Thuyettrinh
Chia sẻ bởi Trần Thị Diễm My |
Ngày 21/10/2018 |
82
Chia sẻ tài liệu: thuyettrinh thuộc Bài giảng khác
Nội dung tài liệu:
CÁC HÌNH THỨC HOẠT ĐỘNG TRONG DẠY HỌC VĂN
Thực hiện: Nhóm 7
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SÀI GÒN
Đổi mới phương pháp giảng dạy để nâng cao chất lượng dạy học đang là xu hướng chung của Đảng và Nhà nước.Đổi mới phương pháp dạy học nói chung, phương pháp dạy môn Ngữ văn nói riêng luôn là vấn đề cần thiết nhằm giúp cho các em hứng thú hơn trong một giờ học.Việc đổi mới phương pháp giáo dục tất yếu phải đổi mới hình thức tổ chức dạy học phù hợp nhằm tạo ra một giờ học tích cực.Việc đổi mới hình thức tổ chức dạy học mục đích chính là nhằm vào đối tượng học sinh ,nhằm giúp cho các em phát huy tính chủ động, tích cực, tự giác hơn trong giờ học.Thay vì trước kia thầy nói trò nghe, thầy đọc trò chép thì ngày nay chúng ta sẽ hướng vào việc thầy hướng dẫn trò thực hiện, thầy gợi ý trò giải mã, trò biết lắng nghe, lựa chọn và tiếp nhận ý khiến của người khác để bổ sung vào sự hiểu biết của mình.Đồng thời biết trình bày ý kiến của mình cho bạn nghe và học được cả việc tổ chức ,điều khiển trong một giờ học,trong một tổ chức, một đám đông.
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Để làm được điều đó quả thật cũng không dễ dàng,ngoài việc Giáo viên chúng ta phải có năng lực sư phạm, tay nghề vững vàng ,yêu nghề mến trẻ ,….còn phải biết lựa chọn phương pháp và hình thức tổ chức phù hợp.Với các hình thức như:dạy học nêu vấn đề, đàm thoại, thảo luận nhóm, làm việc cá thể, hoạt động ngoài trời,…đòi hỏi giáo viên phải biết lựa chọn và phối hợp sao cho phù hợp với đặc điểm từng lớp, từng bài học quả là cam go.Nhưng với lòng yêu nghề và nhiệt huyết của tuổi trẻ hi vọng chúng ta sẽ làm tốt sự nghiệp trồng người của mình.
CÁC HÌNH THỨC HOẠT ĐỘNG TRONG DẠY HỌC VĂN
Hoạt động diễn giảng (thuyết trình)
Hoạt động đàm thoại
Hoạt động thảo luận
Hoạt động chia nhóm
Dạy học cá thể
1 . Hoạt động diễn giảng (thuyết trình)
a) Mục đích:
Diễn giải là phương pháp dạy học thông dụng nhất, nhưng không phải lúc nào cũng là hiệu quả nhất. Giảng viên dùng lời nói cùng với các phương tiện kỹ thuật thông tin, nghe nhìn như: Bảng – phấn, văn bản in, overhead transparencies, video/film, máy tính,… để diễn giảng cho người học nghe, phát hiện và hiểu các khái niệm, hiện tượng, qui luật, nguyên lý của các quá trình.
Bao gồm các dạng của nó là giảng thuật (trần thuật), giảng giải và giảng diễn (diễn giải)- là phương pháp dạy học mà phương tiện cơ bản dùng để thực hiện là lời nói sinh động của giáo viên.
Ở trong nhà trường, một dạng được sử dụng thông thường nhất và phổ biến nhất là phương pháp thuyết trình thông báo- tái hiện. Đặc điểm cơ bản nổi bật của phương pháp này là tính chất thông báo của lời giảng của thầy và tính chất tái hiện sau khi lĩnh hội của trò. Những kiến thức đến với học sinh theo phương pháp này như đã được thầy chuẩn bị sẵn để trò thu nhận. Hs chỉ nghe, nhìn, cùng tư duy theo lời giảng của thầy trò, hiểu, ghi chép và ghi nhớ.
II. CÁC HOẠT ĐỘNG TỔ CHỨC DẠY HỌC
1 . Hoạt động diễn giảng (thuyết trình)
b) Cách thức:
Đối với mỗi vấn đề trọn vẹn, thông thường sự thông báo phải trải qua 4 bước: đặt vấn đề, phát biểu vấn đề, giải quyết vấn đề và kết luận về vấn đề nêu ra. Mỗi bước có một nhiệm vụ nhất định.
Bước 1. Đặt vấn đề
Vấn đề được thông báo dưới dạng chung nhất, có một phạm vi rộng, nhằm gây ra sự chú ý ban đầu của học sinh, tạo ra tâm thế bắt đầu làm việc và định hướng nghiên cứu.
Bước 2. Phát biểu vấn đề
Ngay sau khi thông báo đề tài nghiên cứu, giáo viên nêu ra những câu hỏi cụ thể hơn, thu hẹp phạm vi nghiên cứu, chỉ ra trọng điểm cần xem xét cụ thể nhằm tạo ra nhu cầu của học sinh đối với kiến thức, gây hứng thú và động cơ học tập; đồng thời cũng vạch ra nội dung và dàn ý cần nghiên cứu.
1 . Hoạt động diễn giảng (thuyết trình)
Bước 3. Giải quyết vấn đề
Giáo viên có thể tiến hành giải quyết vấn đề theo 2 logic phổ biến: quy nạp hoặc diễn dịch.
Theo logic quy nạp, giáo viên có thể áp dụng 3 cách trình bày khác nhau tuỳ đặc điểm của nội dung:
a. Quy nạp phân tích từng phần: Nếu nội dung các vấn đề đặt ra (ở bước 2) tương đối độc lập với nhau, ta có thể giải quyết dứt điểm từng vấn đề, rồi sơ bộ kết luận về vấn đề đó. Giải quyết xong vấn đề thứ nhất rồi chuyển sang vấn đề thứ 2,...
b. Quy nạp phát triển: Các vấn đề cụ thể được giải quyết theo lối “móc xích”. Nói chung kết luận của vấn đề trước là tiền đề giải quyết vấn đề sau.
c. Quy nạp so sánh (hay song song- đối chiếu): Nếu nội dung của tài liệu giáo khoa chứa đựng những mặt tương phản đối lập ,giáo viên có thể so sánh những thuộc tính này ở 2 đối tượng tương phản để rút ra kết luận cho từng điểm so sánh.
Theo logic diễn dịch, giáo viên đưa ra kết luận sơ bộ, khái quát. Sau đó tiến hành giải quyết vấn đề theo 3 cách vừa nói trên (phân tích từng phần, phát triển, so sánh- đối chiếu). Ba cách giải quyết này giữ vai trò minh hoạ cho kết luận sơ bộ nói trên.
1 . Hoạt động diễn giảng (thuyết trình)
Bước 4. Kết luận
Kết luận phải là sự kết tinh dưới dạng cô đọng, chính xác, đầy đủ những khái quát bản chất nhất của vấn đề đưa ra xem xét. Kết luận chính là câu trả lời cô đọng cho những câu hỏi đã được nêu lên ở bước 1, 2. Kết luận có giá trị đức dục quan trọng đối với học sinh chính vì tính khái quát cao của nó.
C) Những yêu cầu sư phạm
- Bảo đảm tính giáo dục, tính khoa học, tính thực tiễn của nội dung thuyết trình;
- Bảo đảm sự trong sáng, rõ ràng, dễ hiểu của việc trình bày tài liệu;
- Bảo đảm tính hình tượng và tính diễn cảm của việc trình bày tài liệu.
- Bảo đảm thu hút sự chú ý và phát huy tính tích cực tư duy của học sinh;
- Bảo đảm cho học sinh ghi chép được và biết cách ghi chép (1). Trong một số tài liệu khác còn nhấn mạnh yêu cầu về tính chặt chẽ về mặt logic, tính thuyết phục và thái độ cử chỉ đúng mực của giáo viên (2).
1 . Hoạt động diễn giảng (thuyết trình)
d) Những yêu cầu về nghệ thuật của lời nói của giáo viên
Để tăng sức truyền cảm và hiệu quả của lời nói giáo viên trong hoạt động này cũng như trong các hoạt động dạy học khác, người giáo viên phải rèn luyện và phấn đấu đạt được các yêu cầu sau đây khi trình bày bằng lời:
- Lời nói của giáo viên phải chính xác, được chọn lọc chuẩn xác và có nội dung phong phú.
- Lời nói giáo viên phải trong sáng, dễ hiểu, súc tích, gọn, đúng ngữ pháp. Không nói ngọng, nói lăp.
