TIET 139-140 CTDP: LĂNG THOẠI NGỌC HẦU
Chia sẻ bởi Trần Tiết Mai |
Ngày 21/10/2018 |
36
Chia sẻ tài liệu: TIET 139-140 CTDP: LĂNG THOẠI NGỌC HẦU thuộc Ngữ văn 6
Nội dung tài liệu:
phòng GD&ĐT LONG XUYêN -TRƯờNG thcs MạC ĐĩNH CHI
Văn học: lớp 6
Giáo viên : Trần Tiết Mai
GD & ĐT
1) Kiểm tra bài cũ:
a. Hãy kể những thể loại truyện dân gian đã học.
Truyện dân gian đã học
Truyền thuyết
Cổ tích
Ngụ ngôn
b. Thế nào là truyện truyền thuyết?
Nêu tên một truyện là truyền thuyết.
Là loại truyện dân gian, kể về các nhân vật và sự kiện có liên quan đến lịch sử thời quá khứ.
- Truyện thường có yếu tố tưởng tượng, kì ảo.
- Truyện thể hiện thái độ, cách đánh giá của nhân dân đối với các sự kiện và nhân vật lịch sử được kể.
- Tên một truyện: Bánh chưng, bánh giầy ( hoặc: Thánh Gióng - Sơn Tinh, Thủy Tinh)
Truyện cười
2) Bài mới:
Bài 33:
PHẦN VĂN - TẬP LÀM VĂN
LĂNG THOẠI NGỌC HẦU
Tên thật Nguyễn Văn Thoại
- Di tích lịch sử.
Công trình kiến trúc nghệ thuật
đặc sắc, cổ kính, trang nghiêm.
Lăng Thoại Ngọc Hầu (Châu Đốc - An Giang)
Lăng Gia Long
(1762-1820)
Hiếu lăng
Lăng vua Minh Mạng
(1820-1840)
Lăng tẩm triều Nguyễn
Lăng Tự Đức
(1847-1883)
Lăng Ðồng Khánh (1885-1889)
Lăng Thoại Ngọc Hầu, còn gọi là Sơn Lăng (vì lăng nằm tựa vào núi Sam), là khu di tích thuộc quần thể di tích núi Sam, gần kề quốc lộ 91, đối diện miếu Bà Chúa Xứ, trước thuộc xã Vĩnh Tế, nay thuộc phường Núi Sam, thị xã Châu Đốc, tỉnh An Giang.
Lăng được xây dựng vào cuối những năm 20 của thế kỉ XIX, trước khi Thoại Ngọc Hầu mất. Toàn khu Sơn Lăng là một khối kiến trúc được bao bọc bởi vách tường kiên cố dày khoảng 1m, cao 3m, làm bằng chất liệu hỗn hợp vôi, cát, mật đường và nhựa ô duốc; mặc dầu trải qua gần 200 năm nhưng đến nay vẫn còn nguyên vẹn.
Lăng có hai cổng lớn hình bán nguyệt, kiến trúc theo lối cổ trông thật bề thế, vững vàng.
LĂNG THOẠI NGỌC HẦU
Giới thiệu vị trí
lăng Thoại Ngọc
Hầu.
Quá trình xây
dựng lăng.
Cảnh cổng lăng.
Qua khỏi cổng lăng là một sân rộng thênh thang, bằng phẳng, có hai tiểu đình (còn gọi là long đình). Một tiểu đình có hai tượng nai, hai tượng hổ, một khẩu đại bác nhỏ và bản sao tấm bia “Thoại Sơn” bằng sa thạch, được dựng vào năm 1824, khắc 629 chữ, sao lại bia chính ở núi Sập. Tiểu đình còn lại có tượng một con ngựa chiến trong tư thế đứng chờ, sẵn sàng tung vó và tượng một người lính hầu to bằng người thật.
Tiếp theo là khu lăng mộ. Lăng tọa lạc trên thềm đá xanh với 9 bậc thang dài trên trăm mét xây bằng đá ong, một loại đá đặc biệt được vận chuyển bằng ghe từ Biên Hòa về núi Sam. Chỗ ghe neo lại để đưa đá lên được gọi là Bến Vựa, Nhà Neo, còn tồn tại cho đến bây giờ
Sân và hai
tiểu đình
Khu lăng mộ
Lăng mộ chia làm ba phần. Từ ngoài cổng nhìn vào, chính giữa sau bức bình phong là phần mộ của Thoại Ngọc Hầu, trên mộ đặt tấm bia ghi chức Thống chế, Trấn thủ Hà Tiên, Trấn thủ Châu Đốc, Bảo hộ Cao Miên quốc, Đô thống Thoại Ngọc Hầu; sau mộ là tấm bia “Vĩnh Tế Sơn” được dựng từ năm 1828, tức bốn năm sau khi đào xong kinh Vĩnh Tế. Bia này cao quá đầu người, cũng làm bằng sa thạch, trên bia khắc 730 chữ nhưng nay đã mờ, không còn đọc được nữa. Phía bên phải mộ ông là mộ bà chính thất Châu Thị Tế, phía bên trái, hơi lùi lại một chút là mộ bà thứ thất Trương Thị Miệt. Ba ngôi mộ này đều được tôn cao trông rất uy nghi.
Cấu trúc 3 phần
chính của khu lăng
mộ.
Bên phải 3 ngôi mộ chính, trong vòng thành sân lăng là phần quy tụ 14 ngôi mộ khác, được xếp thành 4 hàng. Phần lớn các mộ này có hình bầu dục, còn lại là hình voi phục, hình trái đào. Tương truyền đây là mộ của những người thuộc một đoàn hát bội được Thoại Ngọc Hầu nuôi trong gia đình. Sau khi Thoại Ngọc Hầu qua đời, cả đoàn hát đã dùng độc dược quyên sinh với nguyện ước được theo về bên kia thế giới để tiếp tục phục vụ cho Ngài. Do không biết rõ từng người chết, nên người xây mộ đã dùng tư duy nghệ thuật để thể hiện, chẳng hạn đắp trái đào để tượng trưng cho mộ cô đào hát, đắp mộ nhỏ để thể hiện người dưới mộ là diễn viên nhỏ tuổi,…
14 ngôi mộ của đoàn hát bội ở bên phải lăng mộ chính.
Sát ngoài bức tường đá xám to cao, kiên cố của khu lăng là 50 nấm mồ vô danh với những kiến trúc truyền thống kiểu nắp tráp, voi phục, trâu nằm…Đây là nơi cải táng những gia tướng, gia binh thân tín đã chết trong khi theo Thoại Ngọc Hầu đào Kênh Vĩnh Tế, sau được Thoại Ngọc Hầu lấy cốt đem về cải táng tập thể trước ngày dựng bia “Vĩnh Tế Sơn”. Trong buổi lễ long trọng dựng bia kỉ niệm, Thoại Ngọc Hầu thân đứng ra làm chủ lễ và đọc bài “Tế nghĩa trủng văn”, khắc ghi công lao và bày tỏ lòng thương tiếc đối với những người đã bỏ mình trong công cuộc đào kênh…Đây là một áng văn hay làm cảm động lòng người còn được truyền tụng đến ngày nay:
50 nấm mồ vô danh của gia tướng, gia binh Thoại Ngọc Hầu.
