Thuộc địa hay Thuộc địa nửa Phong kiến
Chia sẻ bởi Trần Anh |
Ngày 26/04/2019 |
130
Chia sẻ tài liệu: Thuộc địa hay Thuộc địa nửa Phong kiến thuộc Lịch sử
Nội dung tài liệu:
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC TỰ NHIÊN
KHOA SINH HỌC
52B-BIOTECH
---(((---
Thảo luận Lịch Sử Đảng “Xã hội Việt Nam cuối thế kỷ XIX đầu XX”
Giảng viên: ThS. Lê Quỳnh Nga
Sinh viên: Trần Tuấn Anh
Vũ Mạnh Công
Nông Văn Cương
Chu Thị Hiền
Vi Đại Lâm
Nguyễn Thị Hồng Nhung
Hoàng Đình Việt
Lớp: 52b-Biotech
Hà Nội – 28/01/2010
Một số vấn đề cần làm rõ
Phong kiến
Khái niệm
Về mặt thuật ngữ, chế độ phong kiến (phong tước, kiến địa) là một từ gốc Hán-Việt: 封建, xuất phát từ hệ tư tưởng chính trị thời Tây Chu, Trung Quốc. Vào thời này, vua Chu ra chế độ đem đất đai phong cho bà con để kiến lập các nước chư hầu gọi là "phong kiến thân thích". Do chế độ này giống chế độ phong đất cho bồi thần ở Châu Âu nên người ta đã dùng chữ "phong kiến" để dịch chữ féodalité từ tiếng Pháp. Tuy vậy cả hai chữ này chỉ mới phản ánh hình thức phân phong đất đai chứ chưa phản ánh bản chất của chế độ đó. Trong các ngôn ngữ châu Âu, féodalité bắt nguồn từ chữ feod trong tiếng Latinh nghĩa là "lãnh địa cha truyền con nối".
Đặc điểm chế độ phong kiến
Giai cấp địa chủ phong kiến nắm quyền sở hữu phần lớn ruộng đất (gồm cả sở hữu tư nhân và sở hữu nhà nước) và tiến hành bóc lột địa tô (dưới nhiều hình thức: tô lao dịch, tô sản phẩm, tô tiền hay những hình thức kết hợp) đối với nông dân không có hay có ít ruộng đất (dưới những hình thức và mức độ lệ thuộc khác nhau).
Xã hội phân hoá thành những giai cấp và đẳng cấp khác nhau.
Hệ thống chính trị có thể là phân quyền cát cứ hay tập quyền theo chính thể quân chủ.
Cơ sở kinh tế chủ yếu là nông nghiệp dựa trên sản xuất nhỏ của nông dân.
Phong kiến phản ánh hình thức truyền nối và chiếm hữu đất đai của chế độ quân chủ thời xưa, trong thời quân chủ chuyên chế. Trong nhiều trường hợp, những thời kỳ quân chủ trước kia cũng được gọi là thời kỳ phong kiến. Tuy nhiên, trong thời hiện tại, thể chế về chế độ quân chủ thời nay là chế độ quân chủ lập hiến, cho nên phong kiến chỉ phản ánh một giai đoạn, một thời kỳ của chế độ quân chủ.
Phong kiến châu Á và phong kiến châu Âu
Trong từng nước và từng khu vực, chế độ phong kiến mang những đặc điểm riêng của những loại hình khác nhau. Do đó trong vài thập kỷ gần đây, các nhà sử học và các nhà nghiên cứu có những quan niệm rất khác nhau về chế độ phong kiến. Chính vì vậy, đã có những cuộc tranh luận về những đặc điểm cũng như sự tồn tại của chế độ phong kiến ở nhiều nước, nhất là ở phương Đông.
Tại phương Tây (châu Âu), đặc điểm cơ bản của chế độ phong kiến là kinh tế lãnh địa, giai cấp lãnh chúa và nông nô, hệ thống đẳng cấp dựa trên quan hệ lãnh chúa - chư hầu, tình trạng cát cứ kéo dài. Việc phân phong đất đai cũng gắn liền với phương thức bóc lột dựa trên địa tô của chủ đất: những người được phong đất sẽ trở thành những chủ đất, những vùng đất được phong sẽ trở thành lãnh địa của riêng người đó (lãnh chúa). Nông dân trồng trọt, chăn nuôi trên mảnh đất phải đóng thuế đất (địa tô) cho lãnh chúa
Tại phương Đông, kinh tế lãnh địa và quan hệ lãnh chúa - nông nô không phát triển, chế độ quân chủ tập quyền ra đời sớm và tồn tại lâu dài, bên cạnh sở hữu tư nhân còn có sở hữu nhà nước về ruộng đất, kinh tế địa chủ với quan hệ địa chủ - tá điền chiếm ưu thế. Vua chúa hiếm khi phong đất cho các quan lại mà chỉ phong chức tước, thưởng bổng lộc, nếu có phong đất thường phong trong một đời hoặc với diện tích nhỏ. Việc làm này nhằm giúp vua luôn "giữ chân" các quan lại bên mình và duy trì được sự kiểm soát đối với các quan, hạn chế sự hình thành các ông "vua con" trong lãnh địa được phân phong.
Sự khác biệt giữa phương Tây và phương Đông nhiều đến mức độ làm cho một số nhà sử học tỏ ý nghi ngờ hoặc phủ nhận sự tồn tại của chế độ phong kiến ở phương Đông.