- Khi trình bày phải thể hiện tình cảm. Có những đoạn bài giảng, lời nói của giáo viên phải xúc cảm. Học sinh thường thích nghe giọng nói bình tĩnh, êm dịu, nhưng nhiệt tình sôi nổi đúng mức. Học sinh thường rất có thiện cảm trước những tình cảm chân thành nhưng dễ chán ghét đối với tính cảm giả tạo, phô trương. Giọng nói gắt gỏng sẽ làm học sinh phật ý, nhưng giọng nói đều đều hoặc quá nhỏ cũng gây căng thẳng không cần thiết. Phải biết luyện giọng, điều chỉnh âm sắc.
- Điệu bộ và nét mặt là một phương tiện quan trọng nâng cao sức truyền cảm của lời nói nếu được phối hợp nhịp nhàng với nội dung trình bày, nhưng không nên lạm dụng.
- Nhịp điệu lời nói vừa phải, những chỗ khó được trình bày chậm hơn, chỗ dễ được trình bày nhanh hơn. Trong khi đang trình bày, giáo viên không nên đi lại ở trong lớp mà nên đứng cạnh bảng đen, nhưng vào lúc chuyển sang vấn đề mới thì có thể đi lại ở trong lớp.
- Thay đổi nhịp điệu giọng nói hoặc ngắt quãng lâu hơn khi nhấn mạnh những nội dung mới, ý chính, đoạn bình giảng.
- Khi trình bày, có thể viết lên bảng các tiểu mục, các ý chính hoặc vẽ một số sơ đồ tu duy.
2. Hoạt động đàm thoại
a) Mục đích:
Hoạt động đàm thoại (vấn đáp) là cách mà giáo viên khéo léo đặt hệ thống câu hỏi để học sinh trả lời nhằm:
- Gợi mở cho các em sáng tỏ những vấn đề mới.
- Tự khai phá những tri thức mới bằng sự tái hiện những kiến thức đã học hoặc từ những kinh nghiệm đã tích luỹ được trong cuộc sống.
- Giúp học sinh củng cố, mở rộng, đào sâu, tổng kết, hệ thống hoá những tri thức đã tiếp thu được.
- Kiểm tra, đánh giá và giúp học sinh tự kiểm tra, tự đánh giá việc lĩnh hội tri thức.
II. CÁC HOẠT ĐỘNG TỔ CHỨC DẠY HỌC
2. Hoạt động đàm thoại
b) Cách thức:
Yêu cầu đối với giáo viên:
- Tuỳ vào điều kiện, đối tượng mà GV sử dụng đàm thoại.
- Tuỳ vào điều kiện không gian và thời gian.
- GV là người đóng vai trò định hướng thông qua hệ thống các câu hỏi giúp HS giải quyết vấn đề, tổng hợp lại vấn đề.
- Đòi hỏi người GV phải có những kỹ năng sư phạm thật sự tốt : tâm lý, ứng xử, giao tiếp…
Yêu cầu về câu hỏi:
- Câu hỏi đặt ra phải có tính mục đích hệ thống, để dẫn dắt được học sinh vào vấn đề.
- Câu hỏi phải vắn tắt, đơn giản, rõ ràng, phù hợp với trình độ HS.
- Câu hỏi phải kích thích được sự tư duy của học sinh.
- Phải có câu hỏi mang tính phân loại, để kiểm tra khả năng lĩnh hội vấn đề của HS.
- Có nhiều cơ sở để phân loại đàm thoại (dựa vào mục đích dạy học, dựa vào tính chất nhận thức của học sinh) nhưng có thể chia đàm thoại thành 2 loại chính
II. CÁC HOẠT ĐỘNG TỔ CHỨC DẠY HỌC
b) Cách thức:
Đàm thoại tái hiện:
GV đặt ra những câu hỏi chỉ yêu cầu HS nhớ lại kiến thức đã biết và trả lời dựa vào trí nhớ, không cần suy luận.
Đó là hình thức được dùng khi cần đặt mối liên hệ giữa kiến thức đã học với kiến thức sắp học hoặc khi cần củng cố kiến thức vừa mới học.
Đàm thoại gợi mở:
Có 2 dạng:
- Đàm thoại gợi mở Algorit: Câu hỏi đặtt theo một trình tự cho loạt bài tương tự, HS suy nghĩ để tìm kết quả.
- Đàm thoại gợi mở nêu vấn đề: Câu hỏi nêu vấn đề chứa đựng điều đã biết và cái chưa biết, HS phải tư duy và phải có sự gợi ý dẫn dắt của GV khi cần thiết thì tìm được kết quả.
2. Hoạt động đàm thoại
II. CÁC HOẠT ĐỘNG TỔ CHỨC DẠY HỌC
2. Hoạt động đàm thoại
II. CÁC HOẠT ĐỘNG TỔ CHỨC DẠY HỌC
c) Ưu khuyết điểm:
Ưu điểm:
- Kích thích tính tích cực, độc lập sáng tạo trong học tập của HS.
- Bồi dưỡng cho HS năng lực diễn đạt những vấn đề học tập bằng lời.
- Giúp GV thu thập thông tin từ phía HS để kịp thời điều chỉnh hoạt động dạy học.
- Tạo không khí học tập sôi nổi trong giờ học.
Khuyết điểm:
Nếu người giáo viên chưa có nghệ thuật tổ chức, điều khiển phương pháp đàm thoại thì mang một số hạn chế sau:
- Dễ làm mất thời gian, ảnh hưởng tới việc thực hiện kế hoạch bài học.
- Có thể biến đàm thoại thành cuộc tranh luận giữa GV và học sinh, giữa các thành viên của lớp với nhau.
3. Hoạt động thảo luận
II. CÁC HOẠT ĐỘNG TỔ CHỨC DẠY HỌC
a) Mục đích:
- Hoạt động thảo luận là hình thức tổ chức cho học sinh học tập, thảo luận theo từng nhóm, cùng nhau giải quyết một vấn đề giúp học sinh chiếm lĩnh kiến thức, hiểu thấu đáo vấn đề và phát triển trí tuệ .Đây là biện pháp tích cực tạo điều kiện cho học sinh phát triển kĩ năng ngôn ngữ và giao tiếp xã hội, mạnh dạn chủ động giải quyết vấn đề . Qua thảo luận nhóm, học sinh sẽ thấy rằng có nhiều câu trả lời, nhiều giải pháp, nhiều ý kiến khác nhau cho cùng một vấn đề. Từ đó, hoạt động thảo luận sẽ khuyến khích phát triển tư duy độc lập, chủ động, sáng tạo của học sinh.
- Ngoài ra, hoạt động này dựa trên nguyên tắc dân chủ và tương hỗ, do đó, tất cả học sinh từ khá, giỏi đến trung bình, yếu, kém đều có thể tham gia hoạt động học tập.
3. Hoạt động thảo luận
II. CÁC HOẠT ĐỘNG TỔ CHỨC DẠY HỌC
b) Cách thức tổ chức thảo luận:
Lựa chọn đề tài:
Việc lựa chọn đề tài rất quan trọng. Đề tài quá khó hoặc quá dễ đối với học sinh đều ảnh hưởng đến hoạt động thảo luận. Lựa chọn vấn đề thảo luận phải hấp dẫn, có tính chất kích thích tính tích cực chủ động làm việc của học sinh. Đề tài thảo luận phải là vấn đề chính của bài học, vấn đề có thể có nhiều hướng khai thác khác nhau, nhiều cấp độ nhận thức khác nhau, trong đó đặc biệt chú ý:
1) Phải đặt ra nhiệm vụ cụ thể của từng nhóm bằng một câu hỏi. Câu hỏi phải rõ ràng, không mập mờ, đánh đố và phải duy nhất một cách hiểu.
2) Phải có hướng dẫn cụ thể về yêu cầu và định hướng cách thức làm việc.
3) Những vấn đề không nên cho thảo luận: tóm tắt tác giả, tóm tắt tác phẩm, xác định nhân vật chính, nhân vật phụ, xác định bố cục…
4) Thời gian thảo luận phải tương ứng với nội dung yêu cầu của vấn đề thảo luận.
3. Hoạt động thảo luận
II. CÁC HOẠT ĐỘNG TỔ CHỨC DẠY HỌC
b) Cách thức tổ chức thảo luận:
Chia nhóm: khi chia nhóm cần chú ý
Chia đều về số lượng và năng lực làm việc giữa các nhóm với nhau. Không chia nhóm này quá nhiều, nhóm kia quá ít; nhóm này tập trung học sinh giỏi, nhóm kia phần đông là yếu kém, ý thức học tập chưa cao.
Nếu vấn đề đặt ra trong bài học không nhiều, giáo viên có thể cho hai nhóm cùng thảo luận một vấn đề. Nhưng sau đó giáo viên có thể linh hoạt cho nhóm này báo cáo, nhóm kia đặt ra câu hỏi phản biện.