Theo bậc thang lên cao, ra khỏi vuông lăng là đền thờ. Đền thờ nằm dưới những bóng cây cao râm mát ở phía sau khu mộ, tựa lưng vào núi Sam. Đền thờ có ba gian, gian giữa gồm hai phần, phía trước có hương án đặt tượng Thoại Ngọc Hầu đúc bằng đồng, cao khoảng 2m với đầy đủ lễ bộ rất trang nghiêm. Phía sau hương án là bàn thờ. Gian bên phải bàn thờ để những nghi trượng, võng lọng…Gian bên trái dành cho người chăm lo hương hỏa của đền thờ.
Đền thờ Thoại Ngọc Hầu.
Hàng năm, đến ngày mùng 6 tháng 6 âm lịch, nhân dân quanh vùng lại đến Sơn Lăng làm lễ tưởng niệm Thoại Ngọc Hầu. Ngoài ra, trong chương trình lễ hội Vía Bà Chúa Xứ được tổ chức hàng năm, bắt đầu từ đêm 23 tháng 4 đến 27 tháng 4 âm lịch, cũng có nghi thức thỉnh sắc Thoại Ngọc Hầu, hai vị phu nhân và các tướng lĩnh từ lăng về miếu và từ miếu về lại lăng.
Ngày lễ tưởng niệm Thoại Ngọc Hầu hằng năm.
Cái đẹp của lăng Thoại Ngọc Hầu là sự kết hợp hài hòa, chặt chẽ giữa nghệ thuật với thiên nhiên và sức lao động sáng tạo của con người. Lăng do chính Thoại Ngọc Hầu chọn địa điểm và coi sóc việc xây dựng. Điều đó cũng cho thấy một khía cạnh khác trong cuộc đời võ tướng của ông, đó là tâm hồn nghệ sĩ và nhãn quan nghệ thuật kiến trúc, phản ánh đậm nét cơ sở văn hóa thời Nguyễn.
Đánh giá công trình về mặt kiến trúc.
Trải bao năm tháng, khu lăng vẫn còn nguyên nét uy nghi, mang nhiều ý nghĩa lịch sử và giá trị văn hóa nghệ thuật, một công trình kiến trúc đạt tới đỉnh cao của dân tộc. Những ấn tượng để lại từ lăng Thoại Ngọc Hầu sẽ đọng lại mãi trong lòng chúng ta mỗi khi đến với nơi này.
Đi ngang qua cảnh núi Sam
Thấy lăng Ông Lớn hai hàng lụy rơi.
Ông ngồi vì nước vì đời
Hi sinh tài sản không rời nước non.
Ngày 01 - 12 - 1997, Lăng Thoại Ngọc Hầu được công nhận là Di tích lịch sử cấp quốc gia.
Lăng được công nhận là di tích lịch sử
Ý nghĩa
lịch sử
của khu
lăng
Ý chính của từng đoạn văn
1) Giới thiệu vị trí lăng Thoại Ngọc Hầu.
2) Quá trình xây dựng lăng.
3) Cảnh cổng lăng.
4) Sân và hai tiểu đình.
5) Khu lăng mộ.
6) Cấu trúc 3 phần chính của khu lăng mộ.
7) 14 ngôi mộ của đoàn hát bội...
8) 50 nấm mồ vô danh của gia tướng...
9) Đền thờ Thoại Ngọc Hầu.
10) Ngày lễ tưởng niệm hằng năm.
11) Đánh giá công trình về mặt kiến trúc.
12) Ý nghĩa lịch sử của khu lăng.
13) Lăng là di tích lịch sử.
Giới
thiệu
ông
Thoại
Ngọc
Hầu
Võ quan
nhà Nguyễn
Ý thức tri ân và
bảo tồn di tích
Bậc hiền nhân có công
khai phá đất An Giang
Di tích lăng Thoại
Ngọc Hầu
Kênh Vĩnh Tế
Kênh Thoại Hà
Thỉnh sắc thần ông Thoại Ngọc
Hầu từ ngôi mộ về
Xe chở linh vị Thoại Ngọc Hầu.
Quân lính đi cà kheo trong lễ hội rước linh vị của Ngài Thoại Ngọc Hầu từ đình Châu Phú đến lăng miếu tại Núi Sam
1) Giới thiệu vị trí lăng Thoại Ngọc Hầu.
2) Quá trình xây dựng lăng.
3) Cảnh cổng lăng.
4) Sân và hai tiểu đình.
5) Khu lăng mộ.
6) Cấu trúc 3 phần chính của lăng mộ.
7) 14 ngôi mộ của đoàn hát bội...
8) 50 nấm mồ của gia tướng...
9) Đền thờ Thoại Ngọc Hầu.
10) Ngày lễ tưởng niệm hằng năm.
11) Đánh giá công trình về mặt kiến trúc.
12) Ý nghĩa lịch sử của khu lăng.
13) Lăng là di tích lịch sử.
Bố cục: 3 phần
Giới thiệu vị trí của lăng
Quá trình xây dựng, cảnh vật, cách bài trí, sắp đặt khu mộ phần, đền thờ và ngày lễ hàng năm
Đánh giá công trình khu lăng về nghệ thuật kiến trúc và ý nghĩa lịch sử mà khu lăng để lại
Đối diện miếu
Bà Chúa Xứ.
Vị trí quan trọng, cảnh quan đẹp.
- Đã huy tập hài cốt những gia tướng, gia binh,
thân tín theo ông..;
- Cả đoàn hát bội quyên sinh theo ông.
Nằm tựa vào núi.
Gần kề quốc lộ 91.
- Cách bày trí lăng: nghệ thuật, hài hòa, sáng tạo.
