Tiet 21: lam bài tap lich su

Chia sẻ bởi Nguyễn Thị Thu Phương | Ngày 27/04/2019 | 41

Chia sẻ tài liệu: tiet 21: lam bài tap lich su thuộc Bài giảng khác

Nội dung tài liệu:

Đã đến tham dự tiết học lịch sử của tổ 2 chúng em
Chào mừng cô cùng toàn thể các bạn lớp 9a3
Hồ Chí Minh
“Vì sao trái đất nặng ân tình
Nhắc mãi tên người Hồ Chí Minh
Như một niềm tin, như dũng khí
Như lòng nhân ái, đức hi sinh’’

Tìm hiểu về cuộc đời và sự nghiệp
của Chủ tịch Hồ Chí Minh
Tiết 21-
Làm bài tập lịch sử
I- Cuộc đời và sự nghiệp của Bác
1,Xuất thân và quê quán
Bác tên thật là Nguyễn Sinh Cung ( giọng địa phương phát âm là Côông), tự là Tất Thành. Quê nội là làng Kim Liên (tên Nôm là làng Sen). Bác được sinh ra ở quê ngoại là làng Hoàng Trù (tên Nôm là làng Chùa, nằm cách làng Sen khoảng 2 km) và sống ở đây cho đến năm 1895. Hai làng này vốn cùng nằm trong xã Chung Cự, thuộc tổng Lâm Thịnh, huyện Nam Đàn. Quê nội của Bác, làng Kim Liên là một làng quê nghèo khó. Phần lớn dân chúng không có ruộng, phải làm thuê cấy rẽ, mặc quần ít, đóng khố nhiều, bởi thế nên làng này còn có tên là làng Đai Khố. Vào đời Bác, phần lớn dòng họ của Bác đều cơ hàn, kiếm sống bằng nghề làm thuê, và cũng có người tham gia các hoạt động chống Pháp.
Thân phụ Bác là một nhà nho tên là Nguyễn Sinh Sắc, từng đỗ phó bảng. Thân mẫu là bà Hoàng Thị Loan. Bác có một người chị là Nguyễn Thị Thanh, một người anh là Nguyễn Sinh Khiêm (tự Tất Đạt, còn gọi là Cả Khiêm) và một người em trai mất sớm là Nguyễn Sinh Nhuận (1900-1901, tên khi mới lọt lòng là Xin).
2) Tuổi trẻ của Bác
Năm 1906, Nguyễn Tất Thành theo cha vào Huế lần thứ hai và học ở trường tiểu học Pháp-Việt Đông Ba. Tháng 9 năm 1907, Bác vào học tại trường Quốc học Huế, nhưng bị đuổi học vào cuối tháng 5 năm 1908 vì tham gia phong trào chống thuế ở Trung Kỳ. Cha Bác bị triều đình khiển trách vì "hành vi của hai con trai". Hai anh em Tất Đạt và Tất Thành bị giám sát chặt chẽ. Bác quyết định vào miền Nam để tránh sự kiểm soát của triều đình.
Đầu năm 1910, Nguyễn Tất Thành vào đến Phan Thiết. Bác dạy chữ Hán và chữ Quốc ngữ cho học sinh lớp ba và tư tại trường Dục Thanh của Hội Liên Thành.
Trong thời gian này, Nguyễn Tất Thành thường gặp gỡ một số nhà nho yêu nước đương thời, khâm phục Đề Thám, Phan Châu Trinh, Phan Bội Châu nhưng không hoàn toàn tán thành cách làm của một người nào cả. Vì Phan Châu Trinh chỉ yêu cầu người Pháp thực hiện cải cách, điều đó chẳng khác nào "xin giặc rủ lòng thương", còn Phan Bội Châu thì hy vọng Đế quốc Nhật Bản giúp đỡ để chống Pháp, điều đó nguy hiểm chẳng khác nào "đuổi hổ cửa trước, rước báo cửa sau". Nguyễn Tất Thành thấy rõ là cần quyết định con đường đi của riêng mình.