Giao nhiệm vụ:
Khi tổ chức chia nhóm, cần chú ý giao nhiệm vụ cụ thể cho mỗi nhóm và phải có thư kí để tổng hợp ý kiến của các thành viên trong nhóm. Học sinh được giao nhiệm vụ có khả năng tổng hợp và trình bày vấn đề trước tập thể. Đây là kỹ năng quan trọng cần được rèn luyện thường xuyên. Vì thế, giáo viên cũng nên tạo cơ hội cho tất cả được thử sức, không nên quá tập trung vào một em duy nhất
3. Hoạt động thảo luận
II. CÁC HOẠT ĐỘNG TỔ CHỨC DẠY HỌC
b) Cách thức tổ chức thảo luận:
Giám sát hoạt động của từng nhóm:
Thường với một nhóm đông thành viên, rất dễ dẫn đến nhiều em không tập trung, làm việc riêng. Hoặc trong quá trình thảo luận, có khi do lúng túng không hiểu rõ yêu cầu của đề. Vì thế, giáo viên phải giám sát thường xuyên, kịp thời uốn nắn.
Trình bày kết quả thảo luận:
Khi kết thúc quá trình thảo luận, mỗi nhóm cử đại diện trình bày kết quả thảo luận của nhóm. Thường, công việc này do thư kí nhóm trình bày. Tùy vào điều kiện, giáo viên có thể cho các nhóm tham gia phản biện. Khi ấy, giáo viên chính là trọng tài có nhiệm vụ dẫn dắt, định hướng vào đề tài, tránh lệch hướng.
3. Hoạt động thảo luận
II. CÁC HOẠT ĐỘNG TỔ CHỨC DẠY HỌC
b) Cách thức tổ chức thảo luận:
Tổng kết đánh giá:
Vấn đề cốt lõi của khâu này là phải tìm ra được vấn đề - có thể xem như chân lý mà mỗi nhóm đã đạt được. Ngoài ra cũng cần đánh giá khả năng làm việc của nhóm: Các nhóm làm việc có khoa học hay không. Giáo viên nên nhận xét cụ thể, khách quan và tốt nhất nên cho điểm để khích lệ tinh thần học tập của các em.
Kỹ thuật phối hợp trong hoạt động thảo luận nhóm:
Việc tổ chức thảo luận nhóm có thành công hay không, phần lớn tùy thuộc rất nhiều vào kỹ thuật tổ chức. Ta có thể vận dụng kết hợp những kỹ thuật dạy học sau:
3. Hoạt động thảo luận
II. CÁC HOẠT ĐỘNG TỔ CHỨC DẠY HỌC
b) Cách thức tổ chức thảo luận:
Kỹ thuật đặt câu hỏi
Câu hỏi ở đây chính là yêu cầu hay vấn đề đặt ra cho từng nhóm. Câu hỏi phải kích thích sự hứng thú của học sinh, phải vừa tầm khả năng làm việc của nhóm. Vì thế giáo viên nên lựa chọn câu hỏi phải đạt cấp độ vừa mang tính phát hiện vừa có sự tư duy sâu.
Ví dụ: Khi dạy “Hai đứa trẻ” (Thạch Lam) chương trình Ngữ văn 11, giáo viên có thể đặt câu hỏi cho từng nhóm như sau:
Nhóm1: Tìm những chi tiết miêu tả hình ảnh bóng tối. Cách miêu tả như thế nhấn mạnh điều gì? (đoạn cuối tr 97, đoạn cuối tr 98).
Nhóm 2: Tìm những chi tiết miêu tả hình ảnh ánh sáng. Cách miêu tả như thế nhấn mạnh điều gì? (đoạn cuối tr 97, đoạn cuối tr 98).
Nhóm 3- Nhóm 4: Trong đêm tối, con người xuất hiện như thế nào? Cách miêu tả như thế có ý nghĩa gì? ( đoạn 3 tr 98, đoạn 1-2-3 tr 99)
3. Hoạt động thảo luận
II. CÁC HOẠT ĐỘNG TỔ CHỨC DẠY HỌC
b) Cách thức tổ chức thảo luận:
Kỹ thuật “Khăn phủ bàn”
- Mỗi nhóm sẽ có một tờ giấy A0 đặt trên bàn, như là một chiếc khăn trải bàn. Chia tờ giấy ra thành nhiều phần xung quanh tờ giấy .Tùy thuộc vào số lượng của nhóm sẽ có số lượng khung tương ứng. Các thành viên sẽ ghi ý kiến tìm được của mình vào trong khung đó. Phần chính giữa là ý chung, được thống nhất của cả nhóm. Phần này do thư kí nhóm ghi lại.
- Sử dụng kỹ thuật này giáo viên sẽ dễ dàng đánh giá từng thành viên một. Đánh giá khả năng làm việc của nhóm, đặc biệt là về mặt hình thức.
Kỹ thuật dùng phiếu học tập
Phiếu học tập là những tờ giấy rời có nội dung hướng dẫn, yêu cầu học sinh làm việc trong một thời gian ngắn tại lớp học hoặc được làm ở nhà trước mỗi bài học.Sử dụng kỹ thuật dùng phiếu học tập trong thảo luận nhóm là biện pháp đem lại hiệu quả tích cực nhất.
Ví dụ: Khi dạy bài Phong cách ngôn ngữ sinh hoạt- Ngữ văn 10 có thể thiết kế phiếu học tập như sau:
3. Hoạt động thảo luận
II. CÁC HOẠT ĐỘNG TỔ CHỨC DẠY HỌC
c) Ưu khuyết điểm:
Ưu điểm
- Tạo được không khí vui tươi, sinh động cho giờ dạy.
- Có thể phát triển năng lực toàn diện cho học sinh từ tâm lí, tính cách cho đến kỹ năng và hành vi giao tiếp…
- Học sinh hợp tác làm việc tập thể nên có thể bổ sung cho nhau .
Khuyết điểm
- Giáo viên thường bị động về thời gian.
- Đa phần học sinh ít chuẩn bị trước ở nhà. Trong nhóm thường chỉ tập trung ở một số đối tượng tích cực, có năng lực, một số học sinh lười biếng hay ỷ lại vào người khác nên ít mang lại hiệu quả như mong muốn.
4. Hoạt động chia nhóm
a) Mục đích:
- Thực hiện yêu cầu gv đưa ra trên tinh thần tập thể,cùng giải quyết một vấn đề.
- Tạo không khí sôi nổi, hào hứng khi tham gia các hoat động trong giờ dạy học văn
II. CÁC HOẠT ĐỘNG TỔ CHỨC DẠY HỌC
II. CÁC HOẠT ĐỘNG TỔ CHỨC DẠY HỌC
4. Hoạt động chia nhóm
b)Hoạt động chia nhóm:
Bước 1 : đưa ra yêu cầu: nội dung, thời gian ,mục tiêu cần đạt
Bước 2: chia nhóm
- Có các cách chia nhóm sau:
+ Hs tự chọn nhóm
+ Chia nhóm một cách ngẫu nhiên
+Gv tự chọn nhóm
Bước 3:tiến hành làm việc theo nhóm
Bước 4: nhóm trình bày kết quả làm việc
Bước 5:các nhóm khác bổ sung, nhận xét,đưa ra ý kiến
Bước 6:gv nhận xét, tổng kết, đánh giá
Bước 1: gv đưa ra vấn đề
Trong truyện ngắn “Vợ nhặt” việc nhân vật Tràng “nhặt” được vợ đã khiến cho những ai ngạc nhiên? Sự ngạc nhiên của các nhân vật đó có ý nghĩa như thế nào về nội dung và nghệ thuật?
Bước 2: chia lớp thành 4 nhóm (mỗi nhóm khoảng 8 hs ),làm việc trong 5-7 phút
Bước 3:các nhóm tiến hành làm việc dựa trên gợi ý của gv
Bước 4: đại diện các nhóm trình bày kết quả làm việc của nhóm
Bước 5: các nhóm nhận xét, bổ sung, đóng góp ý kiến
Bước 6:gv nhận xét, tổng kết, đánh giá
Việc nhân vật Tràng “nhặt” được vợ đã khiến cho nhiều người ngạc nhiên :đầu tiên là dân xóm ngụ cư, sau đó là bà cụ Tứ, và ngay cả bản thân Tràng cũng rất ngạc nhiên.
Ví dụ
Về nội dung:
+ Gián tiếp tố cáo tội ác của bọn thực dân, phát xít đã gây nên nạn đói khủng khiếp.
+ Thể hiện thân phận bị rẻ rúng và tình trạng sống thê thảm của con người.