- Lăng:
Đoàn
Minh
Huyên
đức
Phật
Thầy
Tây
An
Châu
Văn
Liêm
Tôn Đức Thắng
Lăng Thoại Ngọc Hầu là một công trình kiến trúc uy nghi, cổ kính mang ý nghĩa lịch sử và giá trị văn hóa cao; đồng thời thể hiện sự kết hợp hài hòa giữa nghệ thuật với thiên nhiên và sức lao động sáng tạo của con người
IV. Luyện tập:
? BT1:
Viết đoạn văn ngắn tóm tắt VB Lăng Thoại Ngọc Hầu
( từ 10 đến 15 câu)
(1)Lăng Thoại Ngọc Hầu là một công trình nghệ thuật kiến trúc có ý nghĩa lịch sử. (2)Nó còn được gọi là Sơn Lăng, thuộc quần thể di tích núi Sam ở Châu Đốc, tỉnh An Giang. (3)Lăng được xây dựng vào cuối thế kỉ XIX, đến nay đã trải qua gần 200 năm nhưng vẫn còn nguyên vẹn.(4) Đi vào lăng, qua khỏi hai cổng lớn là một sân rộng có hai tiểu đình.(5) Tiếp theo tiểu đình, phía bên trong là khu lăng mộ được chia làm ba phần.(6) Phần chính giữa được tôn cao là phần mộ của Thoại Ngọc Hầu và hai ngôi mộ của hai bà vợ ông. (7)Bên phải ba ngôi mộ, trong vòng thành sân lăng là nơi quy tụ 14 ngôi mộ có những hình dáng khác nhau được xếp thành 4 hàng.(8) Tương truyền là của đoàn hát bội.(9) Sát ngoài khu lăng là 50 nấm mồ vô danh của những gia tướng, gia binh thân tín.(10) Ra khỏi vuông lăng là đền thờ. (11)Hằng năm, đến ngày mùng 6 tháng 6 âm lịch, nhân dân làm lễ tưởng niệm Thoại Ngọc Hầu.(12) Tóm lại, Lăng chính là sự kết hợp hài hòa giữa nghệ thuật với thiên nhiên và sức lao động sáng tạo của con người.(13) Ngày 01-12-1997, lăng được công nhận là Di tích lịch sử cấp quốc gia.
BT2:
Giới thiệu hình ảnh, tư liệu, bài viết có liên quan đến
Thoại Ngọc Hầu:
Cổng lăng, rêu phong và cổ kính
Toàn cảnh lăng
Tượng Thoại Ngọc Hầu
Toàn cảnh lăng
Lăng và hai tiểu đình
Khu lăng mộ
Đền thờ Thoại Ngọc Hầu và khu lăng mộ
Bên phải khu mộ là những ngôi mộ vô danh
của dân công khi theo ông đào kênh...
Trăm năm bia đá nằm im đó
Còn khắc công người mở cỏi nam
Nhớ thưở bạc đầu con sóng vỗ
Mỗi lần mưa lũ ngập bốn phương
Vì một sơn hà dài vạn dậm
Mang gươm đi mở cỏi trời nam
Người xưa giờ đã vào thiên cổ
Ngàn sau hậu thế viết thi ca
Bia Thoại Sơn
Đền thờ Chủ tịch Tôn Đức Thắng
Di tích lịch sử Cột dây thép
Đền Thờ Quản Cơ Trần Văn Thành
Những ngôi mộ vô danh
Kênh Thoại Hà
Kênh Thoại Hà còn có tên là kênh Tam Khê, kênh Đông Xuyên hay Đông Xuyên Cảng đạo[1] nối liền Thoại Sơn (An Giang) với Rạch Giá (Kiên Giang), là một công trình thoát lũ đầu tiên của nhà Nguyễn ở đồng bằng sông Cửu Long, Việt Nam
Núi Sập hay còn gọi là núi Thoại Sơn
Trích dẫn tác phẩm Tìm Hiểu Các Danh Nhân của Nguyễn Phú Thứ)
“Để biết thêm sơ lược tiểu-sử và thân-thế sự-nghiệp Ông Thoại-Ngọc-Hầu, xin trích dẫn như sau :
Được biết, Ông Nguyễn-Văn-Thoại, sanh năm Tân Tỵ 1761 tại huyện Diên Phước, Tỉnh Quảng Nam, rồi theo gia-đình lánh nạn vào Nam-Kỳ ở cù lao Dài trên sông Cổ Chiên, thuộc Tiền Giang ngày nay. Ông có hai con trai là : Ông Nguyễn-Văn-Lâm con của bà Châu-Thị-Tế (vợ chánh) và Ông Nguyễn-Văn-Minh con của bà Trương-Thị-Miệt (vợ thứ). Ông là công thần của Thánh-Tổ Nguyễn-Phúc-Đảm (1820-1840) tức vua Minh-Mạng, được phong chức Hầu, nên từ đó Ông mang tên Thoại-Ngọc-Hầu. Khoảng đầu thế kỷ 19 Ông được triều đình tiến cử đi trấn nhậm ở vùng Vĩnh-Thanh sau trở thành An-Giang…”
Lăng Thoại Ngọc Hầu là công trình đồ sộ nhất ở chân núi Sam (Châu Đốc – An Giang) với quần thể phức hợp thờ ông Thoại Ngọc Hầu, mộ ông cùng hai phu nhân.
Thoại Ngọc Hầu được triều đình nhà Nguyễn phong tước hầu cử vào khai phá trấn giữ An Giang. Ông đã tập hợp lưu dân hai tỉnh Quảng Nam - Quảng Ngãi về ở các vùng Ông Chưởng (Chợ Mới), Núi Sập (Thoại Sơn), Châu Đốc, Long Xuyên... Ông là người tổ chức đào kênh Thoại Hà (con kênh có bề ngang 20 tầm - chừng 51m, dài 31.744m) và kênh Vĩnh Tế dài hơn 90km. Đào hai con kênh ấy trong thời kỳ công cụ lao động thô sơ và bằng tay, chân quả là việc làm thần kỳ. Sau khi hoàn tất việc đào kênh, Thoại Ngọc Hầu cho vẽ bản đồ trình triều đình Huế, được vua khen ngợi ban sắc chỉ cho lấy tên người mà đặt cho tên kênh là Thoại Hà (kênh Thoại) và lấy tên vợ chính của ông là Vĩnh Tế đặt cho kênh Vĩnh Tế
ĐỌC THÊM: Văn bản Đồi Tức Dụp
Đồi Tức Dụp thuộc xã An Tức, huyện Tri Tôn, tỉnh An Giang, là một ngọn núi nhỏ của núi Cô Tô (Phụng Hoàng Sơn). Đồi Tức Dụp có độ cao 216m, diện tích trên 2km2, có địa hình hiểm trở, cấu trúc độc đáo với rất nhiều hang sâu, động lớn liên thông với nhau.
1)- Vị trí, địa điểm
Tương truyền, xưa kia, các tiên nữ thường dừng chân trên đỉnh Cô Tô để tắm và nô đùa với nhau. Một hôm, các nàng bày trò ném đá xuống chân núi. Đá rơi chồng chất lên nhau thành ngọn đồi con. Nước tắm của các nàng tiên trở thành dòng suối chảy mãi không hề vơi cạn.
Một lần, cả vùng xảy ra hạn hán kéo dài nhiều tháng liền. Vào một đêm, dân làng sống gần đó nghe thấy tiếng nước suối chảy róc rách vọng về. Mọi người liền đốt đuốc đi tìm. Họ lần theo tiếng nước và phát hiện ra dòng suối chảy giữa ngọn đồi. Dân làng mừng rỡ cùng nhau đưa nước suối về tưới cho đồng ruộng. Chính từ câu chuyện trên, lúc đầu, người dân nơi đây đặt tên cho đồi là Tức Chúp (theo tiếng Khmer) có nghĩa là nước đêm; sau này, người Kinh nói chệch đi thành Tức Dụp.
