Thân mềm

Chia sẻ bởi Lưu Thanh Thư | Ngày 18/03/2024 | 10

Chia sẻ tài liệu: thân mềm thuộc Sinh học

Nội dung tài liệu:

NGÀNH THÂN MỀM
Lớp Sinh Liên Thông K2
MOLUSCA
II. Sơ bộ phân loại.
I. Đặc điểm chung.
CÁC NỘI DUNG CHÍNH
2.1 Phân ngành song kinh.
2.2 Phân ngành vỏ liền.
III. Vai trò của động vật thân mềm.
I. ĐẶC ĐIỂM CHUNG:
- Cơ thể được chia thành 3 phần là đầu, thân và chân, mức độ phát triển của các phần tuỳ thuộc vào từng nhóm khác nhau trong đó phần đầu xác định. Hầu hết động vật thân mềm có đối xứng 2 bên, riêng nhóm chân bụng (ốc) có hiện tượng mất đối xứng
- Chân được hình thành ở mặt bụng, có một số chức phận nhưng quan trọng nhất là vận chuyển.
- Có một cơ quan đặc trưng nằm ở mặt lưng là áo, có xoang áo bao lấy mang hay phổi, ngoài áo là vỏ.
- Xoang cơ thể còn lại là xoang bao tim và một số phần khác như xoang thận.

Xoang áo
chân
Đầu
Vỏ
Radula
Miệng
Ruột
Xoang áo
Mang
Dạ dày
Hậu môn
- Hệ tiêu hoá cấu tạo hoàn chình, ở miệng có các lưỡi bào (radula) còn hậu môn thường đổ vào xoang áo.
- Hệ tuần hoàn hở (trừ Chân đầu là tuần hoàn gan kín), tim thường có 3 buồng. hệ mạch gồm các động mạch, tĩnh mạch, mao mạch và có sắc tố hô hấp trong máu.
Tim
Tuyến tiêu hoá
- Bài tiết là hậu đơn thận, có 1 hay 2 thận, có ống dẫn và lỗ bài tiết đổ vào xoang áo.

Thần kinh

Thận
Tuyến tiêu hoá
Tuyến SD
- Hô hấp bằng mang, phổi nằm trong xoang áo, một số hô hấp qua bề mặt cơ thể.
Mang
Xoang áo
- Thần kinh có các đôi hạch não, hạch bên, hạch chân và hạch nội tạng… Ở Chân bụng và Chân đầu các hạch nối với nhau tạo thành vòng thần kinh.

- Cơ quan cảm giác khá phát triển gồm xúc giác, khứu, vị giác và thị giác (phát triển nhất ở Chân đầu).

Sinh sản và phát triển
- Sinh sản hữu tính, trứng giàu noãn hoàng, phân cắt xoắn ốc, ấu trùng là trochophora, một số nhóm là veliger, một số khác phát triển trực tiếp.


