Tiết 15. Ôn tập TĐN số 3, số 4

Chia sẻ bởi Trịnh Thanh Liêm | Ngày 13/10/2018 | 92

Chia sẻ tài liệu: Tiết 15. Ôn tập TĐN số 3, số 4 thuộc Âm nhạc 5

Nội dung tài liệu:

Chào mừng quý thầy cô về tham dự !
Thực hiện: Giáo viên Trịnh Thanh Liêm và các em học sinh lớp 5D.
Thứ năm, ngày 21 tháng 12 năm 2017
Âm nhạc
Kiểm tra bài cũ
Nghe nhạc đoán tên bài hát.
Thứ năm, ngày 21 tháng 12 năm 2017
Âm nhạc
Tiết 15: Ôn TĐN số 3, TĐN số 4
Kể chuyên âm nhạc
Bài mới
Hoạt động 1: Ôn tập đọc nhạc số 3, số 4
Chúng ta có 2 hoạt động
Hoạt động 2: Kể chuyện âm nhạc
Hoạt động 1a: Ôn tập đọc nhạc số 3
Lên
Xuống
2 lượt
Luyện cao độ
(x)
(x)
(x)
(x)
Tiết tấu 1
Tiết tấu 2
Luyện tiết tấu
Tôi hát SON LA SON
Ôn tập đọc nhạc số 3
Câu 2
Cả bài
Câu 1
Tôi hát SON LA SON
Ghép lời
Ghép 1
Ghép 2
Cả bài

trầm
tôi
hát
Đồ

Mi
Đồ.
Múa
hát
nào.
Son
Son
Son.
Tôi
hát
Son
La
Son.
Tôi hát SON LA SON
Tập đọc nhạc và ghép lời với nhạc đệm

trầm
tôi
hát
Đồ

Mi
Múa
hát
nào.
Son
Son
Son.
Tôi
hát
Son
La
Son.
Đồ
NHẠC
Hoạt động 1b: Ôn tập đọc nhạc số 4
Lên
Xuống
2 lượt
Luyện cao độ
(x)
Tiết tấu
Luyện tiết tấu
Nhớ ơn BÁC
Ôn tập đọc nhạc số 4
Câu 1
Câu 2
Cả bài
Nhớ ơn BÁC
Ghép lời
Ghép 1
Ghép 2
Cả bài
Chúng
em
múa
ca
càng
nhớ
công
ơn
Bác
Hồ.
A !

Bác
Hồ
đời
em
được
ấm
no.
Nhớ ơn BÁC
Tập đọc nhạc và ghép lời với nhạc đệm
Chúng
em
múa
ca
càng
nhớ
công
ơn
Bác
Hồ.
A !