Ngoài ra, người dân nơi đây còn gọi đồi Tức Dụp là Đồi Thiêng, nơi Trời ban nguồn nước quý cho dân làng, vạn vật. Vào những ngày lễ, sư sãi và dân làng mang lễ vật đến cúng thánh thần, trời đất, cầu cho mưa thuận gió hòa, mùa màng sung túc.
2)- Truyền thuyết, tên gọi
Đồi Tức Dụp là một di tích lịch sử của hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mĩ. Lợi dụng địa thế hiểm trở, nhiều hang động, từ thời kháng chiến chống Pháp, các chiến sĩ cộng sản đã coi Tức Dụp là nơi hoạt động lí tưởng. Đến thời kháng chiến chống Mĩ, Tức Dụp trở thành căn cứ địa vững chắc của cách mạng. Đây được xem là vị trí quan trọng của tam giác chiến lược Tây Ninh - Bảy Núi - U Minh, cũng là nơi làm việc của tỉnh ủy An Giang, huyện ủy Tri Tôn, là kho vũ khí, đạn dược, lương thực, trạm quân y,…của cách mạng. Trong kháng chiến chống Mĩ, đồi Tức Dụp được mệnh danh là Đồi hai triệu đô la - là chi phí mà bọn Mĩ - Ngụy phải đổ ra cho cuộc chiến nơi đây. Suốt 128 ngày đêm (từ cuối tháng 11 năm 1968 đến cuối tháng 3 năm 1969), giặc đưa 18000 quân bao vây chiếm đánh đồi. Chúng liên tục bắn phá, trút bom đạn xuống ngọn đồi
nhỏ bé nhằm xóa sổ căn cứ cách mạng. Cuộc chiến đấu không cân sức diễn ra vô cùng ác liệt, ta và địch giành giật từng hang động. Lực lượng ta tuy quân ít, vũ khí thô sơ nhưng nhờ lợi thế về địa hình nên đã giữ vững trận địa, gây nhiều tổn thất cho quân thù.
Từ sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, đất nước thống nhất, đồi Tức Dụp đã hồi sinh, trở thành điểm tham quan du lịch hấp dẫn của tỉnh An Giang và là di tích lịch sử được Bộ Văn hóa Thông tin công nhận.
Đến đồi Tức Dụp, du khách có thể đi theo hai đường: Từ ngã ba Lộ Tẻ - Long Xuyên - Châu Thành theo tỉnh lộ 941 đi khoảng 40 km đến Tri Tôn, tới ngã ba giao nhau với đường Trần Hưng Đạo, rẽ phải đi tiếp độ 200m, đến ngã tư rẽ trái theo đường Nguyễn Trãi, tiếp tục đi thẳng 9km nữa đến cột mốc số 8; hoặc theo hướng Nhà Bàng, huyện Tịnh Biên đi Tri Tôn độ 24 km. tới ngã tư giao nhau với đường Nguyễn Trãi, rẽ phải tiếp tục đi thẳng 9 km nữa đến cột mốc số 8.
3) - Được công nhận là di tích lịch sử - mệnh danh Đồi hai triệu đô la.
4)- Đường đến tham quan: 2 con đường
Hiện nay, đường lên đồi được lát đá phẳng và đẹp; giữa hang này và hang khác được bắc cầu bê tông cho du khách dễ dàng đi lại. Vào bên trong, du khách có thể tham quan các di tích như hang của Ban Chỉ huy Quân sự, hang của Ban Tuyên huấn, Hội Phụ nữ, Dân y, hang cơm nguội, phòng sa bàn để nghe giới thiệu, tái hiện trận đánh 128 ngày đêm năm xưa. Các hang động được bố trí hệ thống điện chiếu sáng. Mỗi hang có một nét độc đáo riêng với cách bày trí đan xen đủ kiểu của những khối đá tự nhiên và bàn tay con người. Nền sàn nơi này là đá, nơi kia là ván tre ghép lại. Không khí trong hang lúc nào cũng mát rượi, thông thoáng như có máy điều hòa.
Sau khi vào bên trong tham quan các hang động, du khách trở ra thăm nhà truyền thống, xem trưng bày những hình ảnh, một số phương tiện quân dụng, vũ khí, gặp những nhân chứng,…từng gắn liền với cuộc kháng chiến nơi đây.
Đến đồi Tức Dụp, ngoài việc tham quan di tích lịch sử, du khách còn được hít thở không khí trong lành và giải trí với vườn thú trên đồi, đặc biệt có đà điểu Châu Phi (đang được nhân giống và có bán cả trứng ở đây), được chơi trò câu cá sấu, hồ bơi mi ni, tàu lượn trên không,… được thưởng thức món thốt nốt lạnh - đặc sản vùng Bảy Núi.
Đến đồi Tức Dụp, du khách còn có thể tham quan khu giải trí thể thao quốc phòng, thăm làng dệt thổ cẩm, lò nấu đường thốt nốt truyền thống của đồng bào dân tộc Khmer,…
5) Cảnh bên trong và bên ngoài Đồi Túc Dụp
Dãy núi Cô Tô (còn gọi Phụng Hoàng Sơn) thuộc vùng Bảy Núi có một ngọn đồi nổi tiếng, bom đạn giặc Mỹ muốn san phẳng trong chiến tranh, nay đã trở thành khu du lịch. Đó là đồi Tức Dụp.
Những hình ảnh trên Đồi Tức Dụp
Đường vào các hang trên đồi
Cuộc họp triển khai chiến dịch
Dòng suối chảy giữa ngọn đồi.
Dàn bài chung
1) Mở bài: Giới thiệu khái quát đối tượng thuyết minh về vị trí, địa điểm của di tích. (một đoạn văn)
3) Kết bài: Nêu suy nghĩ, đánh giá,… (1 đoạn văn)
2) Thân bài: Làm rõ di tích bằng cách giới thiệu, trình bày, giải thích,.. (nhiều đoạn văn)
+ Vị trí, đặc điểm.
+ Quá trình, hình thành. (nguồn gốc (VB1), truyền thuyết (VB2)…tạo nên)
+ Giới thiệu từng phần di tích ( có kết hợp miêu tả các bộ phận, từng phần của di tích)
+ Cách đi, phương tiện tham quan.
+ Giới thiệu những điểm tham quan, sản vật, đặc sản,…
HĐ 5: Hướng dẫn HS học bài ở nhà và chuẩn bị bài mới:
1) Hướng dẫn tự học:
- VB 1: Nắm lại những ý chính trong bài học và phần Ghi nhớ
- VB 2: Trả lời được 4 ý chính đã hướng dẫn.
2) Chuẩn bị bài mới:
- - Hoạt động Ngữ văn :
Thi kể chuyện hoặc biểu diễn truyện dân gian đã học
hay sinh hoạt văn hoá dân gian của địa phương (chọi gà, chọi trâu, đấu vật, đua thuyền – ghe ngo, thỉnh sắc thần,…)
- Ôn thi:
+ Nắm lại các thể loại VHDG
+ Các văn bản tự sự dân gian đã học
+ Cho biết thứ tự kể, ngôi kể trong văn tự sự.