III. SƠ BỘ PHÂN LOẠI:
Phân ngành song kinh có 2 lớp là lớp song kinh có vỏ và lớp song kinh không vỏ.
Phân ngành vỏ liền với lớp 1 tấm, lớp chân bụng, lớp chân rìu, lớp chân đầu.
Ngành thân mềm phân loại chủ yếu dựa vào sơ đồ cấu tạo cơ thể, sự thích ứng với các lối sống khác nhau và chia làm 2 phân ngành.
Phân ngành song kinh
1.1 Lớp song kinh có vỏ
- Cơ thể thường dẹp theo hướng lưng bụng, ở vị trí bám bình thường thì đầu, chân và xoang áo ẩn phía dưới, còn mặt lưng có 8 tấm vỏ xếp theo kiểu mái ngói. Tấm vỏ có thể lộ ra rõ ràng hay ẩn một phần (hoặc toàn bộ) dưới lớp biểu mô. Chân dạng tấm, mặt bám rộng nên bám rất chắc vào giá thể. Song kinh có vỏ bò chậm chạp, nếu ở nơi nhiều thức ăn thì chúng ít di chuyển
- Phía trước của chân là phần đầu, có lỗ miệng ở giữa. Hai bên chân là xoang áo, bên trong có nhiều đôi mang, số lượng các đôi mang thay đổi tuỳ loài (từ 11 - 26 đôi). Nước chảy vào xoang áo nhờ cử động của các tế bào có tiêm mao nằm trên đôi mang.
- Thức ăn của song kinh có vỏ là các rong rêu, tảo bám trên đá.Thức ăn được lấy vào nhờ hoạt động của radula.
- Hệ tuần hoàn của song kinh là hệ tuần hoàn hở, gồm có tim nằm trong xoang bao tim ở phía cuối cơ thể. Tim gồm có 1 tâm thất nằm giữa và 2 tâm nhĩ nằm hai bên.
- Hệ bài tiết gồm có 1 đôi thận phân nhánh phức tạp, lỗ thận đổ ra ngoài ra 2 bên cơ thể, phễu thận mở vào xoang bao tim.
- Hệ thần kinh và giác quan của song kinh có mức độ phát triển thấp. Hệ thần kinh có cấu tạo nguyên thủy dạng bậc thang kép. Tế bào thần kinh rất ít khi tập trung thành hạch.Giác quan có cơ quan thị giác và xúc giác riêng gọi là estet.
- Hệ tiêu hóa:Có cấu tạo đầy đủ gồm tuyến tiêu hoá và ống tiêu hoá, enzym tiêu hóa được tiết vào dạ dày. Ruột giữa dài thích nghi với thành phần thức ăn có nguồn gốc là thực vật. Song kinh có thể tiêu hoá nội bào nhờ các tế bào thực bào di chuyển thường xuyên trong ruột và ngoài thành ruột. Tuy nhiên tiêu hoá ngoại bào là chủ yếu.
Radula
Dạ dày
Ruột
Hậu môn
Miệng
Tuyến tiêu hoá
Phần lớn vỏ nhiều tấm đơn tính. có tuyến sinh dục kép tập trung thành một thùy chung nằm ở giữa.
Thụ tinh trong khoang áo giữa sản phẩm sinh dục của các cá thể khác nhau (dị thụ tinh).
Ở một số loài trứng bám trên mang và phát triển thành ấu trùng (giống Hemiarthrum) hay có loài trứng phát triển thành con non trong ống dẫn trứng (loài Callistrochiton viviparus).

Trứng phân cắt hoàn toàn, đều ở giai đoạn đầu. Phôi vị được hình thành bằng cách lõm, lá phôi thứ 3 được hình thành theo kiểu đoạn bào
Phát triển qua ấu trùng trochophora, không thấy hình thành các đôi túi thể xoang từ lá phôi giữa như đã gặp ở giun đốt.
Mặt bụng của ấu trùng sớm hình thành mầm chân, mặt đối diện sớm hình thành các tấm vỏ. Ấu trùng khi ấy chuyển sang đời sống bò ở đáy rồi biến đổi để cho trưởng thành.
Mầm chân
Vành lông
Mầm các tấm vỏ
Ấu trùng trochophora
1.2 Lớp Song kinh không có vỏ
Hiện nay đã biết khoảng 300 loài, cơ thể hình giun, kích thước bé (dưới 10 mm). Phần lớn sống ở đáy biển sâu, trong bùn lầy xen lẫn với các vùng có thủy tức tập đoàn là thức ăn của chúng. Cơ thể hình giun, chân tiêu giảm, chỉ còn lại mặt bụng có một rãnh có tiêm mao với một gờ ở giữa .
Vỏ tiêu giảm chỉ còn lại các gai hay vẩy đá vôi là sản phẩm của tế bào tiết riêng lẻ. Lưỡi gai chỉ phát triển ở một số ít loài, thường đơn giản hay thiếu hẳn.
Ruột thẳng, không có dạ dày và các tuyến tiêu hoá. Chỉ có một đôi mang cuối cơ thể, đôi khi biến mất.
Hệ thần kinh cấu tạo theo sơ đồ chung của song kinh có cỏ.
Lưỡng tính, tuyến sinh dục đổ vào xoang bao tim, sản phẩm sinh dục sau đó được chuyển theo hệ bài tiết rồi đổ vào huyệt.
Một số song kinh không có vỏ phát triển qua biến thái.
2. Phân ngành Vỏ liền
Đặc trưng của nhóm động vật này là cơ thể được bọc trong một vỏ kín. Phần thân nhô cao lên (được gọi là khối hay bao nội tạng). Khác với động vật song kinh, động vật vỏ liền có hệ thần kinh cấu tạo kiểu hạch phân tán, giác quan tương đối phát triển.
Đại diện :Vỏ một tấm, Chân bụng, Chân rìu,Chân đầu.
2.1 Lớp vỏ một tấm.
Là thân mềm cổ đa số đã hóa thạch, chỉ có 19 loài đang sống ở đáy biển sâu trên 2000 m
Cơ thể đối xứng 2 bên. Con trưởng thành có vỏ hình chóp nón, mặt trong của vỏ có vết bám của cơ sắp xếp theo kiểu phân đốt. Vỏ hình chóp nón, toàn bộ thân nằm dưới vỏ, chân hình đĩa, đầu ở phía trước chân và không phân biệt rõ ràng với phần thân, hai bên chân là rãnh áo có từ 3 - 6 đôi mang lá đối nhau. Tận cùng có nhú hậu môn. Cạnh lỗ miệng có 2 tua miệng hình thùy, giữa tua miệng và bờ trước của chân có cơ quan chia nhánh làm nhiệm vụ cảm giác

