TIỂU SỬ HỒ CHÍ MINH
Chia sẻ bởi Lê Khắc Thu |
Ngày 18/03/2024 |
10
Chia sẻ tài liệu: TIỂU SỬ HỒ CHÍ MINH thuộc Lịch sử
Nội dung tài liệu:
Hồ Chí Minh
Hồ Chí Minh (19/5/1890 – 02/9/1969) là một nhà cách mạng, một người đấu tranh giành độc lập, toàn vẹn lãnh thổ cho Việt Nam và là một người cộng sản theo chủ nghĩa dân tộc. Hồ Chí Minh là một trong những người đặt nền móng và lãnh đạo công cuộc đấu tranh giành độc lập, dẫn đến việc thống nhất nước Việt Nam về sau. Ông trở thành Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa vào những năm 1945-1969.
Ông còn có nhiều tên khác như Nguyễn Tất Thành, Nguyễn Ái Quốc, Văn Ba, Lý Thụy, Hồ Quang, Bác Hồ, Bok Hồ, Cụ Hồ. Khi ở chiến khu Việt Bắc ông được người dân địa phương gọi là Ông Ké. Tổng thống Indonesia Sukarno gọi ông là Bung Hồ (Anh Cả Hồ).
Tiểu sử
Tuổi trẻ
Theo lý lịch chính thức, Hồ Chí Minh sinh ngày 19 tháng 5 năm 1890, tuy nhiên có những thông tin khác không đồng nhất. Trong đơn xin học Trường hành chính thuộc địa, gửi tổng thống Pháp đầu năm 1911, ông tự ghi là sinh năm 1892. Năm 1920, ông khai với một quận cảnh sát tại Paris ngày sinh của mình là 15 tháng 1 năm 1894. Còn theo một tài liệu do Phòng nhì Pháp lập năm 1931, có sự xác nhận của một số nhân chứng làng Kim Liên (tên nôm là làng Sen), huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An, quê nội của ông thì ông sinh tháng 4 năm 1894. Tờ khai của ông tại Đại sứ quán Liên Xô ở Berlin, Đức, tháng 6 năm 1923 lại ghi ngày sinh là 15 tháng 02 năm 1895.
Ông tên thật là Nguyễn Sinh Cung, giọng địa phương phát âm là Côông), tự là Tất Thành, sinh ra ở quê ngoại là làng Hoàng Trù (tên nôm là làng Chùa) cùng huyện Nam Đàn và sống ở đây cho đến năm 1895. Thân phụ ông là một nhà nho tên là Nguyễn Sinh Sắc, từng đỗ Phó bảng. Thân mẫu ông là bà Hoàng Thị Loan (1868-1901). Ông có một người chị là Nguyễn Thị Thanh (1884-1954), một người anh là Nguyễn Sinh Khiêm (1888-1950), tự là Tất Đạt, còn gọi là ông Cả Khiêm và một người em trai nhưng mất sớm là Nguyễn Sinh Nhuận (1900-1901).
Năm 1895, Nguyễn Sinh Cung cùng cha mẹ và anh trai vào Huế lần đầu tiên. Sau khi mẹ ông mất (1901), ông được đưa về Nghệ An cho bà ngoại chăm sóc một thời gian ngắn rồi theo cha về quê nội. Khi về sống với cha ở làng Kim Liên năm 1901, ông lấy tên là Nguyễn Tất Thành.
Năm 1906, Nguyễn Tất Thành theo cha vào Huế lần thứ hai và học ở trường tiểu học Pháp-Việt Đông Ba. Sau khi học xong tiểu học, tháng 9 năm 1907, Nguyễn Tất Thành vào học tại trường Quốc Học Huế, nhưng bị đuổi học vào cuối tháng 5 năm 1908 vì tham gia phong trào chống thuế ở Trung Kỳ.
Từ tháng 9 năm 1910 đến trước tháng 2 năm 1911, ông vào Phan Thiết dạy chữ Hán và chữ Quốc ngữ cho học sinh lớp nhì tại trường Dục Thanh do một số nhân sĩ yêu nước lập ra năm 1907, sau đó ông vào Sài Gòn.