Bác
Hồ
đời
em
được
ấm
no.
NHẠC
Hoạt động 2: Kể chuyện âm nhạc
Nghệ sĩ Cao Văn Lầu ( Sáu Lầu ), sinh năm 1892 tại Gia Định trong một gia đình nhà Nho nghèo. Ông mất ngày 13 tháng 8 năm 1976.
Nội dung câu chuyện
Nghệ sĩ Cao Văn Lầu (Sáu Lầu), sinh năm 1892 tại Gia Định trong một gia đình nhà Nho nghèo. Khi thành Gia Định thất thủ về tay quân Pháp, ông nội của ông cùng gia đình tản cư về tỉnh Long An và mất ở đây.
Cậu bé Lầu được học chữ Nho do người cha dạy. Cậu đến trường học chữ Quốc ngữ nhưng do nhà nghèo nên sớm phải thôi học.
Tranh 1
Nội dung câu chuyện
Với bản chất thông minh, ham học, khi được cha gửi đến học nhạc với ông thầy đàn tên là Nhạc Khị - một nghệ nhân nổi tiếng trong vùng, cậu bé Lầu được học đủ các môn như: Đàn tranh, đàn kìm, đánh trống lễ và ca.
Thấy Sáu Lầu là một học trò giỏi lại ngoan ngoãn, ông thầy rất yêu quý và đã tận tình truyền dạy những hiểu biết của mình. Thầy trò Nhạc Khị và Cao Văn Lầu gắn bó suốt gần mười năm. Trong đám bạn bè cùng học, Cao Văn Lầu là người học giỏi nhất, nổi tiếng là người hát hay, đàn giỏi. Lớn lên ông làm việc tại Tòa sứ Bạc Liêu và vẫn thường xuyên tham gia các nhóm đàn ca tài tử ở đây. Tác phẩm nổi tiếng nhất của Cao Văn Lầu là bản “Dạ cổ hoài lang” ra đời khoảng năm 1919 – 1920.
Tranh 2
Nội dung câu chuyện
Theo lời nghệ sĩ Ba Du kể, vào khoảng thời gian này ở Huế có một đoàn nhạc gồm những nghệ nhân tên tuổi đi du lịch vào Nam bộ. Sau khi tham quan, trao đổi nghệ thuật với các nhóm tài tử Miền đông và miền Trung Nam bộ, nhóm tài tử Huế có đến gặp nhóm tài tử Bạc Liêu. Trong những buổi hòa nhạc thân ái, giọng ca tiếng đàn đã để lại cho nhóm tài tử Bạc Liêu những ấn tượng đẹp đẻ. Để ghi lại cuộc gặp gỡ đặc biệt đó, nhóm tài tử Bạc Liêu phân công ông Sáu Lầu sáng tác một bản nhạc trong thời gian ngắn để kịp tặng lại nhóm tài tử Huế và đồng thời cũng có ý như để đáp lại bản hành văn, một bản nhạc hay nhất của nhóm nhạc Huế.
Tranh 3
Nội dung câu chuyện
Sau khi được phân công làm việc đó, ông Sáu Lầu rất lo, suy nghĩ miên man mà chưa ra một nét nhạc nào. Một hôm, như thường lệ, ông làm nhiệm vụ đứng gác bên cạnh Tòa sứ. Giữa lúc đêm khuya vắng vẻ, tĩnh mịch, thỉnh thoảng chỉ nghe tiếng trống điểm canh bên cạnh nhà tù, ông xúc động nhớ đến hình ảnh người thiếu phụ đêm khuya tựa gối trông chồng và ông bắt đầu nghĩ ra một bản nhạc lấy tên là “Dạ cổ hoài lang”./.
Tranh 4
Cố nghệ sĩ Cao Văn Lầu
1892 - 1976
Câu hỏi
Câu 1: Nghệ sĩ Cao Văn Lầu được sinh ra ở đâu? Trong một gia đình như thế nào?
Câu 2: Tác phẩm nổi tiếng nhất của Cao Văn Lầu có tên là gì? Ra đời khoảng thời gian nào?
Câu 3: Bài “Dạ cổ hoài lang” được sáng tác trong hoàn cảnh nào?
NGHỆ SĨ CAO VĂN LẦU
Sách giáo khoa âm nhạc lớp 5, trang 27, 28.