-Hệ tiêu hoá có hầu, thực quản, dạ dày, ruột giữa và ruột sau. Có tuyến gan đổ vào dạ dày, lưỡi gai có răng sừng khoẻ.
- Hệ tuần hoàn có một đôi tim bên và mạch máu. Thể xoang rộng.
- Hệ bài tiết có 6 - 7 đôi thận, một đầu thông với thể xoang, đầu kia đổ ra ngoài vùng xoang áo, cạnh mang.
- Hệ thần kinh có cấu tạo điển hình của song kinh, có 1 đôi cơ quan cảm giác thăng bằng là bình nang.
- Thể xoang, ngoài phần bao tim và xoang sinh dục còn có túi thể xoang lưng nằm ngay dưới vỏ.
- Đơn tính, thụ tinh ngoài. Sản phẩm sinh dục được chuyển ra ngoài qua thận.
2.2 Lớp Chân bụng.
2.2.1 Cấu tạo.
- Đặc điểm nổi bật nhất của động vật chân bụng là cơ thể mất đối xứng và được chia thành 3 phần là phần đầu, phần thân và phần chân. Đầu ở phía trước, có mắt và các tua cảm giác (râu). Thân nằm trên chân, là một túi xoắn,bờ thân kéo dài thành vạt áo,vạt áo tiết ra vỏ bảo vệ thân.Chân là khối cơ khoẻ nằm ở mặt bụng, cử động uốn sóng khi bò.
- Toàn bộ cơ thể được bao trong một vỏ xoắn, thường xoắn hình chóp hay xoắn trên một mặt phẳng, có thể có thêm nắp vỏ.Do cơ thể vặn xoắn nên vị trí nội quan khác so với thân mềm khác. Mức độ phát triển vỏ rất khác nhau.
- Nội quan của động vật thân mềm được lớp áo bao phủ, nằm trong vỏ.
- Hệ tiêu hoá: Phần lớn chân bụng ăn thực vật, một số ăn thịt, một số khác lọc thức ăn trong nước hay sống ký sinh. Đặc điểm đáng chú ý là răng có nhiều lưỡi gai.Các tuyến tiêu hóa như gan, tụy , nước bọt phát triển.Hệ tiêu hoá của một số chân bụng ký sinh tiêu giảm.
- Hệ tuần hoàn: Động vật chân bụng có hệ tuần hoàn hở, cấu tạo các bộ phận phức tạp hơn giun đốt. Máu không có màu.Tim có 1 tâm thất với 1 hay 2 tâm nhĩ, màu nâu nhạt nằm trong bao tim trong suốt.
- Hệ hô hấp của chân bụng là mang lá đối hay phổi. Mang đặc trưng cho chân bụng sống dưới nước. Một số chân bụng sống trên cạn thì cơ quan hô hấp là phổi (một số loài sống ở nước vẫn có phổi). Phổi là thành trong của áo có nhiều mạch máu tạo thành.Một số loài chân bụng ở nước vừa có cả mang vừa có cả phổi (ốc nhồi) nhờ thế chúng có thể sống được lâu hơn trên cạn. Ngoài ra nhiều loài chân bụng có cơ quan hô hấp thay đổi, đó là các phần phụ thứ sinh mọc ra trên bề mặt cơ thể.
- Hệ bài tiết: Do cơ thể chân bụng mất đối xứng nên chỉ có một số nhóm còn có 2 thận (ở ốc hai tâm nhĩ), còn phần lớn chỉ còn 1 thận, thận phải tiêu biến. Thận thường có hình chữ U, một đầu thông với xoang bao tim qua lỗ thận tim, còn đầu kia đổ vào xoang áo. Sản phẩm bài tiết của chân bụng ở nước là các hợp chất amôniac hay amin, còn của chân bụng trên cạn là axit uric.
- Hệ thần kinh và giác quan: Ở mức độ cấu trúc hạch thần kinh phân tán, do sự tập trung các tế bào thần kinh và dây thần kinh theo kiểu đối xứng 2 bên của song kinh và vỏ một tấm. Cấu tạo gồm có 5 đôi hạch lớn là 1- não nằm phía trên hầu điều khiển các hoạt động của giác quan phần đầu, thành hầu và bình nang, 2 - hạch chân điều khiển chân, 3 - hạch áo điều khiển cơ quan áo, 4 - hạch mang điều khiển mang và osphradium và 5 - hạch nội quan điều khiển khối nội quan. Một số chân bụng khác còn có thêm các hạch phụ như hạch miệng, hạch osphradi. Tuy vậy một số chân bụng còn có dấu vết của hạch thần kinh kép hay tập trung cao độ các hạch quanh vùng hầu. Do hiện tượng xoắn vặn cơ thể nên hệ thần kinh bị bắt chéo, rất đặc trưng cho chân bụng.
Cơ quan cảm giác của chân bụng khá đa dạng, gồm có xúc giác (tua miệng và bờ vạt áo), cơ quan cảm giác hoá học và đôi râu thứ 2, bình nang, mắt (ở gốc hay ở đỉnh của đôi tua đầu thứ 2). Mắt có thể cấu tạo đơn giản như mắt của ốc nón hay phức tạp như mắt của một số chân bụng ăn thịt.
- Hệ sinh dục: Phần lớn chân bụng đơn tính, tuyến sinh dục nằm ở khối nội tạng ở cận gan.
- Mức độ phát triển của ống dẫn sinh dục thay đổi tuỳ nhóm nhưng phụ thuộc vào sự có mặt của thận phải.
- Một số chân bụng không có cơ quan giao phối, thụ tinh ngoài.