CHÂN THÀNH CẢM ƠN VÀ
KÍNH CHÀO QUÝ THẦY CÔ!
Văn học: lớp 6
Giáo viên : Trần Tiết Mai
GD & ĐT
1) Kiểm tra bài cũ:
a. Hãy kể những thể loại truyện dân gian đã học.
Truyện dân gian đã học
Truyền thuyết
Cổ tích
Ngụ ngôn
b. Thế nào là truyện truyền thuyết?
Nêu tên một truyện là truyền thuyết.
Là loại truyện dân gian, kể về các nhân vật và sự kiện có liên quan đến lịch sử thời quá khứ.
- Truyện thường có yếu tố tưởng tượng, kì ảo.
- Truyện thể hiện thái độ, cách đánh giá của nhân dân đối với các sự kiện và nhân vật lịch sử được kể.
- Tên một truyện: Bánh chưng, bánh giầy ( hoặc: Thánh Gióng - Sơn Tinh, Thủy Tinh)
Truyện cười
2) Bài mới:
Bài 33:
PHẦN VĂN - TẬP LÀM VĂN
LĂNG THOẠI NGỌC HẦU
Tên thật Nguyễn Văn Thoại
- Di tích lịch sử.
Công trình kiến trúc nghệ thuật
đặc sắc, cổ kính, trang nghiêm.
Lăng Thoại Ngọc Hầu (Châu Đốc - An Giang)
Lăng Gia Long
(1762-1820)
Hiếu lăng
Lăng vua Minh Mạng
(1820-1840)
Lăng tẩm triều Nguyễn
Lăng Tự Đức
(1847-1883)
Lăng Ðồng Khánh (1885-1889)
Lăng Thoại Ngọc Hầu, còn gọi là Sơn Lăng (vì lăng nằm tựa vào núi Sam), là khu di tích thuộc quần thể di tích núi Sam, gần kề quốc lộ 91, đối diện miếu Bà Chúa Xứ, trước thuộc xã Vĩnh Tế, nay thuộc phường Núi Sam, thị xã Châu Đốc, tỉnh An Giang.
Lăng được xây dựng vào cuối những năm 20 của thế kỉ XIX, trước khi Thoại Ngọc Hầu mất. Toàn khu Sơn Lăng là một khối kiến trúc được bao bọc bởi vách tường kiên cố dày khoảng 1m, cao 3m, làm bằng chất liệu hỗn hợp vôi, cát, mật đường và nhựa ô duốc; mặc dầu trải qua gần 200 năm nhưng đến nay vẫn còn nguyên vẹn.
Lăng có hai cổng lớn hình bán nguyệt, kiến trúc theo lối cổ trông thật bề thế, vững vàng.
LĂNG THOẠI NGỌC HẦU
Giới thiệu vị trí
lăng Thoại Ngọc
Hầu.
Quá trình xây
dựng lăng.
Cảnh cổng lăng.
Qua khỏi cổng lăng là một sân rộng thênh thang, bằng phẳng, có hai tiểu đình (còn gọi là long đình). Một tiểu đình có hai tượng nai, hai tượng hổ, một khẩu đại bác nhỏ và bản sao tấm bia “Thoại Sơn” bằng sa thạch, được dựng vào năm 1824, khắc 629 chữ, sao lại bia chính ở núi Sập. Tiểu đình còn lại có tượng một con ngựa chiến trong tư thế đứng chờ, sẵn sàng tung vó và tượng một người lính hầu to bằng người thật.
Tiếp theo là khu lăng mộ. Lăng tọa lạc trên thềm đá xanh với 9 bậc thang dài trên trăm mét xây bằng đá ong, một loại đá đặc biệt được vận chuyển bằng ghe từ Biên Hòa về núi Sam. Chỗ ghe neo lại để đưa đá lên được gọi là Bến Vựa, Nhà Neo, còn tồn tại cho đến bây giờ
Sân và hai
tiểu đình
Khu lăng mộ
Lăng mộ chia làm ba phần. Từ ngoài cổng nhìn vào, chính giữa sau bức bình phong là phần mộ của Thoại Ngọc Hầu, trên mộ đặt tấm bia ghi chức Thống chế, Trấn thủ Hà Tiên, Trấn thủ Châu Đốc, Bảo hộ Cao Miên quốc, Đô thống Thoại Ngọc Hầu; sau mộ là tấm bia “Vĩnh Tế Sơn” được dựng từ năm 1828, tức bốn năm sau khi đào xong kinh Vĩnh Tế. Bia này cao quá đầu người, cũng làm bằng sa thạch, trên bia khắc 730 chữ nhưng nay đã mờ, không còn đọc được nữa. Phía bên phải mộ ông là mộ bà chính thất Châu Thị Tế, phía bên trái, hơi lùi lại một chút là mộ bà thứ thất Trương Thị Miệt. Ba ngôi mộ này đều được tôn cao trông rất uy nghi.
Cấu trúc 3 phần
chính của khu lăng
mộ.
Bên phải 3 ngôi mộ chính, trong vòng thành sân lăng là phần quy tụ 14 ngôi mộ khác, được xếp thành 4 hàng. Phần lớn các mộ này có hình bầu dục, còn lại là hình voi phục, hình trái đào. Tương truyền đây là mộ của những người thuộc một đoàn hát bội được Thoại Ngọc Hầu nuôi trong gia đình. Sau khi Thoại Ngọc Hầu qua đời, cả đoàn hát đã dùng độc dược quyên sinh với nguyện ước được theo về bên kia thế giới để tiếp tục phục vụ cho Ngài. Do không biết rõ từng người chết, nên người xây mộ đã dùng tư duy nghệ thuật để thể hiện, chẳng hạn đắp trái đào để tượng trưng cho mộ cô đào hát, đắp mộ nhỏ để thể hiện người dưới mộ là diễn viên nhỏ tuổi,…
14 ngôi mộ của đoàn hát bội ở bên phải lăng mộ chính.
Sát ngoài bức tường đá xám to cao, kiên cố của khu lăng là 50 nấm mồ vô danh với những kiến trúc truyền thống kiểu nắp tráp, voi phục, trâu nằm…Đây là nơi cải táng những gia tướng, gia binh thân tín đã chết trong khi theo Thoại Ngọc Hầu đào Kênh Vĩnh Tế, sau được Thoại Ngọc Hầu lấy cốt đem về cải táng tập thể trước ngày dựng bia “Vĩnh Tế Sơn”. Trong buổi lễ long trọng dựng bia kỉ niệm, Thoại Ngọc Hầu thân đứng ra làm chủ lễ và đọc bài “Tế nghĩa trủng văn”, khắc ghi công lao và bày tỏ lòng thương tiếc đối với những người đã bỏ mình trong công cuộc đào kênh…Đây là một áng văn hay làm cảm động lòng người còn được truyền tụng đến ngày nay:
50 nấm mồ vô danh của gia tướng, gia binh Thoại Ngọc Hầu.