Nghệ sĩ Cao Văn Lầu (Sáu Lầu) sinh năm 1892 tại Gia Định trong một gia đình nhà Nho nghèo. Khi thành Gia Định thất thủ về tay quân Pháp, ông nội của ông cùng gia đình tản cư về tỉnh Long An và mất ở đây.
Cậu bé Lầu được học chữ Nho do người cha dạy. Cậu đến trường học chữ Quốc ngữ nhưng do nhà nghèo nên sớm phải thôi học. Với bản chất thông minh, ham học, khi được cha gửi đến học nhạc với ông thầy đàn tên là Nhạc Khị - một nghệ nhân nổi tiếng trong vùng, cậu bé Lầu được học đủ các môn như: Đàn tranh, đàn kìm, đánh trống lễ và ca.
Thấy Sáu Lầu là một học trò giỏi lại ngoan ngoãn, ông thầy rất yêu quý và đã tận tình truyền dạy những hiểu biết của mình. Thầy trò Nhạc Khị và Cao Văn Lầu gắn bó suốt gần mười năm. Trong đám bạn bè cùng học, Cao Văn Lầu là người học giỏi nhất, nổi tiếng là người hát hay, đàn giỏi. Lớn lên ông làm việc tại Tòa sứ Bạc Liêu và vẫn thường xuyên tham gia các nhóm đàn ca tài tử ở đây. Tác phẩm nổi tiếng nhất của Cao Văn Lầu là bản “Dạ cổ hoài lang” ra đời khoảng năm 1919 – 1920.
Theo lời nghệ sĩ Ba Du kể, vào khoảng thời gian này ở Huế có một đoàn nhạc gồm những nghệ nhân tên tuổi đi du lịch vào Nam bộ. Sau khi tham quan, trao đổi nghệ thuật với các nhóm tài tử Miền đông và miền Trung Nam bộ, nhóm tài tử Huế có đến gặp nhóm tài tử Bạc Liêu. Trong những buổi hòa nhạc thân ái, giọng ca tiếng đàn đã để lại cho nhóm tài tử Bạc Liêu những ấn tượng đẹp đẻ. Để ghi lại cuộc gặp gỡ đặc biệt đó, nhóm tài tử Bạc Liêu phân công ông Sáu Lầu sáng tác một bản nhạc trong thời gian ngắn để kịp tặng lại nhóm tài tử Huế và đồng thời cũng có ý như để đáp lại bản hành văn, một bản nhạc hay nhất của nhóm nhạc Huế.
Sau khi được phân công làm việc đó, ông Sáu Lầu rất lo, suy nghĩ miên man mà chưa ra một nét nhạc nào. Một hôm, như thường lệ, ông làm nhiệm vụ đứng gác bên cạnh Tòa sứ. Giữa lúc đêm khuya vắng vẻ, tĩnh mịch, thỉnh thoảng chỉ nghe tiếng trống điểm canh bên cạnh nhà tù, ông xúc động nhớ đến hình ảnh người thiếu phụ đêm khuya tựa gối trông chồng và ông bắt đầu nghĩ ra một bản nhạc lấy tên là “Dạ cổ hoài lang”./.
Theo MINH HẢI, ĐẮC NHẪN, NGỌC THỚI
Trả lời
Câu 1: Ông được sinh ra ở Gia Định trong một gia đình nhà Nho nghèo.
Câu 2: Đó là bài “Dạ cổ hoài lang” được ông sáng tác vào khoảng năm 1919 - 1920.
Câu 3: Bản nhạc ra đời trong một đêm khi ông đang đứng gác, thỉnh thoảng ông nghe tiếng trống điểm canh bên cạnh nhà tù, ông xúc động nhớ tới hình ảnh người thiếu phụ đêm khuya tựa gối trông chồng và ông bắt đầu nghĩ ra một bản nhạc lấy tên là “Dạ cổ hoài lang”./.
Giáo dục tư tưởng
Dạ cổ hoài lang có một nhạc điệu buồn thương nhưng đầy nét chân thật, trong sáng, không sướt mướt, ủ rũ;
Tuy nhiên, bài ca vẫn chứa chan niềm hy vọng. Bài “dạ cổ hoài lang” đã đi vào lịch sử âm nhạc dân tộc, trở thành bài vọng cổ được yêu thích cho tới hôm nay, đồng bào Nam bộ coi như một tài sản tinh thần vô giá;
Tác giả bài “Dạ cổ hoài lang” mất ngày 13 tháng 8 năm 1976. Tên tuổi Cao Văn Lầu trong lịch sử ca nhạc cải lương đã được khẳng định và nhân dân còn ghi nhớ mãi.

Liên hệ thực tế
Khu lưu niệm nhạc sĩ Cao Văn Lầu, ở Thành phố Bạc Liêu
Liên hệ thực tế
Nhà hát mang tên Cao Văn Lầu ở thành phố Bạc Liêu, mời các em nghe bài hát “ Dạ cổ hoài lang” do ca sĩ Hạnh Nguyên trình bày.
Củng cố, dặn dò
Hôm nay, chúng ta học bài gì ?
2. Nhận xét, tuyên dương chung !
3. Học lại các bài hát đã học !
Tiết học đến đây là hết rồi !
* Một số tài liệu cũ có thể bị lỗi font khi hiển thị do dùng bộ mã không phải Unikey ...

Người chia sẻ: Trịnh Thanh Liêm
Dung lượng: 19,73MB| Lượt tài: 1
Loại file: ppt
Nguồn : Chưa rõ
(Tài liệu chưa được thẩm định)