Ở một số chân bụng đơn tính khác ống dẫn sinh dục có cấu tạo phức tạp và có nguồn gốc khác nhau. Chia làm 3 phần:
+ Phần ống dẫn sinh dục chính thức có nguồn gốc từ tuyến sinh dục.
+ phần tiếp theo được hình thành từ thận phải.
+ phần cuối cùng có nguồn gốc từ vạt áo do rãnh tiêm mao trên vạt áo cuốn lại mà thành. Phần này có thể phân hoá thành các tuyến albumin, tuyến vỏ, túi nhận tinh hay bầu giao phối ở con cái, gai giao phối và tuyến tiền liệt ở con đực. Đối với các loài chân bụng này có quá trình thụ tinh trong.
Chân bụng đơn tính hoặc lưỡng tính. Trừ 1 vài nhóm cổ ( 2 tâm nhĩ) phần lớn chân bụng thụ tinh trong.
Phần lớn chân bụng đẻ trứng thành đám, chìm trong khối chất nhầy bám vào cây thủy sinh (như ốc đá, ốc Limnaea, Busycon, Aplysia v.v...), một số đẻ trứng từng đám bám vào hốc đất, bùn (ốc nhồi, ốc sên...).
2.2.2. Sinh sản và phát triển
Trứng phân cắt xoắn ốc, xác định, hoàn toàn và không đều. Ở nhóm Mang trước hai tâm nhĩ, trứng nở thành ấu trùng trochophora, còn các động vật chân bụng còn lại thì giai đoạn ấu trùng trochophora chỉ xảy ra trong trứng và trứng nở ra ấu trùng veliger bơi lội tự do.
Cấu tạo ấu trùng veliger như sau: Có cơ quan bơi là 2 màng bơi hình bán nguyệt với tiêm mao dài, được hình thành từ vành tiêm mao trước miệng của ấu trùng trochophora. Do các phần sinh trưởng không đều nên ấu trùng veliger lần lượt hình thành chân, mắt, xúc tu, vỏ xoắn, miệng, hầu...
Ấu trùng veliger
Đáng chú ý là ấu trùng veliger có qua một giai đoạn xoắn vỏ và quay khối nội tạng một góc 1800 (so tương đối với phần đầu). Quá trình xoắn xảy ra rất nhanh (3 phút như ở các loài thuộc giống Acmaea) hay khá lâu như ở giống Pomatias (10 ngày).