Theo bậc thang lên cao, ra khỏi vuông lăng là đền thờ. Đền thờ nằm dưới những bóng cây cao râm mát ở phía sau khu mộ, tựa lưng vào núi Sam. Đền thờ có ba gian, gian giữa gồm hai phần, phía trước có hương án đặt tượng Thoại Ngọc Hầu đúc bằng đồng, cao khoảng 2m với đầy đủ lễ bộ rất trang nghiêm. Phía sau hương án là bàn thờ. Gian bên phải bàn thờ để những nghi trượng, võng lọng…Gian bên trái dành cho người chăm lo hương hỏa của đền thờ.
Đền thờ Thoại Ngọc Hầu.
Hàng năm, đến ngày mùng 6 tháng 6 âm lịch, nhân dân quanh vùng lại đến Sơn Lăng làm lễ tưởng niệm Thoại Ngọc Hầu. Ngoài ra, trong chương trình lễ hội Vía Bà Chúa Xứ được tổ chức hàng năm, bắt đầu từ đêm 23 tháng 4 đến 27 tháng 4 âm lịch, cũng có nghi thức thỉnh sắc Thoại Ngọc Hầu, hai vị phu nhân và các tướng lĩnh từ lăng về miếu và từ miếu về lại lăng.
Ngày lễ tưởng niệm Thoại Ngọc Hầu hằng năm.
Cái đẹp của lăng Thoại Ngọc Hầu là sự kết hợp hài hòa, chặt chẽ giữa nghệ thuật với thiên nhiên và sức lao động sáng tạo của con người. Lăng do chính Thoại Ngọc Hầu chọn địa điểm và coi sóc việc xây dựng. Điều đó cũng cho thấy một khía cạnh khác trong cuộc đời võ tướng của ông, đó là tâm hồn nghệ sĩ và nhãn quan nghệ thuật kiến trúc, phản ánh đậm nét cơ sở văn hóa thời Nguyễn.
Đánh giá công trình về mặt kiến trúc.
Trải bao năm tháng, khu lăng vẫn còn nguyên nét uy nghi, mang nhiều ý nghĩa lịch sử và giá trị văn hóa nghệ thuật, một công trình kiến trúc đạt tới đỉnh cao của dân tộc. Những ấn tượng để lại từ lăng Thoại Ngọc Hầu sẽ đọng lại mãi trong lòng chúng ta mỗi khi đến với nơi này.
Đi ngang qua cảnh núi Sam
Thấy lăng Ông Lớn hai hàng lụy rơi.
Ông ngồi vì nước vì đời
Hi sinh tài sản không rời nước non.
Ngày 01 - 12 - 1997, Lăng Thoại Ngọc Hầu được công nhận là Di tích lịch sử cấp quốc gia.
Lăng được công nhận là di tích lịch sử
Ý nghĩa
lịch sử
của khu
lăng
Ý chính của từng đoạn văn
1) Giới thiệu vị trí lăng Thoại Ngọc Hầu.
2) Quá trình xây dựng lăng.
3) Cảnh cổng lăng.
4) Sân và hai tiểu đình.
5) Khu lăng mộ.
6) Cấu trúc 3 phần chính của khu lăng mộ.
7) 14 ngôi mộ của đoàn hát bội...
8) 50 nấm mồ vô danh của gia tướng...
9) Đền thờ Thoại Ngọc Hầu.
10) Ngày lễ tưởng niệm hằng năm.
11) Đánh giá công trình về mặt kiến trúc.
12) Ý nghĩa lịch sử của khu lăng.
13) Lăng là di tích lịch sử.
Giới
thiệu
ông
Thoại
Ngọc
Hầu
Võ quan
nhà Nguyễn
Ý thức tri ân và
bảo tồn di tích
Bậc hiền nhân có công
khai phá đất An Giang
Di tích lăng Thoại
Ngọc Hầu
Kênh Vĩnh Tế
Kênh Thoại Hà
Thỉnh sắc thần ông Thoại Ngọc
Hầu từ ngôi mộ về
Xe chở linh vị Thoại Ngọc Hầu.
Quân lính đi cà kheo trong lễ hội rước linh vị của Ngài Thoại Ngọc Hầu từ đình Châu Phú đến lăng miếu tại Núi Sam
1) Giới thiệu vị trí lăng Thoại Ngọc Hầu.
2) Quá trình xây dựng lăng.
3) Cảnh cổng lăng.
4) Sân và hai tiểu đình.
5) Khu lăng mộ.
6) Cấu trúc 3 phần chính của lăng mộ.
7) 14 ngôi mộ của đoàn hát bội...
8) 50 nấm mồ của gia tướng...
9) Đền thờ Thoại Ngọc Hầu.
10) Ngày lễ tưởng niệm hằng năm.
11) Đánh giá công trình về mặt kiến trúc.
12) Ý nghĩa lịch sử của khu lăng.
13) Lăng là di tích lịch sử.
Bố cục: 3 phần
Giới thiệu vị trí của lăng
Quá trình xây dựng, cảnh vật, cách bài trí, sắp đặt khu mộ phần, đền thờ và ngày lễ hàng năm
Đánh giá công trình khu lăng về nghệ thuật kiến trúc và ý nghĩa lịch sử mà khu lăng để lại
Đối diện miếu
Bà Chúa Xứ.
Vị trí quan trọng, cảnh quan đẹp.
- Đã huy tập hài cốt những gia tướng, gia binh,
thân tín theo ông..;
- Cả đoàn hát bội quyên sinh theo ông.
Nằm tựa vào núi.
Gần kề quốc lộ 91.
- Cách bày trí lăng: nghệ thuật, hài hòa, sáng tạo.
- Lăng:
Đoàn
Minh
Huyên
đức
Phật
Thầy
Tây
An
Châu
Văn
Liêm
Tôn Đức Thắng
Lăng Thoại Ngọc Hầu là một công trình kiến trúc uy nghi, cổ kính mang ý nghĩa lịch sử và giá trị văn hóa cao; đồng thời thể hiện sự kết hợp hài hòa giữa nghệ thuật với thiên nhiên và sức lao động sáng tạo của con người
IV. Luyện tập:
? BT1:
Viết đoạn văn ngắn tóm tắt VB Lăng Thoại Ngọc Hầu
( từ 10 đến 15 câu)
(1)Lăng Thoại Ngọc Hầu là một công trình nghệ thuật kiến trúc có ý nghĩa lịch sử. (2)Nó còn được gọi là Sơn Lăng, thuộc quần thể di tích núi Sam ở Châu Đốc, tỉnh An Giang. (3)Lăng được xây dựng vào cuối thế kỉ XIX, đến nay đã trải qua gần 200 năm nhưng vẫn còn nguyên vẹn.(4) Đi vào lăng, qua khỏi hai cổng lớn là một sân rộng có hai tiểu đình.(5) Tiếp theo tiểu đình, phía bên trong là khu lăng mộ được chia làm ba phần.(6) Phần chính giữa được tôn cao là phần mộ của Thoại Ngọc Hầu và hai ngôi mộ của hai bà vợ ông. (7)Bên phải ba ngôi mộ, trong vòng thành sân lăng là nơi quy tụ 14 ngôi mộ có những hình dáng khác nhau được xếp thành 4 hàng.(8) Tương truyền là của đoàn hát bội.(9) Sát ngoài khu lăng là 50 nấm mồ vô danh của những gia tướng, gia binh thân tín.(10) Ra khỏi vuông lăng là đền thờ. (11)Hằng năm, đến ngày mùng 6 tháng 6 âm lịch, nhân dân làm lễ tưởng niệm Thoại Ngọc Hầu.(12) Tóm lại, Lăng chính là sự kết hợp hài hòa giữa nghệ thuật với thiên nhiên và sức lao động sáng tạo của con người.(13) Ngày 01-12-1997, lăng được công nhận là Di tích lịch sử cấp quốc gia.