Về nghệ thuật :
+ Góp phần tạo dựng nên một tình huống truyện độc đáo,
+ Tạo sự hấp dẫn trong việc dẫn dắt mạch truyện;thể hiện tình cảm , tâm trạng của các nhân vật
+ Thể hiện tinh thần nhân đạo, tính nhân văn sâu sắc
Ý nghĩa về nội dung và nghệ thuật
II. CÁC HOẠT ĐỘNG TỔ CHỨC DẠY HỌC
4. Hoạt động chia nhóm
c) Ưu điểm, nhược điểm của hoạt động chia nhóm:
* Ưu điểm:
+ Bày tỏ ý kiến, quan điểm trước bạn bè
+ Rèn luyện sự tự tin trước đám đông
+ Phát triển kĩ năng phân tích, lập luận và lối tư duy mang tính phê phán, phản đối cao để từ đó đưa ra kết luận hoàn chỉnh nhất
+ Rèn luyện tinh thần tập thể,tạo sự đoàn kết, gắn bó; khả năng gắn kết làm việc theo nhóm.
* Nhược điểm:
+ Một số cá nhân không làm việc
+ Bất đồng quan điểm giữa các thành viên, gây tranh luận
II. CÁC HOẠT ĐỘNG TỔ CHỨC DẠY HỌC
4. Hoạt động chia nhóm
d) Vai trò của gv
- Chủ đạo: hướng dẫn, theo dõi, nhận xét, tổng kết,đưa ra kết luận ,đánh giá kết quả làm việc của từng nhóm một cách khách quan, công bằng nhất.
II. CÁC HOẠT ĐỘNG TỔ CHỨC DẠY HỌC
5. Dạy học cá thể
a. Mục đích
Dạy học cá thể nhằm phát triển năng lực riêng của mỗi học sinh, giúp
các em tự hoàn thành kiến thức của mỗi đơn vị bài học và nắm chắc phần kiến thức mình vừa tiếp thu.Đồng thời giúp cho mỗi em có thói quen tự học,tự làm việc một cách độc lập mà không phải phụ thuộc vào thầy như tư tưởng “không thầy đố mầy làm nên”hay học thầy không tày học bạn” nên bị lệ thuộc không độc lập trong tư duy ,thiếu chính kiến trong khi làm bài.
II. CÁC HOẠT ĐỘNG TỔ CHỨC DẠY HỌC
5. Dạy học cá thể
b. Phương thức thực hiện
- Sau mỗi giờ học để kiểm tra xem mức độ tiếp thu bài của học sinh giáo viên có thể sử dụng phiếu bài tập sau mỗi tiết học.Việc làm này không chỉ giúp học sinh cũng cố lại kiến thức sau mỗi tiết học mà còn giúp giáo viên nắm được mức độ tiếp thu của mỗi học trò từ đó điều tiết giờ học cho phù hợp với đối tượng mình giảng dạy.
Ví dụ: Sau khi học xong bài :“Tây Tiến” của Quang Dũng, giáo viên có thể cho học sinh viết một đoạn văn ngắn nêu cảm nhận của mình về chân dung người lính Tây Tiến.
Hay giáo viên có thể ra dạng bài tập trắc nghiệm đúng sai hoặc chọn đáp án đúng trong 3 đáp án (a,b,c) để kiểm tra nhanh trong 5 phút.Với dạng bài tập này giáo viên cần chuẩn bị câu hỏi có phân loại đối tượng học sinh :giỏi, khá, trung bình để có hệ thống câu hỏi phù hợp.
II. CÁC HOẠT ĐỘNG TỔ CHỨC DẠY HỌC
5. Dạy học cá thể
b. Phương thức thực hiện
- Ngoài việc chuẩn bị phiếu bài tập cụ thể, đầu tư nhiều thời gian giáo viên cũng có thể cho học sinh làm việc cá thể bằng việc làm bài tập trong Sách Giáo khoa một cách linh hoạt ,khoa học.
Ví dụ:(bài tập 2/SGK Ngữ văn lớp 12 trang 34 tập 1)
Đoạn văn sau của Chế Lan Viên đã bị lược bỏ các dấu câu.Hãy đặt các dấu câu cần thiết vào vị trí thích hợp để đảm bảo sự trong sáng của đoạn văn.
Tôi có lấy ví dụ về một dòng sông dòng sông vừa trôi chảy vừa phải tiếp nhận dọc đường đi của mình những dòng nước khác dòng ngôn ngữ cũng vậy một mặt nó phải giữ bản sắc cố hữu của dân tộc nhưng nó không được phép gạt bỏ từ chối những gì mà thời đại đem lại.
Với đề trên học sinh có thể dùng bút chì làm nhanh vào Sách Giáo khoa, sau đó giáo viên chỉnh sửa nhằm giúp cho các em kiểm tra được kiến thức của chính mình, vừa tiết kiệm được thời gian.
II. CÁC HOẠT ĐỘNG TỔ CHỨC DẠY HỌC
5. Dạy học cá thể
b. Phương thức thực hiện
-Ngoài việc vận dụng phương pháp giáo dục cá thể sau mỗi giờ học ta có thể vận dụng phương pháp này ở khâu cho học sinh chuẩn bị bài trước ở nhà.Cụ thể giáo viên có thể cho học sinh sưu tầm tranh ảnh, tư liệu có liên quan đến đơn vị bài học của ngày hôm sau hoặc học sinh cũng có thể khảo sát nơi mình ở để có kiến thức thực tế khi học những bài liên quan đến chương trình địa phương.Việc làm này giúp cho các em chủ động tìm tòi kiến thức lien quan đến đơn vị bài học, say sưa hơn với những gì tự mình khám phá.Cũng giống như việc cho các em học ngoài trời để có kiến thức thực tế về đời sống.
Ví dụ:Khi dạy Văn bản “Việt Bắc” của Tố Hữu giáo viên sẽ cho các em về nhà tìm những tranh ảnh,kiến thức lien quan đến quang cảnh, con người Việt Bắc để khi vào tiết học các em dễ dàng hình dung ra những hình ảnh được tác giả nhắc đến trong bài thơ.Từ đó các em dễ dàng cảm nhận được nỗi long của kẻ ở ,người về.
II. CÁC HOẠT ĐỘNG TỔ CHỨC DẠY HỌC
5. Dạy học cá thể
c.Ưu điểm,hạn chế của phương pháp :
*Ưu điểm:
Với việc vận dụng phương pháp này trong giờ học Ngữ văn ,giáo viên sẽ giúp cho các em chủ động, độc lập hơn trong suy nghĩ, dễ dàng kiểm tra vốn kiến thức của mình sau mỗi đơn vị bài học. Đồng thời người giáo viên dễ dàng nắm bắt,phân loại đối tượng học sinh một cách dễ dàng, nhanh chóng cũng như biết được mức độ tiếp thu của từng lớp, từng học sinh để điều chỉnh đúng lúc, kịp thời.
*Nhược điểm:
Tuy nhiên khi vận dụng phương pháp này đòi hỏi người giáo viên phải có sự đầu tư,chuẩn bị một hệ thống câu hỏi phân loại học sinh.Bản thân người giáo viên phải nắm rõ đặc điểm đối tượng học sinh từng lớp để mỗi lớp có một hệ thống câu hỏi riêng, không thể dùng một đề cho tất cả các lớp. Cũng không thể dùng cả lớp chung một đề những em giỏi thì thấy quá dễ không muốn làm, em còn yếu thí thấy quá khó không muốn làm.
III. KẾT LUẬN
Trên đây là những hoạt động nhằm giúp cho giáo viên chúng ta có được một giờ dạy tích cực, thầy hào hứng để dạy, trò chủ động ,tích cực chiếm lĩnh kiến thức. Nhằm giúp cho giờ dạy và học Ngữ văn diễn ra nhẹ nhàng, hiệu quả, tránh được lối sáo mòn thầy nói trò nghe,thầy đọc ,trò chép .Tuy nhiên để một giờ dạy thật hiệu quả, quả thật không đơn giản đòi hỏi người làm chủ bộc giảng phải linh động trong các hoạt động bởi không có hoạt động nào là độc tôn cả. Chưa kể còn tuỳ vào đặc điểm đối tượng và tính chất của mỗi bài học mà ta phải kết hợp những hoạt động nào để giờ dạy đạt hiệu quả như ý.Biết rằng khó khăn vẫn còn ở phía trước nhưng với lòng yêu nghề mến trẻ ,sự nhiệt quyết với nghề giáo viên chúng ta sẽ thực hiện tốt việc đổi mới phương pháp tích cực bằng việc vận dụng các hoạt đông dạy học mà nhóm 7 đã trình bày.
CÁM ƠN THẦY CÔ VÀ CÁC BẠN
ĐÃ LẮNG NGHE.