Hoạt động cách mạng ở nước ngoài:
Ngày 05 tháng 6 năm 1911, từ Bến Nhà Rồng, ông lấy tên Văn Ba, lên đường sang Pháp với nghề phụ bếp trên chiếc tàu buôn Đô đốc Latouche Tréville, với mong muốn học hỏi những tinh hoa và tiến bộ từ các nước phương Tây. Sau khi ở Hoa Kỳ một năm (cuối 1912 - cuối 1913), ông quay trở lại nước Anh làm nghề cào tuyết, đốt lò rồi phụ bếp cho khách sạn. Cuối năm 1917, ông trở lại nước Pháp, sống và hoạt động ở đây cho đến năm 1923.
Ngày 19 tháng 6 năm 1919, nhân danh một nhóm người Việt Nam yêu nước, ông đã viết "Yêu sách của nhân dân An Nam" gồm tám điểm được viết bằng tiếng Pháp (Revendications du peuple annamite), ký tên Nguyễn Ái Quốc và gửi tới Hội nghị hòa bình Versailles, đòi chính phủ Pháp ân xá chính trị phạm, thực hiện các quyền tự do, dân chủ và quyền bình đẳng của dân tộc Việt Nam. Ông còn gửi thư riêng kèm theo bản yêu sách cho các đoàn đại biểu Đồng Minh dự hội nghị, nhưng không gây được sự chú ý. Từ đó ông dùng tên Nguyễn Ái Quốc.
Tháng 7 năm 1920, Nguyễn Ái Quốc đọc Luận cương về vấn đề dân tộc và thuộc địa của Lenin, từ đó ông đi theo chủ nghĩa cộng sản. Ông tham dự Đại hội lần thứ 18 của Đảng Xã hội Pháp tại Tours (từ 25 đến 30 tháng 12 năm 1920) với tư cách là đại biểu Đông Dương của Đảng Xã hội Pháp, ông trở thành một trong những sáng lập viên của Đảng Cộng sản Pháp và tách khỏi đảng Xã hội.
Hồ Chí Minh (19/5/1890 – 02/9/1969) là một nhà cách mạng, một người đấu tranh giành độc lập, toàn vẹn lãnh thổ cho Việt Nam và là một người cộng sản theo chủ nghĩa dân tộc. Hồ Chí Minh là một trong những người đặt nền móng và lãnh đạo công cuộc đấu tranh giành độc lập, dẫn đến việc thống nhất nước Việt Nam về sau. Ông trở thành Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa vào những năm 1945-1969.
Ông còn có nhiều tên khác như Nguyễn Tất Thành, Nguyễn Ái Quốc, Văn Ba, Lý Thụy, Hồ Quang, Bác Hồ, Bok Hồ, Cụ Hồ. Khi ở chiến khu Việt Bắc ông được người dân địa phương gọi là Ông Ké. Tổng thống Indonesia Sukarno gọi ông là Bung Hồ (Anh Cả Hồ).
Tiểu sử
Tuổi trẻ
Theo lý lịch chính thức, Hồ Chí Minh sinh ngày 19 tháng 5 năm 1890, tuy nhiên có những thông tin khác không đồng nhất. Trong đơn xin học Trường hành chính thuộc địa, gửi tổng thống Pháp đầu năm 1911, ông tự ghi là sinh năm 1892. Năm 1920, ông khai với một quận cảnh sát tại Paris ngày sinh của mình là 15 tháng 1 năm 1894. Còn theo một tài liệu do Phòng nhì Pháp lập năm 1931, có sự xác nhận của một số nhân chứng làng Kim Liên (tên nôm là làng Sen), huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An, quê nội của ông thì ông sinh tháng 4 năm 1894. Tờ khai của ông tại Đại sứ quán Liên Xô ở Berlin, Đức, tháng 6 năm 1923 lại ghi ngày sinh là 15 tháng 02 năm 1895.