BT2:
Giới thiệu hình ảnh, tư liệu, bài viết có liên quan đến
Thoại Ngọc Hầu:
Cổng lăng, rêu phong và cổ kính
Toàn cảnh lăng
Tượng Thoại Ngọc Hầu
Toàn cảnh lăng
Lăng và hai tiểu đình
Khu lăng mộ
Đền thờ Thoại Ngọc Hầu và khu lăng mộ
Bên phải khu mộ là những ngôi mộ vô danh
của dân công khi theo ông đào kênh...
Trăm năm bia đá nằm im đó
Còn khắc công người mở cỏi nam
Nhớ thưở bạc đầu con sóng vỗ
Mỗi lần mưa lũ ngập bốn phương
Vì một sơn hà dài vạn dậm
Mang gươm đi mở cỏi trời nam
Người xưa giờ đã vào thiên cổ
Ngàn sau hậu thế viết thi ca
Bia Thoại Sơn
Đền thờ Chủ tịch Tôn Đức Thắng
Di tích lịch sử Cột dây thép
Đền Thờ Quản Cơ Trần Văn Thành
Những ngôi mộ vô danh
Kênh Thoại Hà
Kênh Thoại Hà còn có tên là kênh Tam Khê, kênh Đông Xuyên hay Đông Xuyên Cảng đạo[1] nối liền Thoại Sơn (An Giang) với Rạch Giá (Kiên Giang), là một công trình thoát lũ đầu tiên của nhà Nguyễn ở đồng bằng sông Cửu Long, Việt Nam
Núi Sập hay còn gọi là núi Thoại Sơn
Trích dẫn tác phẩm Tìm Hiểu Các Danh Nhân của Nguyễn Phú Thứ)
“Để biết thêm sơ lược tiểu-sử và thân-thế sự-nghiệp Ông Thoại-Ngọc-Hầu, xin trích dẫn như sau :
Được biết, Ông Nguyễn-Văn-Thoại, sanh năm Tân Tỵ 1761 tại huyện Diên Phước, Tỉnh Quảng Nam, rồi theo gia-đình lánh nạn vào Nam-Kỳ ở cù lao Dài trên sông Cổ Chiên, thuộc Tiền Giang ngày nay. Ông có hai con trai là : Ông Nguyễn-Văn-Lâm con của bà Châu-Thị-Tế (vợ chánh) và Ông Nguyễn-Văn-Minh con của bà Trương-Thị-Miệt (vợ thứ). Ông là công thần của Thánh-Tổ Nguyễn-Phúc-Đảm (1820-1840) tức vua Minh-Mạng, được phong chức Hầu, nên từ đó Ông mang tên Thoại-Ngọc-Hầu. Khoảng đầu thế kỷ 19 Ông được triều đình tiến cử đi trấn nhậm ở vùng Vĩnh-Thanh sau trở thành An-Giang…”
Lăng Thoại Ngọc Hầu là công trình đồ sộ nhất ở chân núi Sam (Châu Đốc – An Giang) với quần thể phức hợp thờ ông Thoại Ngọc Hầu, mộ ông cùng hai phu nhân.
Thoại Ngọc Hầu được triều đình nhà Nguyễn phong tước hầu cử vào khai phá trấn giữ An Giang. Ông đã tập hợp lưu dân hai tỉnh Quảng Nam - Quảng Ngãi về ở các vùng Ông Chưởng (Chợ Mới), Núi Sập (Thoại Sơn), Châu Đốc, Long Xuyên... Ông là người tổ chức đào kênh Thoại Hà (con kênh có bề ngang 20 tầm - chừng 51m, dài 31.744m) và kênh Vĩnh Tế dài hơn 90km. Đào hai con kênh ấy trong thời kỳ công cụ lao động thô sơ và bằng tay, chân quả là việc làm thần kỳ. Sau khi hoàn tất việc đào kênh, Thoại Ngọc Hầu cho vẽ bản đồ trình triều đình Huế, được vua khen ngợi ban sắc chỉ cho lấy tên người mà đặt cho tên kênh là Thoại Hà (kênh Thoại) và lấy tên vợ chính của ông là Vĩnh Tế đặt cho kênh Vĩnh Tế
ĐỌC THÊM: Văn bản Đồi Tức Dụp
Đồi Tức Dụp thuộc xã An Tức, huyện Tri Tôn, tỉnh An Giang, là một ngọn núi nhỏ của núi Cô Tô (Phụng Hoàng Sơn). Đồi Tức Dụp có độ cao 216m, diện tích trên 2km2, có địa hình hiểm trở, cấu trúc độc đáo với rất nhiều hang sâu, động lớn liên thông với nhau.
1)- Vị trí, địa điểm
Tương truyền, xưa kia, các tiên nữ thường dừng chân trên đỉnh Cô Tô để tắm và nô đùa với nhau. Một hôm, các nàng bày trò ném đá xuống chân núi. Đá rơi chồng chất lên nhau thành ngọn đồi con. Nước tắm của các nàng tiên trở thành dòng suối chảy mãi không hề vơi cạn.
Một lần, cả vùng xảy ra hạn hán kéo dài nhiều tháng liền. Vào một đêm, dân làng sống gần đó nghe thấy tiếng nước suối chảy róc rách vọng về. Mọi người liền đốt đuốc đi tìm. Họ lần theo tiếng nước và phát hiện ra dòng suối chảy giữa ngọn đồi. Dân làng mừng rỡ cùng nhau đưa nước suối về tưới cho đồng ruộng. Chính từ câu chuyện trên, lúc đầu, người dân nơi đây đặt tên cho đồi là Tức Chúp (theo tiếng Khmer) có nghĩa là nước đêm; sau này, người Kinh nói chệch đi thành Tức Dụp.
Ngoài ra, người dân nơi đây còn gọi đồi Tức Dụp là Đồi Thiêng, nơi Trời ban nguồn nước quý cho dân làng, vạn vật. Vào những ngày lễ, sư sãi và dân làng mang lễ vật đến cúng thánh thần, trời đất, cầu cho mưa thuận gió hòa, mùa màng sung túc.