Thuộc địa
Trong chính trị và lịch sử, thuộc địa là một vùng lãnh thổ chịu sự cai trị trực tiếp về chính trị của một quốc gia khác. Trong thời kỳ cổ đại, các thành bang thường có xu hướng tìm cho mình các thuộc địa riêng. Một số thuộc địa trong lịch sử
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC TỰ NHIÊN
KHOA SINH HỌC
52B-BIOTECH
---(((---
Thảo luận Lịch Sử Đảng “Xã hội Việt Nam cuối thế kỷ XIX đầu XX”
Giảng viên: ThS. Lê Quỳnh Nga
Sinh viên: Trần Tuấn Anh
Vũ Mạnh Công
Nông Văn Cương
Chu Thị Hiền
Vi Đại Lâm
Nguyễn Thị Hồng Nhung
Hoàng Đình Việt
Lớp: 52b-Biotech
Hà Nội – 28/01/2010
Một số vấn đề cần làm rõ
Phong kiến
Khái niệm
Về mặt thuật ngữ, chế độ phong kiến (phong tước, kiến địa) là một từ gốc Hán-Việt: 封建, xuất phát từ hệ tư tưởng chính trị thời Tây Chu, Trung Quốc. Vào thời này, vua Chu ra chế độ đem đất đai phong cho bà con để kiến lập các nước chư hầu gọi là "phong kiến thân thích". Do chế độ này giống chế độ phong đất cho bồi thần ở Châu Âu nên người ta đã dùng chữ "phong kiến" để dịch chữ féodalité từ tiếng Pháp. Tuy vậy cả hai chữ này chỉ mới phản ánh hình thức phân phong đất đai chứ chưa phản ánh bản chất của chế độ đó. Trong các ngôn ngữ châu Âu, féodalité bắt nguồn từ chữ feod trong tiếng Latinh nghĩa là "lãnh địa cha truyền con nối".
Đặc điểm chế độ phong kiến
Giai cấp địa chủ phong kiến nắm quyền sở hữu phần lớn ruộng đất (gồm cả sở hữu tư nhân và sở hữu nhà nước) và tiến hành bóc lột địa tô (dưới nhiều hình thức: tô lao dịch, tô sản phẩm, tô tiền hay những hình thức kết hợp) đối với nông dân không có hay có ít ruộng đất (dưới những hình thức và mức độ lệ thuộc khác nhau).
Xã hội phân hoá thành những giai cấp và đẳng cấp khác nhau.
Hệ thống chính trị có thể là phân quyền cát cứ hay tập quyền theo chính thể quân chủ.
Cơ sở kinh tế chủ yếu là nông nghiệp dựa trên sản xuất nhỏ của nông dân.
Phong kiến phản ánh hình thức truyền nối và chiếm hữu đất đai của chế độ quân chủ thời xưa, trong thời quân chủ chuyên chế. Trong nhiều trường hợp, những thời kỳ quân chủ trước kia cũng được gọi là thời kỳ phong kiến. Tuy nhiên, trong thời hiện tại, thể chế về chế độ quân chủ thời nay là chế độ quân chủ lập hiến, cho nên phong kiến chỉ phản ánh một giai đoạn, một thời kỳ của chế độ quân chủ.
Phong kiến châu Á và phong kiến châu Âu
Trong từng nước và từng khu vực, chế độ phong kiến mang những đặc điểm riêng của những loại hình khác nhau. Do đó trong vài thập kỷ gần đây, các nhà sử học và các nhà nghiên cứu có những quan niệm rất khác nhau về chế độ phong kiến. Chính vì vậy, đã có những cuộc tranh luận về những đặc điểm cũng như sự tồn tại của chế độ phong kiến ở nhiều nước, nhất là ở phương Đông.
Tại phương Tây (châu Âu), đặc điểm cơ bản của chế độ phong kiến là kinh tế lãnh địa, giai cấp lãnh chúa và nông nô, hệ thống đẳng cấp dựa trên quan hệ lãnh chúa - chư hầu, tình trạng cát cứ kéo dài. Việc phân phong đất đai cũng gắn liền với phương thức bóc lột dựa trên địa tô của chủ đất: những người được phong đất sẽ trở thành những chủ đất, những vùng đất được phong sẽ trở thành lãnh địa của riêng người đó (lãnh chúa). Nông dân trồng trọt, chăn nuôi trên mảnh đất phải đóng thuế đất (địa tô) cho lãnh chúa
Tại phương Đông, kinh tế lãnh địa và quan hệ lãnh chúa - nông nô không phát triển, chế độ quân chủ tập quyền ra đời sớm và tồn tại lâu dài, bên cạnh sở hữu tư nhân còn có sở hữu nhà nước về ruộng đất, kinh tế địa chủ với quan hệ địa chủ - tá điền chiếm ưu thế. Vua chúa hiếm khi phong đất cho các quan lại mà chỉ phong chức tước, thưởng bổng lộc, nếu có phong đất thường phong trong một đời hoặc với diện tích nhỏ. Việc làm này nhằm giúp vua luôn "giữ chân" các quan lại bên mình và duy trì được sự kiểm soát đối với các quan, hạn chế sự hình thành các ông "vua con" trong lãnh địa được phân phong.
Sự khác biệt giữa phương Tây và phương Đông nhiều đến mức độ làm cho một số nhà sử học tỏ ý nghi ngờ hoặc phủ nhận sự tồn tại của chế độ phong kiến ở phương Đông.
Thuộc địa
Trong chính trị và lịch sử, thuộc địa là một vùng lãnh thổ chịu sự cai trị trực tiếp về chính trị của một quốc gia khác. Trong thời kỳ cổ đại, các thành bang thường có xu hướng tìm cho mình các thuộc địa riêng. Một số thuộc địa trong lịch sử
* Một số tài liệu cũ có thể bị lỗi font khi hiển thị do dùng bộ mã không phải Unikey ...
Người chia sẻ: Trần Anh
Dung lượng: |
Lượt tài: 1
Loại file:
Nguồn : Chưa rõ
(Tài liệu chưa được thẩm định)