Khoảng trước tháng 2 năm 1911, Bác nghỉ dạy và vào Sài Gòn cũng với sự giúp đỡ của Hội Liên Thành. Tại đây, Bác theo học trường Bá Nghệ là trường đào tạo công nhân hàng hải và công nhân chuyên nghiệp cho xưởng Ba Son (bây giờ là trường Cao Đẳng kỹ thuật Cao Thắng), vừa đi bán báo ở khu vực thương cảng để kiếm sống và tìm hiểu đời sống công nhân. Ở đây, Bác học được 3 tháng. Sau đó Bác quyết định sẽ tìm một công việc trên một con tàu viễn dương để được ra nước ngoài học hỏi tinh hoa của phương Tây và tìm chính sách để cứu nước.
II,Hoạt động ở nước ngoài
1) Thời kỳ 1911-1919
Ngày 5 tháng 6 năm 1911, từ Bến Nhà Rồng, Bác lấy tên Văn Ba, lên đường sang Pháp với nghề phụ bếp trên chiếc tàu buôn Đô đốc Latouche-Tréville, với mong muốn học hỏi những tinh hoa và tiến bộ từ các nước phương Tây. Ngày 6 tháng 7 năm 1911, sau hơn 1 tháng từ lúc Bác ra đi tìm được cứu nước, tàu cập cảng Marseilles, Pháp. Ở một thời thời ở Pháp rồi Bác qua Hoa Kỳ. Sau khi ở Hoa Kỳ một năm (cuối 1912-cuối 1913), Bác quay trở lại nước Anh làm nghề cào tuyết, đốt lò rồi phụ bếp cho khách sạn. Cuối năm 1917, Bác trở lại nước Pháp, sống và hoạt động ở đây cho đến năm 1923.
2) Thời kỳ ở Pháp
Ngày 18 tháng 6 năm 1919, thay mặt Hội những người An Nam yêu nước, Nguyễn Tất Thành đã mang tới Hội nghị Hòa bình Versailles bản Yêu sách của nhân dân An Nam gồm 8 điểm để kêu gọi lãnh đạo các nước Đồng Minh áp dụng các lý tưởng của Tổng thống Wilson cho các lãnh thổ thuộc địa của Pháp ở Đông Nam Á, trao tận tay tổng thống Pháp và các đoàn đại biểu đến dự hội nghị. Bản yêu sách này do một nhóm các nhà ái quốc Việt Nam sống ở Pháp, trong đó có Phan Châu Trinh, Phan Văn Trường và Nguyễn Tất Thành, cùng viết, và được ký tên chung là Nguyễn Ái Quốc. Từ đây, Nguyễn Tất Thành công khai nhận mình là Nguyễn Ái Quốc và sử dụng tên này trong suốt 30 năm sau đó.
Năm 1920, Nguyễn Ái Quốc đọc Luận cương về vấn đề dân tộc và thuộc địa của Lenin, từ đó Bác đi theo chủ nghĩa cộng sản. Bác tham dự Đại hội lần thứ 18 của Đảng Xã hội Pháp tại Tours (từ 25 đến 30 tháng 12 năm 1920) với tư cách là đại biểu Đông Dương của Đảng Xã hội Pháp, Bác trở thành một trong những sáng lập viên của Đảng Cộng sản Pháp và tách khỏi đảng Xã hội. Năm 1921, Bác cùng một số nhà yêu nước của các thuộc địa Pháp lập ra Hội Liên hiệp Thuộc địa (Union intercoloniale - Association des indigènes de toutes les colonies) nhằm tập hợp các dân tộc bị áp bức đứng lên chống chủ nghĩa đế quốc. Năm 1922, Bác cùng một số nhà cách mạng thuộc địa lập ra báo Le Paria (Người cùng khổ), làm chủ nhiệm kiêm chủ bút, nhằm tố cáo chính sách đàn áp, bóc lột của chủ nghĩa đế quốc nói chung và thực dân Pháp nói riêng. Tác phẩm "Bản án chế độ thực dân Pháp" bằng tiếng Pháp (Procès de la colonisation française) do Nguyễn Ái Quốc viết được xuất bản năm 1925, đã tố cáo chính sách thực dân tàn bạo của Pháp và đề cập đến phong trào đấu tranh của các dân tộc thuộc địa.
Tranh biếm họa của Nguyễn Ái Quốc cho tờ Le Paria, đời sống người dân dưới ách thống trị của thực dân Pháp
Hình ảnh của Bác trên báo Le Paria (Người cùng khổ)
3)Thời kỳ ở Liên Xô lần thứ nhất