Thực hiện: Nhóm 7
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SÀI GÒN
Đổi mới phương pháp giảng dạy để nâng cao chất lượng dạy học đang là xu hướng chung của Đảng và Nhà nước.Đổi mới phương pháp dạy học nói chung, phương pháp dạy môn Ngữ văn nói riêng luôn là vấn đề cần thiết nhằm giúp cho các em hứng thú hơn trong một giờ học.Việc đổi mới phương pháp giáo dục tất yếu phải đổi mới hình thức tổ chức dạy học phù hợp nhằm tạo ra một giờ học tích cực.Việc đổi mới hình thức tổ chức dạy học mục đích chính là nhằm vào đối tượng học sinh ,nhằm giúp cho các em phát huy tính chủ động, tích cực, tự giác hơn trong giờ học.Thay vì trước kia thầy nói trò nghe, thầy đọc trò chép thì ngày nay chúng ta sẽ hướng vào việc thầy hướng dẫn trò thực hiện, thầy gợi ý trò giải mã, trò biết lắng nghe, lựa chọn và tiếp nhận ý khiến của người khác để bổ sung vào sự hiểu biết của mình.Đồng thời biết trình bày ý kiến của mình cho bạn nghe và học được cả việc tổ chức ,điều khiển trong một giờ học,trong một tổ chức, một đám đông.
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Để làm được điều đó quả thật cũng không dễ dàng,ngoài việc Giáo viên chúng ta phải có năng lực sư phạm, tay nghề vững vàng ,yêu nghề mến trẻ ,….còn phải biết lựa chọn phương pháp và hình thức tổ chức phù hợp.Với các hình thức như:dạy học nêu vấn đề, đàm thoại, thảo luận nhóm, làm việc cá thể, hoạt động ngoài trời,…đòi hỏi giáo viên phải biết lựa chọn và phối hợp sao cho phù hợp với đặc điểm từng lớp, từng bài học quả là cam go.Nhưng với lòng yêu nghề và nhiệt huyết của tuổi trẻ hi vọng chúng ta sẽ làm tốt sự nghiệp trồng người của mình.
CÁC HÌNH THỨC HOẠT ĐỘNG TRONG DẠY HỌC VĂN
Hoạt động diễn giảng (thuyết trình)
Hoạt động đàm thoại
Hoạt động thảo luận
Hoạt động chia nhóm
Dạy học cá thể
1 . Hoạt động diễn giảng (thuyết trình)
a) Mục đích:
Diễn giải là phương pháp dạy học thông dụng nhất, nhưng không phải lúc nào cũng là hiệu quả nhất. Giảng viên dùng lời nói cùng với các phương tiện kỹ thuật thông tin, nghe nhìn như: Bảng – phấn, văn bản in, overhead transparencies, video/film, máy tính,… để diễn giảng cho người học nghe, phát hiện và hiểu các khái niệm, hiện tượng, qui luật, nguyên lý của các quá trình.
Bao gồm các dạng của nó là giảng thuật (trần thuật), giảng giải và giảng diễn (diễn giải)- là phương pháp dạy học mà phương tiện cơ bản dùng để thực hiện là lời nói sinh động của giáo viên.
Ở trong nhà trường, một dạng được sử dụng thông thường nhất và phổ biến nhất là phương pháp thuyết trình thông báo- tái hiện. Đặc điểm cơ bản nổi bật của phương pháp này là tính chất thông báo của lời giảng của thầy và tính chất tái hiện sau khi lĩnh hội của trò. Những kiến thức đến với học sinh theo phương pháp này như đã được thầy chuẩn bị sẵn để trò thu nhận. Hs chỉ nghe, nhìn, cùng tư duy theo lời giảng của thầy trò, hiểu, ghi chép và ghi nhớ.
II. CÁC HOẠT ĐỘNG TỔ CHỨC DẠY HỌC
1 . Hoạt động diễn giảng (thuyết trình)
b) Cách thức:
Đối với mỗi vấn đề trọn vẹn, thông thường sự thông báo phải trải qua 4 bước: đặt vấn đề, phát biểu vấn đề, giải quyết vấn đề và kết luận về vấn đề nêu ra. Mỗi bước có một nhiệm vụ nhất định.
Bước 1. Đặt vấn đề
Vấn đề được thông báo dưới dạng chung nhất, có một phạm vi rộng, nhằm gây ra sự chú ý ban đầu của học sinh, tạo ra tâm thế bắt đầu làm việc và định hướng nghiên cứu.
Bước 2. Phát biểu vấn đề
Ngay sau khi thông báo đề tài nghiên cứu, giáo viên nêu ra những câu hỏi cụ thể hơn, thu hẹp phạm vi nghiên cứu, chỉ ra trọng điểm cần xem xét cụ thể nhằm tạo ra nhu cầu của học sinh đối với kiến thức, gây hứng thú và động cơ học tập; đồng thời cũng vạch ra nội dung và dàn ý cần nghiên cứu.
1 . Hoạt động diễn giảng (thuyết trình)
Bước 3. Giải quyết vấn đề
Giáo viên có thể tiến hành giải quyết vấn đề theo 2 logic phổ biến: quy nạp hoặc diễn dịch.
Theo logic quy nạp, giáo viên có thể áp dụng 3 cách trình bày khác nhau tuỳ đặc điểm của nội dung:
a. Quy nạp phân tích từng phần: Nếu nội dung các vấn đề đặt ra (ở bước 2) tương đối độc lập với nhau, ta có thể giải quyết dứt điểm từng vấn đề, rồi sơ bộ kết luận về vấn đề đó. Giải quyết xong vấn đề thứ nhất rồi chuyển sang vấn đề thứ 2,...
b. Quy nạp phát triển: Các vấn đề cụ thể được giải quyết theo lối “móc xích”. Nói chung kết luận của vấn đề trước là tiền đề giải quyết vấn đề sau.
c. Quy nạp so sánh (hay song song- đối chiếu): Nếu nội dung của tài liệu giáo khoa chứa đựng những mặt tương phản đối lập ,giáo viên có thể so sánh những thuộc tính này ở 2 đối tượng tương phản để rút ra kết luận cho từng điểm so sánh.
Theo logic diễn dịch, giáo viên đưa ra kết luận sơ bộ, khái quát. Sau đó tiến hành giải quyết vấn đề theo 3 cách vừa nói trên (phân tích từng phần, phát triển, so sánh- đối chiếu). Ba cách giải quyết này giữ vai trò minh hoạ cho kết luận sơ bộ nói trên.
1 . Hoạt động diễn giảng (thuyết trình)
Bước 4. Kết luận
Kết luận phải là sự kết tinh dưới dạng cô đọng, chính xác, đầy đủ những khái quát bản chất nhất của vấn đề đưa ra xem xét. Kết luận chính là câu trả lời cô đọng cho những câu hỏi đã được nêu lên ở bước 1, 2. Kết luận có giá trị đức dục quan trọng đối với học sinh chính vì tính khái quát cao của nó.
C) Những yêu cầu sư phạm
- Bảo đảm tính giáo dục, tính khoa học, tính thực tiễn của nội dung thuyết trình;
- Bảo đảm sự trong sáng, rõ ràng, dễ hiểu của việc trình bày tài liệu;
- Bảo đảm tính hình tượng và tính diễn cảm của việc trình bày tài liệu.
- Bảo đảm thu hút sự chú ý và phát huy tính tích cực tư duy của học sinh;
- Bảo đảm cho học sinh ghi chép được và biết cách ghi chép (1). Trong một số tài liệu khác còn nhấn mạnh yêu cầu về tính chặt chẽ về mặt logic, tính thuyết phục và thái độ cử chỉ đúng mực của giáo viên (2).
1 . Hoạt động diễn giảng (thuyết trình)
d) Những yêu cầu về nghệ thuật của lời nói của giáo viên
Để tăng sức truyền cảm và hiệu quả của lời nói giáo viên trong hoạt động này cũng như trong các hoạt động dạy học khác, người giáo viên phải rèn luyện và phấn đấu đạt được các yêu cầu sau đây khi trình bày bằng lời:
- Lời nói của giáo viên phải chính xác, được chọn lọc chuẩn xác và có nội dung phong phú.
- Lời nói giáo viên phải trong sáng, dễ hiểu, súc tích, gọn, đúng ngữ pháp. Không nói ngọng, nói lăp.
- Khi trình bày phải thể hiện tình cảm. Có những đoạn bài giảng, lời nói của giáo viên phải xúc cảm. Học sinh thường thích nghe giọng nói bình tĩnh, êm dịu, nhưng nhiệt tình sôi nổi đúng mức. Học sinh thường rất có thiện cảm trước những tình cảm chân thành nhưng dễ chán ghét đối với tính cảm giả tạo, phô trương. Giọng nói gắt gỏng sẽ làm học sinh phật ý, nhưng giọng nói đều đều hoặc quá nhỏ cũng gây căng thẳng không cần thiết. Phải biết luyện giọng, điều chỉnh âm sắc.