 Một số khác như Littorina và Mang trước thuộc họ Viviparidae đẻ con.

Hiện tượng quay 1800 ở ấu trùng veliger trong phát triển của ốc nón Patella
2.2.3 Phân loại.
Hiện nay đã biết khoảng 75.000 loài đang sống và 15.000 loài đã hoá thạch. Phần lớn động vật chân bụng sống ở biển, một số sống ở nước ngọt, ở cạn hay chuyển sang đời sống ký sinh. Được chia làm 3 phân lớp là Mang trước, Mang sau và Có phổi.
- Phân lớp Mang trước : Mang ở trước tim, thường có 1 mang, ít khi gặp
2 mang. Xoang áo ở phía trước cơ thể, có dây thần kinh bên tạng bắt chéo. Vỏ phát triển và có nắp vỏ. Đơn tính, phần lớn sống ở biển, một số ít sống ở nước ngọt. Có 3 bộ.
Chân bụng nguyên thủy nhất, đặc điểm cấu tạo cơ thể còn giữ nhiều nét đối xứng hai bên như có 2 tâm nhĩ, phức hợp cơ quan áo chẵn. Tuyến sinh dục đổ vào thận phải. Thụ tinh ngoài, phát triển qua ấu trùng trochophora.
Ấu trùng trochophora
1. BỘ Chân bụng cổ:
Một số loài
2. BỘ Chân bụng trung:

Ấu trùng veliger
Cơ thể mất đối xứng, tim chỉ có một tâm nhĩ, phức hợp cơ quan áo lẻ. Tuyến sinh dục không đổ vào thận. Thụ tinh trong, phần lớn phát triển qua ấu trùng veliger.
Một số loài
3. BỘ Chân bụng mới:
Thụ tinh trong, nhiều loài có trứng phát triển trực tiếp thành con non.
Một số loài
Phân lớp Mang sau:
Cấu tạo cơ thể của Chân bụng mang sau thể hiện sự vặn xoắn không hoàn toàn .Bao gồm các loài động vật Chân bụng vỏ tiêu giảm hay chỉ còn lại rất ít. Hệ thần kinh lệch. Xoang áo nằm ở phía bên phải cơ thể, đôi khi tiêu giảm hay mất hẳn. Tim chỉ có 1 tâm nhĩ. Một mang nằm ở phía sau tim. Đôi khi mang được thay thế bởi mang thứ sinh. Lưỡng tính, chỉ sống ở biển. Phân lớp Mang sau được chia làm 4 bộ:
- Bộ  Mang kín : Có xoang áo và mang chính thức, mang được áo che kín. Chân chia thành 2 thùy ở hai bên lớn. Sống bò dưới đáy.
- Bộ Chân cánh: Hai tấm bên chân phát triển thành vây bơi, thích ứng với đời sống bơi. Đại diện có giống Clione không có vỏ, không có mang, phân bố nhiều ở vùng cận cực, là thức ăn của cá voi.
- Bộ Ốc hai mảnh vỏ : Bên cạnh các đặc điểm về cấu tạo lưỡi gai, hầu tiêu biểu cho động vật chân bụng thì nhóm này còn có vỏ hai mảnh như vỏ trai .
- Bộ Mang trần: Mang chính thức (nguyên sinh) tiêu biến, thay thế là mang phụ (thứ sinh) ở mặt lưng. Các hạch thần kinh tập trung về phía đầu. Cơ thể có dạng sên, bên ngoài đối xứng, không có vỏ, không có xoang áo.
Một số loài
- Phân lớp Có phổi: Do mang tiêu biến nên được thay thế bằng phổi. Phổi là mặt trong của xoang áo, có nhiều mạch máu, có lỗ thở nhỏ ở bên phải. Cơ quan áo lẻ, thần kinh lệch, các hạch thần kinh tập trung ở phần đầu. Vỏ phát triển hay tiêu giảm, không có nắp vỏ.  Lưỡng tính, một số đẻ con. Sống ở nước ngọt hay trên cạn. Được chia thành 2 bộ.
- Bộ Mắt ở gốc : Có mắt nằm ở gốc tua đầu, tua đầu có 1 đôi, không co duỗi được. Vỏ phát triển. Phần lớn chuyển sang đời sống thứ sinh nước ngọt.   
Bộ Mắt ở đỉnh : Có 2 đôi tua đầu co duỗi được, mắt nằm ở ngọn đôi tua đầu sau. Vỏ có thể tiêu giảm. Sống chủ yếu trên cạn. Bao gồm các loài thuộc ốc sên, sên trần, sên núi.
Một số loài có giá trị sử dụng.
Một số loài
2.3. Lớp chân rìu.
2.3.1 Cấu tạo.
- Có khoảng 8000 loài đang sống và 12000 loài hóa đá. Phần lớn sông ở biển, số loài sống nước ngọt chiến 10 đến 15%.
- Vỏ có 2 mảnh và mang hình tấm.
- Cơ thể dẹp bên và đối xứng 2 bên. Phần đầu tiêu giảm. Xoang áo phát triển hơn so với các động vật Thân mềm khác. Vỏ gồm có 2 mảnh, chứa toàn bộ hay phần lớn cơ thể.
Phần đầu tiêu giảm, chân hình lưỡi rìu phía dưới thân, thò ra ngoài khi di chuyển. Chân thò ra ngoài nhờ hoạt động phối hợp của duỗi cơ chân và áp suất của dịch trong chân. Chân thụt vào nhờ hoạt động của cơ co chân. Ngoài ra nhóm Sò nứa có thể di chuyển theo kiểu “nhảy”, chân thò ra ngoài rồi lại đột ngột co vào, kéo cơ thể về phía trước.
Chân rìu sống bám như hầu, điệp có chân tiêu giảm, chúng di chuyển bằng cách đột ngột khép 2 mảnh vỏ, tạo ra 2 tia nước bắn về phía bản lề để bơi theo hướng ngược lại. Chân của loài vẹm xanh cũng tiêu giảm, phía sau chân có tuyến tơ tiết tơ bám chặt vào giá thể.