Tháng 6 năm 1923, Nguyễn Ái Quốc đến Moskva học tập tại trường Đại học Lao động Cộng sản Phương Đông. Tại đây Bác đã dự Hội nghị lần thứ nhất Quốc tế Nông dân (họp từ ngày 12 đến ngày 15 tháng 10 năm 1923), Bác được bầu vào Ban chấp hành và Đoàn Chủ tịch Quốc tế Nông dân. Tại Đại hội lần thứ 5 Đệ Tam Quốc tế (họp từ ngày 17 tháng 6 đến ngày 8 tháng 7 năm 1924), Bác được cử làm ủy viên Ban Phương Đông, phụ trách Cục Phương Nam.
Năm 1924, tại thành phố Moskva, Bác viết và nộp cho tổ chức Đệ Tam Quốc tế một bản Báo cáo về tình hình Bắc Kỳ, Trung Kỳ và Nam Kỳ. Nhận thấy phong trào đấu tranh giai cấp tại Việt Nam có sự khác biệt với phong trào đấu tranh giai cấp bên Tây phương đương thời, Bác có nhận xét về các tầng lớp địa chủ, tăng lữ,... của Việt Nam như sau:
“ Những địa chủ ở đây chỉ là những tên lùn tịt bên cạnh những người trùng tên với họ ở châu Âu và châu Mỹ (…). Không có vốn liếng gì lớn…, đời sống của địa chủ cũng chẳng có gì là xa hoa”, “An Nam chưa bao giờ có tăng lữ…”.”
—Nguyễn Ái Quốc
Nguyễn Ái Quốc, chụp tại Liên Xô năm 1923
4)Thời kỳ ở Trung Quốc (1924-1927)
Ngày 11 tháng 11 nǎm 1924, Nguyễn Ái Quốc rời Liên Xô tới Quảng Châu, lấy tên là Lý Thụy, làm phiên dịch trong phái đoàn cố vấn của chính phủ Liên Xô bên cạnh Chính phủ Trung Hoa Dân quốc
Thời gian này Bác cũng gặp mặt một số nhà cách mạng lão thành người Việt đang sống và hoạt động lưu vong trên đất Trung Quốc, trong đó có Phan Bội Châu. Trong một báo cáo gửi đoàn chủ tịch Quốc tế Cộng sản đề ngày 18 tháng 12 năm 1924, Bác viết về Phan Bội Châu:
"Ông ta không hiểu chính trị và lại càng không hiểu việc tổ chức quần chúng tôi đã giải thích cho ông ta hiểu sự cần thiết của tổ chức và sự vô ích của những hành động không có cơ sở. Ông ta đã đưa tôi một bản danh sách của 14 người Việt Nam đã cùng ông ta hoạt động bấy lâu"
Trong nhóm 14 người này có một số thành viên của Tâm tâm xã - một tổ chức cấp tiến hoạt động từ 1923 với những thành viên như Hồ Tùng Mậu, Lê Hồng Sơn, Phạm Hồng Thái, Lê Hồng Phong, Lâm Đức Thụ,...thành viên đầu tiên của Tâm tâm xã là Lê Hồng Sơn, Hồ Tùng Mậu, Nguyễn Giản Thanh, Đặng Xuân Hồng, Trương Quốc Huy, Lê Cầu, Nguyễn Công Viễn; đến đầu năm 1924 thì Lê Hồng Phong và Phạm Hồng Thái được kết nạp. Tâm tâm xã bị đánh giá là non nớt, mơ hồ về lập trường chính trị, nặng về khủng bố, ám sát cá nhân.
Năm 1925, Bác (lúc này mang tên Vương) lựa chọn một số phần tử tích cực của Tâm tâm xã, huấn luyện thêm và trên cơ sở đó, lập ra Cộng sản đoàn, rồi tiếp tục dựa trên Cộng sản đoàn mà thành lập Việt Nam Thanh niên Cách mạng Đồng chí Hội (hay còn gọi là Hội Việt Nam cách mạng thanh niên) vào tháng 6. Hội này phái người về nước vận động và đưa thanh niên sang Quảng Châu đào tạo. Cho tới 1927, hội mở được trên 10 lớp huấn luyện, đào tạo 75 hội viên, mỗi khóa chỉ kéo dài 2-3 tháng. Nguyễn Ái Quốc đứng lớp, Hồ Tùng Mậu và Lê Hồng Sơn phụ giảng.Việc làm quan trọng nhất của hội trong thời gian này là cử được người đi học tại Đại học Phương Đông (Liên Xô) và trường Quân chính Hoàng Phố của Quốc dân Đảng Trung Quốc. Nguyễn Hải Thần và Vũ Hồng Khanh cũng từng làm việc hoặc học tập ở trường Hoàng Phố. Trần Phú, Lê Hồng Phong, Bùi Công Trừng, Phùng Chí Kiên, Lê Thiết Hùng, Nguyễn Sơn,… là những người được đưa đi đào tạo tại một trong hai trung tâm trên. Phần lớn người khác, như Nguyễn Lương Bằng, sau đó về nước hoạt động. Chương trình học tập gồm:
-Học "nhân loại tiến hóa sử", nhưng chủ yếu học thời kì tư bản chủ nghĩa cho tới đế quốc chủ nghĩa; sau đó học lịch sử vận động giải phóng của Triều Tiên, Trung Quốc, Ấn Độ, lịch sử mất nước của Việt Nam;
-Chủ nghĩa Mác-Lenin, học có phê phán chủ nghĩa Tam dân và chủ nghĩa Gandhi.
-Phần sau là về tổ chức: lịch sử và tổ chức ba Quốc tế Cộng sản, các tổ chức phụ nữ, thanh niên quốc tế, quốc tế cứu tế đỏ, quốc tế nông dân.
-Phần cuối là về vận động quần và tổ chức quần chúng, bài tập là các buổi thực tập. Sau mỗi tuần có "báo cáo học vấn" tại các tiểu tổ, học viên tự kiểm tra, phê bình và tự phê bình lẫn nhau.
Bác cũng lập ra tờ Thanh niên làm cơ quan phát ngôn của hội tới tháng 2 năm 1930, tờ này ra được 208 số. Cuốn Đường Kách mệnh tập hợp các bài giảng của Bác, được Hội Liên hiệp các dân tộc bị áp bức ở Á Đông xuất bản năm 1927. Bác cho rằng để cách mạng thành công, phải coi học trò, nhà buôn, điền chủ nhỏ đều là bầu bạn của cách mạng. Tư tưởng này của Bác trong đầu thập niên 1930 đã vấp phải sự phê phán của một số người cộng sản Việt Nam khác. Ngoài ra, trong thập niên 1920, một trong những quan điểm của Bác về cách mạng là: cách mạng giải phóng dân tộc ở thuộc địa có thể bùng nổ và giành thắng lợi trước cách mạng vô sản ở chính quốc.
Cùng năm 1925, Bác tham gia thành lập Hội Liên hiệp các dân tộc bị áp bức ở Á Đông, do Liêu Trọng Khải, một cộng sự thân tín của Tôn Dật Tiên, làm hội trưởng và Bác làm bí thư.
Tháng 5 năm 1927, chính quyền Trung Hoa Dân Quốc đặt những người cộng sản ra ngoài vòng pháp luật, Bác rời Quảng Châu đi Hồng Kông, rồi sang Moskva. Tháng 11 năm 1927, Bác được cử đi Pháp, rồi từ đó đi dự cuộc họp Đại hội đồng của Liên đoàn chống chiến tranh đế quốc từ ngày 9 tháng 1219 đến ngày 12 tháng 12 năm 1927 tại Bruxelles, Bỉ. Sau đó, Bác cũng qua Ý.
5) Những năm 1928, 1929
Mùa thu 1928, Bác từ châu Âu đến Thái Lan, với bí danh Thầu Chín (trong tiếng Thái và tiếng Lào, "thầu" chỉ người nhiều tuổi và biểu thị sự tôn kính) để tuyên truyền và huấn luyện cho Việt kiều, đồng thời móc nối một số thanh thiếu niên Việt Nam sang Thái Lan hoạt động.Theo Bác Hồ - hồi kí, phần kể của Lê Mạnh Trinh thì Khi đó có khoảng 2 vạn người Việt sống ở Thái Lan, kiếm sống chủ yếu bằng lao động và sinh sống khá rải rác, thiếu liên kết, tập trung nhiều hơn cả là ở vùng Đông Bắc. Cho tới thời điểm 1928, đa số họ mới di cư sang Thái Lan trong vòng khoảng mấy chục năm. Ngô Quảng, Thần Sơn, Phan Bội Châu, Đặng Tử Kính... đã từng hoạt động tại Thái, tuy nhiên không ai trong số họ tuyên truyền và tổ chức cho Việt kiều cả. Bác chủ trương tuyên truyền cho kiều bào và tổ chức họ vào những hội thân ái, tổ chức các buổi sinh hoạt văn hóa cho họ, xin chính phủ Thái cho mở trường dành cho Việt kiều, Bác đi (chủ yếu là đi bộ) và vận động hầu khắp các vùng có kiều bào ở Thái Lan .Giống như tại nhiều nơi đã hoạt động, Bác cho in báo - tờ Thân ái.
Cuối năm 1929, Bác rời Thái Lan sang Trung Quốc.
So d? hănh tr�nh t�m du?ng c?u nu?c c?a Nguy?n T?t Thănh t? 1911-1917
Cảm ơn cô và các bạn
đã chú ý lắng nghe
bản thuyết trình của chúng em
* Một số tài liệu cũ có thể bị lỗi font khi hiển thị do dùng bộ mã không phải Unikey ...

Người chia sẻ: Nguyễn Thị Thu Phương
Dung lượng: | Lượt tài: 1
Loại file:
Nguồn : Chưa rõ
(Tài liệu chưa được thẩm định)