- Điệu bộ và nét mặt là một phương tiện quan trọng nâng cao sức truyền cảm của lời nói nếu được phối hợp nhịp nhàng với nội dung trình bày, nhưng không nên lạm dụng.
- Nhịp điệu lời nói vừa phải, những chỗ khó được trình bày chậm hơn, chỗ dễ được trình bày nhanh hơn. Trong khi đang trình bày, giáo viên không nên đi lại ở trong lớp mà nên đứng cạnh bảng đen, nhưng vào lúc chuyển sang vấn đề mới thì có thể đi lại ở trong lớp.
- Thay đổi nhịp điệu giọng nói hoặc ngắt quãng lâu hơn khi nhấn mạnh những nội dung mới, ý chính, đoạn bình giảng.
- Khi trình bày, có thể viết lên bảng các tiểu mục, các ý chính hoặc vẽ một số sơ đồ tu duy.
2. Hoạt động đàm thoại
a) Mục đích:
Hoạt động đàm thoại (vấn đáp) là cách mà giáo viên khéo léo đặt hệ thống câu hỏi để học sinh trả lời nhằm:
- Gợi mở cho các em sáng tỏ những vấn đề mới.
- Tự khai phá những tri thức mới bằng sự tái hiện những kiến thức đã học hoặc từ những kinh nghiệm đã tích luỹ được trong cuộc sống.
- Giúp học sinh củng cố, mở rộng, đào sâu, tổng kết, hệ thống hoá những tri thức đã tiếp thu được.
- Kiểm tra, đánh giá và giúp học sinh tự kiểm tra, tự đánh giá việc lĩnh hội tri thức.
II. CÁC HOẠT ĐỘNG TỔ CHỨC DẠY HỌC
2. Hoạt động đàm thoại
b) Cách thức:
Yêu cầu đối với giáo viên:
- Tuỳ vào điều kiện, đối tượng mà GV sử dụng đàm thoại.
- Tuỳ vào điều kiện không gian và thời gian.
- GV là người đóng vai trò định hướng thông qua hệ thống các câu hỏi giúp HS giải quyết vấn đề, tổng hợp lại vấn đề.
- Đòi hỏi người GV phải có những kỹ năng sư phạm thật sự tốt : tâm lý, ứng xử, giao tiếp…
Yêu cầu về câu hỏi:
- Câu hỏi đặt ra phải có tính mục đích hệ thống, để dẫn dắt được học sinh vào vấn đề.
- Câu hỏi phải vắn tắt, đơn giản, rõ ràng, phù hợp với trình độ HS.
- Câu hỏi phải kích thích được sự tư duy của học sinh.
- Phải có câu hỏi mang tính phân loại, để kiểm tra khả năng lĩnh hội vấn đề của HS.
- Có nhiều cơ sở để phân loại đàm thoại (dựa vào mục đích dạy học, dựa vào tính chất nhận thức của học sinh) nhưng có thể chia đàm thoại thành 2 loại chính
II. CÁC HOẠT ĐỘNG TỔ CHỨC DẠY HỌC
b) Cách thức:
Đàm thoại tái hiện:
GV đặt ra những câu hỏi chỉ yêu cầu HS nhớ lại kiến thức đã biết và trả lời dựa vào trí nhớ, không cần suy luận.
Đó là hình thức được dùng khi cần đặt mối liên hệ giữa kiến thức đã học với kiến thức sắp học hoặc khi cần củng cố kiến thức vừa mới học.
Đàm thoại gợi mở:
Có 2 dạng:
- Đàm thoại gợi mở Algorit: Câu hỏi đặtt theo một trình tự cho loạt bài tương tự, HS suy nghĩ để tìm kết quả.
- Đàm thoại gợi mở nêu vấn đề: Câu hỏi nêu vấn đề chứa đựng điều đã biết và cái chưa biết, HS phải tư duy và phải có sự gợi ý dẫn dắt của GV khi cần thiết thì tìm được kết quả.
2. Hoạt động đàm thoại
II. CÁC HOẠT ĐỘNG TỔ CHỨC DẠY HỌC
2. Hoạt động đàm thoại
II. CÁC HOẠT ĐỘNG TỔ CHỨC DẠY HỌC
c) Ưu khuyết điểm:
Ưu điểm:
- Kích thích tính tích cực, độc lập sáng tạo trong học tập của HS.
- Bồi dưỡng cho HS năng lực diễn đạt những vấn đề học tập bằng lời.
- Giúp GV thu thập thông tin từ phía HS để kịp thời điều chỉnh hoạt động dạy học.
- Tạo không khí học tập sôi nổi trong giờ học.
Khuyết điểm:
Nếu người giáo viên chưa có nghệ thuật tổ chức, điều khiển phương pháp đàm thoại thì mang một số hạn chế sau:
- Dễ làm mất thời gian, ảnh hưởng tới việc thực hiện kế hoạch bài học.
- Có thể biến đàm thoại thành cuộc tranh luận giữa GV và học sinh, giữa các thành viên của lớp với nhau.
3. Hoạt động thảo luận
II. CÁC HOẠT ĐỘNG TỔ CHỨC DẠY HỌC
a) Mục đích:
- Hoạt động thảo luận là hình thức tổ chức cho học sinh học tập, thảo luận theo từng nhóm, cùng nhau giải quyết một vấn đề giúp học sinh chiếm lĩnh kiến thức, hiểu thấu đáo vấn đề và phát triển trí tuệ .Đây là biện pháp tích cực tạo điều kiện cho học sinh phát triển kĩ năng ngôn ngữ và giao tiếp xã hội, mạnh dạn chủ động giải quyết vấn đề . Qua thảo luận nhóm, học sinh sẽ thấy rằng có nhiều câu trả lời, nhiều giải pháp, nhiều ý kiến khác nhau cho cùng một vấn đề. Từ đó, hoạt động thảo luận sẽ khuyến khích phát triển tư duy độc lập, chủ động, sáng tạo của học sinh.
- Ngoài ra, hoạt động này dựa trên nguyên tắc dân chủ và tương hỗ, do đó, tất cả học sinh từ khá, giỏi đến trung bình, yếu, kém đều có thể tham gia hoạt động học tập.
3. Hoạt động thảo luận
II. CÁC HOẠT ĐỘNG TỔ CHỨC DẠY HỌC
b) Cách thức tổ chức thảo luận:
Lựa chọn đề tài:
Việc lựa chọn đề tài rất quan trọng. Đề tài quá khó hoặc quá dễ đối với học sinh đều ảnh hưởng đến hoạt động thảo luận. Lựa chọn vấn đề thảo luận phải hấp dẫn, có tính chất kích thích tính tích cực chủ động làm việc của học sinh. Đề tài thảo luận phải là vấn đề chính của bài học, vấn đề có thể có nhiều hướng khai thác khác nhau, nhiều cấp độ nhận thức khác nhau, trong đó đặc biệt chú ý:
1) Phải đặt ra nhiệm vụ cụ thể của từng nhóm bằng một câu hỏi. Câu hỏi phải rõ ràng, không mập mờ, đánh đố và phải duy nhất một cách hiểu.
2) Phải có hướng dẫn cụ thể về yêu cầu và định hướng cách thức làm việc.
3) Những vấn đề không nên cho thảo luận: tóm tắt tác giả, tóm tắt tác phẩm, xác định nhân vật chính, nhân vật phụ, xác định bố cục…
4) Thời gian thảo luận phải tương ứng với nội dung yêu cầu của vấn đề thảo luận.
3. Hoạt động thảo luận
II. CÁC HOẠT ĐỘNG TỔ CHỨC DẠY HỌC
b) Cách thức tổ chức thảo luận:
Chia nhóm: khi chia nhóm cần chú ý
Chia đều về số lượng và năng lực làm việc giữa các nhóm với nhau. Không chia nhóm này quá nhiều, nhóm kia quá ít; nhóm này tập trung học sinh giỏi, nhóm kia phần đông là yếu kém, ý thức học tập chưa cao.
Nếu vấn đề đặt ra trong bài học không nhiều, giáo viên có thể cho hai nhóm cùng thảo luận một vấn đề. Nhưng sau đó giáo viên có thể linh hoạt cho nhóm này báo cáo, nhóm kia đặt ra câu hỏi phản biện.