Ông tên thật là Nguyễn Sinh Cung, giọng địa phương phát âm là Côông), tự là Tất Thành, sinh ra ở quê ngoại là làng Hoàng Trù (tên nôm là làng Chùa) cùng huyện Nam Đàn và sống ở đây cho đến năm 1895. Thân phụ ông là một nhà nho tên là Nguyễn Sinh Sắc, từng đỗ Phó bảng. Thân mẫu ông là bà Hoàng Thị Loan (1868-1901). Ông có một người chị là Nguyễn Thị Thanh (1884-1954), một người anh là Nguyễn Sinh Khiêm (1888-1950), tự là Tất Đạt, còn gọi là ông Cả Khiêm và một người em trai nhưng mất sớm là Nguyễn Sinh Nhuận (1900-1901).
Năm 1895, Nguyễn Sinh Cung cùng cha mẹ và anh trai vào Huế lần đầu tiên. Sau khi mẹ ông mất (1901), ông được đưa về Nghệ An cho bà ngoại chăm sóc một thời gian ngắn rồi theo cha về quê nội. Khi về sống với cha ở làng Kim Liên năm 1901, ông lấy tên là Nguyễn Tất Thành.
Năm 1906, Nguyễn Tất Thành theo cha vào Huế lần thứ hai và học ở trường tiểu học Pháp-Việt Đông Ba. Sau khi học xong tiểu học, tháng 9 năm 1907, Nguyễn Tất Thành vào học tại trường Quốc Học Huế, nhưng bị đuổi học vào cuối tháng 5 năm 1908 vì tham gia phong trào chống thuế ở Trung Kỳ.
Từ tháng 9 năm 1910 đến trước tháng 2 năm 1911, ông vào Phan Thiết dạy chữ Hán và chữ Quốc ngữ cho học sinh lớp nhì tại trường Dục Thanh do một số nhân sĩ yêu nước lập ra năm 1907, sau đó ông vào Sài Gòn.
Hoạt động cách mạng ở nước ngoài:
Ngày 05 tháng 6 năm 1911, từ Bến Nhà Rồng, ông lấy tên Văn Ba, lên đường sang Pháp với nghề phụ bếp trên chiếc tàu buôn Đô đốc Latouche Tréville, với mong muốn học hỏi những tinh hoa và tiến bộ từ các nước phương Tây. Sau khi ở Hoa Kỳ một năm (cuối 1912 - cuối 1913), ông quay trở lại nước Anh làm nghề cào tuyết, đốt lò rồi phụ bếp cho khách sạn. Cuối năm 1917, ông trở lại nước Pháp, sống và hoạt động ở đây cho đến năm 1923.
Ngày 19 tháng 6 năm 1919, nhân danh một nhóm người Việt Nam yêu nước, ông đã viết "Yêu sách của nhân dân An Nam" gồm tám điểm được viết bằng tiếng Pháp (Revendications du peuple annamite), ký tên Nguyễn Ái Quốc và gửi tới Hội nghị hòa bình Versailles, đòi chính phủ Pháp ân xá chính trị phạm, thực hiện các quyền tự do, dân chủ và quyền bình đẳng của dân tộc Việt Nam. Ông còn gửi thư riêng kèm theo bản yêu sách cho các đoàn đại biểu Đồng Minh dự hội nghị, nhưng không gây được sự chú ý. Từ đó ông dùng tên Nguyễn Ái Quốc.
Tháng 7 năm 1920, Nguyễn Ái Quốc đọc Luận cương về vấn đề dân tộc và thuộc địa của Lenin, từ đó ông đi theo chủ nghĩa cộng sản. Ông tham dự Đại hội lần thứ 18 của Đảng Xã hội Pháp tại Tours (từ 25 đến 30 tháng 12 năm 1920) với tư cách là đại biểu Đông Dương của Đảng Xã hội Pháp, ông trở thành một trong những sáng lập viên của Đảng Cộng sản Pháp và tách khỏi đảng Xã hội.
* Một số tài liệu cũ có thể bị lỗi font khi hiển thị do dùng bộ mã không phải Unikey ...
Người chia sẻ: Lê Khắc Thu
Dung lượng: |
Lượt tài: 0
Loại file:
Nguồn : Chưa rõ
(Tài liệu chưa được thẩm định)