2)- Truyền thuyết, tên gọi
Đồi Tức Dụp là một di tích lịch sử của hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mĩ. Lợi dụng địa thế hiểm trở, nhiều hang động, từ thời kháng chiến chống Pháp, các chiến sĩ cộng sản đã coi Tức Dụp là nơi hoạt động lí tưởng. Đến thời kháng chiến chống Mĩ, Tức Dụp trở thành căn cứ địa vững chắc của cách mạng. Đây được xem là vị trí quan trọng của tam giác chiến lược Tây Ninh - Bảy Núi - U Minh, cũng là nơi làm việc của tỉnh ủy An Giang, huyện ủy Tri Tôn, là kho vũ khí, đạn dược, lương thực, trạm quân y,…của cách mạng. Trong kháng chiến chống Mĩ, đồi Tức Dụp được mệnh danh là Đồi hai triệu đô la - là chi phí mà bọn Mĩ - Ngụy phải đổ ra cho cuộc chiến nơi đây. Suốt 128 ngày đêm (từ cuối tháng 11 năm 1968 đến cuối tháng 3 năm 1969), giặc đưa 18000 quân bao vây chiếm đánh đồi. Chúng liên tục bắn phá, trút bom đạn xuống ngọn đồi
nhỏ bé nhằm xóa sổ căn cứ cách mạng. Cuộc chiến đấu không cân sức diễn ra vô cùng ác liệt, ta và địch giành giật từng hang động. Lực lượng ta tuy quân ít, vũ khí thô sơ nhưng nhờ lợi thế về địa hình nên đã giữ vững trận địa, gây nhiều tổn thất cho quân thù.
Từ sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, đất nước thống nhất, đồi Tức Dụp đã hồi sinh, trở thành điểm tham quan du lịch hấp dẫn của tỉnh An Giang và là di tích lịch sử được Bộ Văn hóa Thông tin công nhận.
Đến đồi Tức Dụp, du khách có thể đi theo hai đường: Từ ngã ba Lộ Tẻ - Long Xuyên - Châu Thành theo tỉnh lộ 941 đi khoảng 40 km đến Tri Tôn, tới ngã ba giao nhau với đường Trần Hưng Đạo, rẽ phải đi tiếp độ 200m, đến ngã tư rẽ trái theo đường Nguyễn Trãi, tiếp tục đi thẳng 9km nữa đến cột mốc số 8; hoặc theo hướng Nhà Bàng, huyện Tịnh Biên đi Tri Tôn độ 24 km. tới ngã tư giao nhau với đường Nguyễn Trãi, rẽ phải tiếp tục đi thẳng 9 km nữa đến cột mốc số 8.
3) - Được công nhận là di tích lịch sử - mệnh danh Đồi hai triệu đô la.
4)- Đường đến tham quan: 2 con đường
Hiện nay, đường lên đồi được lát đá phẳng và đẹp; giữa hang này và hang khác được bắc cầu bê tông cho du khách dễ dàng đi lại. Vào bên trong, du khách có thể tham quan các di tích như hang của Ban Chỉ huy Quân sự, hang của Ban Tuyên huấn, Hội Phụ nữ, Dân y, hang cơm nguội, phòng sa bàn để nghe giới thiệu, tái hiện trận đánh 128 ngày đêm năm xưa. Các hang động được bố trí hệ thống điện chiếu sáng. Mỗi hang có một nét độc đáo riêng với cách bày trí đan xen đủ kiểu của những khối đá tự nhiên và bàn tay con người. Nền sàn nơi này là đá, nơi kia là ván tre ghép lại. Không khí trong hang lúc nào cũng mát rượi, thông thoáng như có máy điều hòa.
Sau khi vào bên trong tham quan các hang động, du khách trở ra thăm nhà truyền thống, xem trưng bày những hình ảnh, một số phương tiện quân dụng, vũ khí, gặp những nhân chứng,…từng gắn liền với cuộc kháng chiến nơi đây.
Đến đồi Tức Dụp, ngoài việc tham quan di tích lịch sử, du khách còn được hít thở không khí trong lành và giải trí với vườn thú trên đồi, đặc biệt có đà điểu Châu Phi (đang được nhân giống và có bán cả trứng ở đây), được chơi trò câu cá sấu, hồ bơi mi ni, tàu lượn trên không,… được thưởng thức món thốt nốt lạnh - đặc sản vùng Bảy Núi.
Đến đồi Tức Dụp, du khách còn có thể tham quan khu giải trí thể thao quốc phòng, thăm làng dệt thổ cẩm, lò nấu đường thốt nốt truyền thống của đồng bào dân tộc Khmer,…
5) Cảnh bên trong và bên ngoài Đồi Túc Dụp
Dãy núi Cô Tô (còn gọi Phụng Hoàng Sơn) thuộc vùng Bảy Núi có một ngọn đồi nổi tiếng, bom đạn giặc Mỹ muốn san phẳng trong chiến tranh, nay đã trở thành khu du lịch. Đó là đồi Tức Dụp.
Những hình ảnh trên Đồi Tức Dụp
Đường vào các hang trên đồi
Cuộc họp triển khai chiến dịch
Dòng suối chảy giữa ngọn đồi.
Dàn bài chung
1) Mở bài: Giới thiệu khái quát đối tượng thuyết minh về vị trí, địa điểm của di tích. (một đoạn văn)
3) Kết bài: Nêu suy nghĩ, đánh giá,… (1 đoạn văn)
2) Thân bài: Làm rõ di tích bằng cách giới thiệu, trình bày, giải thích,.. (nhiều đoạn văn)
+ Vị trí, đặc điểm.
+ Quá trình, hình thành. (nguồn gốc (VB1), truyền thuyết (VB2)…tạo nên)
+ Giới thiệu từng phần di tích ( có kết hợp miêu tả các bộ phận, từng phần của di tích)
+ Cách đi, phương tiện tham quan.
+ Giới thiệu những điểm tham quan, sản vật, đặc sản,…
HĐ 5: Hướng dẫn HS học bài ở nhà và chuẩn bị bài mới:
1) Hướng dẫn tự học:
- VB 1: Nắm lại những ý chính trong bài học và phần Ghi nhớ
- VB 2: Trả lời được 4 ý chính đã hướng dẫn.
2) Chuẩn bị bài mới:
- - Hoạt động Ngữ văn :
Thi kể chuyện hoặc biểu diễn truyện dân gian đã học
hay sinh hoạt văn hoá dân gian của địa phương (chọi gà, chọi trâu, đấu vật, đua thuyền – ghe ngo, thỉnh sắc thần,…)
- Ôn thi:
+ Nắm lại các thể loại VHDG
+ Các văn bản tự sự dân gian đã học
+ Cho biết thứ tự kể, ngôi kể trong văn tự sự.
CHÂN THÀNH CẢM ƠN VÀ
KÍNH CHÀO QUÝ THẦY CÔ!
* Một số tài liệu cũ có thể bị lỗi font khi hiển thị do dùng bộ mã không phải Unikey ...
Người chia sẻ: Trần Tiết Mai
Dung lượng: |
Lượt tài: 1
Loại file:
Nguồn : Chưa rõ
(Tài liệu chưa được thẩm định)