Giao nhiệm vụ:
Khi tổ chức chia nhóm, cần chú ý giao nhiệm vụ cụ thể cho mỗi nhóm và phải có thư kí để tổng hợp ý kiến của các thành viên trong nhóm. Học sinh được giao nhiệm vụ có khả năng tổng hợp và trình bày vấn đề trước tập thể. Đây là kỹ năng quan trọng cần được rèn luyện thường xuyên. Vì thế, giáo viên cũng nên tạo cơ hội cho tất cả được thử sức, không nên quá tập trung vào một em duy nhất
3. Hoạt động thảo luận
II. CÁC HOẠT ĐỘNG TỔ CHỨC DẠY HỌC
b) Cách thức tổ chức thảo luận:
Giám sát hoạt động của từng nhóm:
Thường với một nhóm đông thành viên, rất dễ dẫn đến nhiều em không tập trung, làm việc riêng. Hoặc trong quá trình thảo luận, có khi do lúng túng không hiểu rõ yêu cầu của đề. Vì thế, giáo viên phải giám sát thường xuyên, kịp thời uốn nắn.
Trình bày kết quả thảo luận:
Khi kết thúc quá trình thảo luận, mỗi nhóm cử đại diện trình bày kết quả thảo luận của nhóm. Thường, công việc này do thư kí nhóm trình bày. Tùy vào điều kiện, giáo viên có thể cho các nhóm tham gia phản biện. Khi ấy, giáo viên chính là trọng tài có nhiệm vụ dẫn dắt, định hướng vào đề tài, tránh lệch hướng.
3. Hoạt động thảo luận
II. CÁC HOẠT ĐỘNG TỔ CHỨC DẠY HỌC
b) Cách thức tổ chức thảo luận:
Tổng kết đánh giá:
Vấn đề cốt lõi của khâu này là phải tìm ra được vấn đề - có thể xem như chân lý mà mỗi nhóm đã đạt được. Ngoài ra cũng cần đánh giá khả năng làm việc của nhóm: Các nhóm làm việc có khoa học hay không. Giáo viên nên nhận xét cụ thể, khách quan và tốt nhất nên cho điểm để khích lệ tinh thần học tập của các em.
Kỹ thuật phối hợp trong hoạt động thảo luận nhóm:
Việc tổ chức thảo luận nhóm có thành công hay không, phần lớn tùy thuộc rất nhiều vào kỹ thuật tổ chức. Ta có thể vận dụng kết hợp những kỹ thuật dạy học sau:
3. Hoạt động thảo luận
II. CÁC HOẠT ĐỘNG TỔ CHỨC DẠY HỌC
b) Cách thức tổ chức thảo luận:
Kỹ thuật đặt câu hỏi
Câu hỏi ở đây chính là yêu cầu hay vấn đề đặt ra cho từng nhóm. Câu hỏi phải kích thích sự hứng thú của học sinh, phải vừa tầm khả năng làm việc của nhóm. Vì thế giáo viên nên lựa chọn câu hỏi phải đạt cấp độ vừa mang tính phát hiện vừa có sự tư duy sâu.
Ví dụ: Khi dạy “Hai đứa trẻ” (Thạch Lam) chương trình Ngữ văn 11, giáo viên có thể đặt câu hỏi cho từng nhóm như sau:
Nhóm1: Tìm những chi tiết miêu tả hình ảnh bóng tối. Cách miêu tả như thế nhấn mạnh điều gì? (đoạn cuối tr 97, đoạn cuối tr 98).
Nhóm 2: Tìm những chi tiết miêu tả hình ảnh ánh sáng. Cách miêu tả như thế nhấn mạnh điều gì? (đoạn cuối tr 97, đoạn cuối tr 98).
Nhóm 3- Nhóm 4: Trong đêm tối, con người xuất hiện như thế nào? Cách miêu tả như thế có ý nghĩa gì? ( đoạn 3 tr 98, đoạn 1-2-3 tr 99)
3. Hoạt động thảo luận
II. CÁC HOẠT ĐỘNG TỔ CHỨC DẠY HỌC
b) Cách thức tổ chức thảo luận:
Kỹ thuật “Khăn phủ bàn”
- Mỗi nhóm sẽ có một tờ giấy A0 đặt trên bàn, như là một chiếc khăn trải bàn. Chia tờ giấy ra thành nhiều phần xung quanh tờ giấy .Tùy thuộc vào số lượng của nhóm sẽ có số lượng khung tương ứng. Các thành viên sẽ ghi ý kiến tìm được của mình vào trong khung đó. Phần chính giữa là ý chung, được thống nhất của cả nhóm. Phần này do thư kí nhóm ghi lại.
- Sử dụng kỹ thuật này giáo viên sẽ dễ dàng đánh giá từng thành viên một. Đánh giá khả năng làm việc của nhóm, đặc biệt là về mặt hình thức.
Kỹ thuật dùng phiếu học tập
Phiếu học tập là những tờ giấy rời có nội dung hướng dẫn, yêu cầu học sinh làm việc trong một thời gian ngắn tại lớp học hoặc được làm ở nhà trước mỗi bài học.Sử dụng kỹ thuật dùng phiếu học tập trong thảo luận nhóm là biện pháp đem lại hiệu quả tích cực nhất.
Ví dụ: Khi dạy bài Phong cách ngôn ngữ sinh hoạt- Ngữ văn 10 có thể thiết kế phiếu học tập như sau:
3. Hoạt động thảo luận
II. CÁC HOẠT ĐỘNG TỔ CHỨC DẠY HỌC
c) Ưu khuyết điểm:
Ưu điểm
- Tạo được không khí vui tươi, sinh động cho giờ dạy.
- Có thể phát triển năng lực toàn diện cho học sinh từ tâm lí, tính cách cho đến kỹ năng và hành vi giao tiếp…
- Học sinh hợp tác làm việc tập thể nên có thể bổ sung cho nhau .
Khuyết điểm
- Giáo viên thường bị động về thời gian.
- Đa phần học sinh ít chuẩn bị trước ở nhà. Trong nhóm thường chỉ tập trung ở một số đối tượng tích cực, có năng lực, một số học sinh lười biếng hay ỷ lại vào người khác nên ít mang lại hiệu quả như mong muốn.
4. Hoạt động chia nhóm
a) Mục đích:
- Thực hiện yêu cầu gv đưa ra trên tinh thần tập thể,cùng giải quyết một vấn đề.
- Tạo không khí sôi nổi, hào hứng khi tham gia các hoat động trong giờ dạy học văn
II. CÁC HOẠT ĐỘNG TỔ CHỨC DẠY HỌC
II. CÁC HOẠT ĐỘNG TỔ CHỨC DẠY HỌC
4. Hoạt động chia nhóm
b)Hoạt động chia nhóm:
Bước 1 : đưa ra yêu cầu: nội dung, thời gian ,mục tiêu cần đạt
Bước 2: chia nhóm
- Có các cách chia nhóm sau:
+ Hs tự chọn nhóm
+ Chia nhóm một cách ngẫu nhiên
+Gv tự chọn nhóm
Bước 3:tiến hành làm việc theo nhóm
Bước 4: nhóm trình bày kết quả làm việc
Bước 5:các nhóm khác bổ sung, nhận xét,đưa ra ý kiến
Bước 6:gv nhận xét, tổng kết, đánh giá
Bước 1: gv đưa ra vấn đề
Trong truyện ngắn “Vợ nhặt” việc nhân vật Tràng “nhặt” được vợ đã khiến cho những ai ngạc nhiên? Sự ngạc nhiên của các nhân vật đó có ý nghĩa như thế nào về nội dung và nghệ thuật?
Bước 2: chia lớp thành 4 nhóm (mỗi nhóm khoảng 8 hs ),làm việc trong 5-7 phút
Bước 3:các nhóm tiến hành làm việc dựa trên gợi ý của gv
Bước 4: đại diện các nhóm trình bày kết quả làm việc của nhóm
Bước 5: các nhóm nhận xét, bổ sung, đóng góp ý kiến
Bước 6:gv nhận xét, tổng kết, đánh giá
Việc nhân vật Tràng “nhặt” được vợ đã khiến cho nhiều người ngạc nhiên :đầu tiên là dân xóm ngụ cư, sau đó là bà cụ Tứ, và ngay cả bản thân Tràng cũng rất ngạc nhiên.
Ví dụ
Về nội dung:
+ Gián tiếp tố cáo tội ác của bọn thực dân, phát xít đã gây nên nạn đói khủng khiếp.
+ Thể hiện thân phận bị rẻ rúng và tình trạng sống thê thảm của con người.
