chăng? Bạn bè đi xa anh giữ trời Hà Nội Anh có nghe gió ngàn đang rú gọi Ngoài cửa ô? Tàu đói những vành trăng. Đất nước mênh mông, đời anh nhỏ hẹp Tàu gọi anh đi, sao chửa ra đi? Chẳng có thơ đâu giữa lòng đóng khép Tâm hồn anh chờ gặp anh trên kia. Trên Tây Bắc! Ôi mười năm Tây Bắc Xứ thiêng liêng, rừng núi đã anh hùng Nơi máu đỏ tâm hồn ta thấm đất Nay dạt dào đã chín trái đầu xuân. Ơi kháng chiến! Mười năm qua như ngọn lửa Nghìn năm sau, còn đủ sức soi đuờng Con đã đi nhưng con cần vượt nữa Cho con về gặp lại Mẹ yêu thương. Con gặp lại nhận dân như nai về suối cũ Cỏ đón giêng hai, chim én gặp mùa Như đứa trẻ thơ đói lòng gặp sữa Chiếc nôi ngừng bỗng đập cánh tay đưa. Con nhớ anh con, người anh du kích Chiếc áo nâu anh mặc đêm công đồn Chiếc áo nâu suốt một đời vá rách Đêm cuối cùng cho anh con cởi lại cho con. Con nhớ em con, thằng em liên lạc Rừng thưa em băng, rừng rậm em liên lạc Sáng bản Na, chiều em qua bản bắc Mười năm tròn! Chưa mất một phong thư. Cón nhớ quê mế! Lửa hồng soi tóc bạc Năm con đau, mế thức một mùa dài Con với mế không phải hòn máu cắt Nhưng trọn đời con nhớ mãi ơn nuôi. Nhớ bản sương giăng, nhớ đèo mây phủ Nơi nao qua, lòng lại chẳng yêu thương? Khi ta ở, chỉ là nơi đất ở Khi ta đi, đất bỗng hoá tâm hồn! Anh bỗng nhớ em như đông về nhớ rét Tình yêu ta như cánh kiến hoa vàng Như xuân đến chim rừng lông trở biếc Tình yêu làm đất lạ hoá quê hương. Anh nắm tay em cuối mùa chiến dịch Vắt xuôi nuôi quân em giấu giữa rừng Đất Tây Bắc tháng ngày không có lịch Bữa xôi đầu còn toả mùi hương. Đất nước gọi ta hay lòng ta gọi? Tình em đang mong tình mẹ đang chờ Tình hãy vỗ dùm ta đôi cánh vội Mắt ta thèm mái ngói đỏ trăm ga. Mắt ta nhớ mặt người, tai ta nhớ tiếng Mùa nhân dân giăng lúa chín rì rào Rẽ người mà đi vịn tay mà đến Mặt đất nồng nhụa nóng của cần lao. Nhựa nóng của mười năm nhân dân máu đổ Tây Bắc ơi, ngưòi mẹ của hồn thơ Mười năm chiến tranh vàng ta đau trong lửa Nay trở về, ta lấy lại vàng ta. Lấy cả những cơn mơ! Ai bảo con tàu không mộng tưởng? Mỗi đêm khuya không uống một vầng trăng Lòng ta cũng như tàu, ta cũng uống Mắt hồng em trong suối lớn mùa xuân.
Tác giả Phan Ngọc Hoan, bút danh Chế Lan Viên (1820 – 1989). Tác phẩm: “Điêu tàn” (1937), “Ánh sáng và phù sa” (1960), “Hoa ngày thường – chim báo bão” (1967), “Những bài thơ đánh giặc” (1972),… : “Hoa trên đá…” (1984)… Thơ Chế Lan Viên giàu chất suy tưởng và vẻ đẹp trí tuệ, sử dụng thủ pháp nghệ thuật tương phản đối lập, sáng tạo ra những hình ảnh đẹp mới lạ và ngôn ngữ sắc sảo. Xuất xứ và ý tưởng chính của bài thơ 1. Bài thơ “Tiếng hát con tàu” rút từ tập thơ “Ánh sáng và phù sa” xuất bản năm 1960. 2. Bài thơ thể hiện sự gắn bó với đất nước và nhân dân trong kháng chiến cũng như trong kiến thiết hoà hình là để đền ơn đáp nghĩa, để trở về cội nguồn hạnh phúc cũng là tìm thấy nguồn vui trong lao động sáng tạo nghệ thuật. Những vần thơ đẹp và hay 1. Khổ thơ đề từ
“Tây Bắc ư? Có riêng gì Tây Bắc, Khi lòng ta đã hóa những con tàu Khi Tổ quốc bốn bề lên tiếng hát Tâm hồn ta là Tây Bắc chứ còn đâu?”
Tây Bắc trong bài thơ là biểu
* Một số tài liệu cũ có thể bị lỗi font khi hiển thị do dùng bộ mã không phải Unikey ...
Người chia sẻ: Lê Trọng Châu
Dung lượng: |
Lượt tài: 0
Loại file:
Nguồn : Chưa rõ
(Tài liệu chưa được thẩm định)