Về nghệ thuật :
+ Góp phần tạo dựng nên một tình huống truyện độc đáo,
+ Tạo sự hấp dẫn trong việc dẫn dắt mạch truyện;thể hiện tình cảm , tâm trạng của các nhân vật
+ Thể hiện tinh thần nhân đạo, tính nhân văn sâu sắc
Ý nghĩa về nội dung và nghệ thuật
II. CÁC HOẠT ĐỘNG TỔ CHỨC DẠY HỌC
4. Hoạt động chia nhóm
c) Ưu điểm, nhược điểm của hoạt động chia nhóm:
* Ưu điểm:
+ Bày tỏ ý kiến, quan điểm trước bạn bè
+ Rèn luyện sự tự tin trước đám đông
+ Phát triển kĩ năng phân tích, lập luận và lối tư duy mang tính phê phán, phản đối cao để từ đó đưa ra kết luận hoàn chỉnh nhất
+ Rèn luyện tinh thần tập thể,tạo sự đoàn kết, gắn bó; khả năng gắn kết làm việc theo nhóm.
* Nhược điểm:
+ Một số cá nhân không làm việc
+ Bất đồng quan điểm giữa các thành viên, gây tranh luận
II. CÁC HOẠT ĐỘNG TỔ CHỨC DẠY HỌC
4. Hoạt động chia nhóm
d) Vai trò của gv
- Chủ đạo: hướng dẫn, theo dõi, nhận xét, tổng kết,đưa ra kết luận ,đánh giá kết quả làm việc của từng nhóm một cách khách quan, công bằng nhất.
II. CÁC HOẠT ĐỘNG TỔ CHỨC DẠY HỌC
5. Dạy học cá thể
a. Mục đích
Dạy học cá thể nhằm phát triển năng lực riêng của mỗi học sinh, giúp
các em tự hoàn thành kiến thức của mỗi đơn vị bài học và nắm chắc phần kiến thức mình vừa tiếp thu.Đồng thời giúp cho mỗi em có thói quen tự học,tự làm việc một cách độc lập mà không phải phụ thuộc vào thầy như tư tưởng “không thầy đố mầy làm nên”hay học thầy không tày học bạn” nên bị lệ thuộc không độc lập trong tư duy ,thiếu chính kiến trong khi làm bài.
II. CÁC HOẠT ĐỘNG TỔ CHỨC DẠY HỌC
5. Dạy học cá thể
b. Phương thức thực hiện
- Sau mỗi giờ học để kiểm tra xem mức độ tiếp thu bài của học sinh giáo viên có thể sử dụng phiếu bài tập sau mỗi tiết học.Việc làm này không chỉ giúp học sinh cũng cố lại kiến thức sau mỗi tiết học mà còn giúp giáo viên nắm được mức độ tiếp thu của mỗi học trò từ đó điều tiết giờ học cho phù hợp với đối tượng mình giảng dạy.
Ví dụ: Sau khi học xong bài :“Tây Tiến” của Quang Dũng, giáo viên có thể cho học sinh viết một đoạn văn ngắn nêu cảm nhận của mình về chân dung người lính Tây Tiến.
Hay giáo viên có thể ra dạng bài tập trắc nghiệm đúng sai hoặc chọn đáp án đúng trong 3 đáp án (a,b,c) để kiểm tra nhanh trong 5 phút.Với dạng bài tập này giáo viên cần chuẩn bị câu hỏi có phân loại đối tượng học sinh :giỏi, khá, trung bình để có hệ thống câu hỏi phù hợp.
II. CÁC HOẠT ĐỘNG TỔ CHỨC DẠY HỌC
5. Dạy học cá thể
b. Phương thức thực hiện
- Ngoài việc chuẩn bị phiếu bài tập cụ thể, đầu tư nhiều thời gian giáo viên cũng có thể cho học sinh làm việc cá thể bằng việc làm bài tập trong Sách Giáo khoa một cách linh hoạt ,khoa học.
Ví dụ:(bài tập 2/SGK Ngữ văn lớp 12 trang 34 tập 1)
Đoạn văn sau của Chế Lan Viên đã bị lược bỏ các dấu câu.Hãy đặt các dấu câu cần thiết vào vị trí thích hợp để đảm bảo sự trong sáng của đoạn văn.
Tôi có lấy ví dụ về một dòng sông dòng sông vừa trôi chảy vừa phải tiếp nhận dọc đường đi của mình những dòng nước khác dòng ngôn ngữ cũng vậy một mặt nó phải giữ bản sắc cố hữu của dân tộc nhưng nó không được phép gạt bỏ từ chối những gì mà thời đại đem lại.
Với đề trên học sinh có thể dùng bút chì làm nhanh vào Sách Giáo khoa, sau đó giáo viên chỉnh sửa nhằm giúp cho các em kiểm tra được kiến thức của chính mình, vừa tiết kiệm được thời gian.
II. CÁC HOẠT ĐỘNG TỔ CHỨC DẠY HỌC
5. Dạy học cá thể
b. Phương thức thực hiện
-Ngoài việc vận dụng phương pháp giáo dục cá thể sau mỗi giờ học ta có thể vận dụng phương pháp này ở khâu cho học sinh chuẩn bị bài trước ở nhà.Cụ thể giáo viên có thể cho học sinh sưu tầm tranh ảnh, tư liệu có liên quan đến đơn vị bài học của ngày hôm sau hoặc học sinh cũng có thể khảo sát nơi mình ở để có kiến thức thực tế khi học những bài liên quan đến chương trình địa phương.Việc làm này giúp cho các em chủ động tìm tòi kiến thức lien quan đến đơn vị bài học, say sưa hơn với những gì tự mình khám phá.Cũng giống như việc cho các em học ngoài trời để có kiến thức thực tế về đời sống.
Ví dụ:Khi dạy Văn bản “Việt Bắc” của Tố Hữu giáo viên sẽ cho các em về nhà tìm những tranh ảnh,kiến thức lien quan đến quang cảnh, con người Việt Bắc để khi vào tiết học các em dễ dàng hình dung ra những hình ảnh được tác giả nhắc đến trong bài thơ.Từ đó các em dễ dàng cảm nhận được nỗi long của kẻ ở ,người về.
II. CÁC HOẠT ĐỘNG TỔ CHỨC DẠY HỌC
5. Dạy học cá thể
c.Ưu điểm,hạn chế của phương pháp :
*Ưu điểm:
Với việc vận dụng phương pháp này trong giờ học Ngữ văn ,giáo viên sẽ giúp cho các em chủ động, độc lập hơn trong suy nghĩ, dễ dàng kiểm tra vốn kiến thức của mình sau mỗi đơn vị bài học. Đồng thời người giáo viên dễ dàng nắm bắt,phân loại đối tượng học sinh một cách dễ dàng, nhanh chóng cũng như biết được mức độ tiếp thu của từng lớp, từng học sinh để điều chỉnh đúng lúc, kịp thời.
*Nhược điểm:
Tuy nhiên khi vận dụng phương pháp này đòi hỏi người giáo viên phải có sự đầu tư,chuẩn bị một hệ thống câu hỏi phân loại học sinh.Bản thân người giáo viên phải nắm rõ đặc điểm đối tượng học sinh từng lớp để mỗi lớp có một hệ thống câu hỏi riêng, không thể dùng một đề cho tất cả các lớp. Cũng không thể dùng cả lớp chung một đề những em giỏi thì thấy quá dễ không muốn làm, em còn yếu thí thấy quá khó không muốn làm.
III. KẾT LUẬN
Trên đây là những hoạt động nhằm giúp cho giáo viên chúng ta có được một giờ dạy tích cực, thầy hào hứng để dạy, trò chủ động ,tích cực chiếm lĩnh kiến thức. Nhằm giúp cho giờ dạy và học Ngữ văn diễn ra nhẹ nhàng, hiệu quả, tránh được lối sáo mòn thầy nói trò nghe,thầy đọc ,trò chép .Tuy nhiên để một giờ dạy thật hiệu quả, quả thật không đơn giản đòi hỏi người làm chủ bộc giảng phải linh động trong các hoạt động bởi không có hoạt động nào là độc tôn cả. Chưa kể còn tuỳ vào đặc điểm đối tượng và tính chất của mỗi bài học mà ta phải kết hợp những hoạt động nào để giờ dạy đạt hiệu quả như ý.Biết rằng khó khăn vẫn còn ở phía trước nhưng với lòng yêu nghề mến trẻ ,sự nhiệt quyết với nghề giáo viên chúng ta sẽ thực hiện tốt việc đổi mới phương pháp tích cực bằng việc vận dụng các hoạt đông dạy học mà nhóm 7 đã trình bày.
CÁM ƠN THẦY CÔ VÀ CÁC BẠN
ĐÃ LẮNG NGHE.
* Một số tài liệu cũ có thể bị lỗi font khi hiển thị do dùng bộ mã không phải Unikey ...
Người chia sẻ: Trần Thị Diễm My
Dung lượng: |
Lượt tài: 0
Loại file:
Nguồn : Chưa rõ
(Tài liệu chưa được thẩm định)