- Xoang áo là khoảng trống giữa 2 vạt áo, là nơi thực hiện trao đổi khí và vận chuyển thức ăn. Một số loài chân rìu dòng nước đưa thức ăn từ phía trước và thoát ra bên ngoài về phía sau cơ thể. Chất cặn bã bám lại trên mang, chân, vạt áo được tống ra ngoài theo từng đợt nhờ hoạt động co khép đột ngột của vỏ. Ở các chân rìu khác dòng nước đưa thức ăn vào phía sau cơ thể, sau đó di chuyển ngoằn nghoèo hình chữ U rồi cũng lại thoát ra về phía sau cơ thể. Hai bờ vạt áo của phần lớn chân rìu dính liền với nhau, chỉ để hở một số nơi hình thành ống hút nước và thoát nước, tạo chỗ thò ra ngoài cho chân và tơ bám.nhờ cơ chế này mà quá trình tiêu hóa, hô hấp, bài tiết không bị rối loạn.
- Hệ sinh dục: Phần lớn động vật chân rìu đơn tính, 1 số lưỡng tính. tuyến sinh dục chiếm 1 phần thể xoang và nằm quanh ruột. Ống sinh dục ngắn và đổ vào phần cuối của thân, một số loài khác lỗ sinh dục nằm ngay cạnh lỗ bài tiết. Một số ít loài chân rìu lưỡng tính như: một số loài hàu, điệp, Trùng trục. Tuyến sinh dục đực và cái nằm cạnh nhau quanh ruột.    
2.3.2 Sinh sản và phát triển
Phần lớn chân rìu đơn tính. Thụ tinh tiến hành trong khoang áo hay ngoài cơ thể.
Chân rìu ở biển phát triển qua ấu trùng trocgophora và ấu trùng veliger.
Ấu trùng veliger rất giống ấu trùng veliger của chân bụng nhưng không xoắn nên luôn giữ đối xứng 2 bên.
Khởi đầu tuyến vỏ tiết 1 tấm vỏ ở mặt lưng sau mới phát triển sang 2 bên thành 2 tấm vỏ như ở trưởng thành.
Ấu trùng trochophora có 4 dãy tế bào lớn bao mầm vỏ và mầm các cơ quan trưởng thành. Qua biến thái, lớp tế bào ngoài cùng tan rã đột ngột và giải phóng con non.
Trứng của chân rìu họ Sphaeriidae sống ở nước ngọt phát triển trực tiếp qua tấm mang.
Các chân rìu ở biển thu gọn lại, mất màng bơi và tiến hành trong trứng. Con non được hình thành ngay trong mang của mẹ.
Sự phát triển của các loài trong họ Trùng trục khá phức tạp. Trứng phát triển trong tấm mang, hình thành ấu trùng veliger có cấu tạo thích nghi với sống bám và được gọi là ấu trùng glochidium.
Glochidium có 2 mảnh vỏ, có gai bám và tuyến dính, tuy nhiên chân, miệng, hậu môn và ống tiêu hoá chưa phát triển. Ấu trùng theo dòng nước qua ống thoát nước rồi rơi xuống đáy hay bám vào các động vật bơi qua (cá, tôm...). Thường chúng bám vào vây, mang của cá như là một vật ký sinh và sau khoảng 10 - 30 ngày rời vật chủ rơi xuống đáy để phát triển cho ra dạng trưởng thành. Nhờ có khả năng ngoại ký sinh trên động vật khác nên ấu trùng của chân rìu này có thể sử dụng thức ăn và mở rộng khả năng phát tán vùng phân bố của loài.
2.3.3 Phân loại:
Lớp Chân rìu được chia làm 4 bộ là Mang nguyên thủy, Mang sợi, Mang tấm và Mang ngăn.
- Bộ Mang nguyên thủy : Tập trung nhiều đặc điểm nguyên thủy như Chân hình đế, hạch não và hạch bên chưa tập trung làm một, mang có cấu tạo lá đối điển hình, xoang sinh dục đổ vào thận (là ống dẫn thể xoang như ở giun đốt).
- Bộ Mang sợi : Là một nhóm lớn, gồm số lớn các loài. Cơ thể có mang hình sợi, phần gốc và ngọn có thể nối với nhau bằng cầu nối ngang. Răng bản lề của vỏ tiêu giảm hay mất hẳn, có 1 - 2 cơ khép vỏ.
- Bộ Mang tấm : Mang cấu tạo phức tạp, kiểu tấm. Vỏ có răng bản lề phát triển, có dạng mấu lồi hay bản mỏng sắc, có khi tiêu giảm, cơ khép vỏ phát triển đều
- Bộ Mang ngăn: Gồm có số ít loài các động vật Chân rìu sống ở biển sâu. Phần chính của mang tiêu giảm, khả năng trao đổi khí do thành xoang biến đổi về cấu tạo và đảm nhận, phần còn lại của mang tạo thành vách ngăn giới hạn phần hô hấp của xoang áo. Là nhóm ăn thịt. Là lớp có giá trị kinh tế cao:lấy ngọc, làm thức ăn…
Bivalvia
Acra (Sò)
Otrea vivularis
2.4 Lớp chân đầu.
2.4.1 Cấu tạo.

Có khoảng 6.000 hiện sống và 11.000 loài hoá thạch. Phần lớn chân đầu sống ở biển. Cơ thể có đối xứng hai bên. Về đặc điểm cấu tạo có nhiều biến đổi so với sơ đồ cấu trúc chung của thân mềm như chân biến đổi thành cơ quan bắt mồi và phễu thoát nước. Vỏ chuyển vào trong cơ thể hay tiêu giảm. Nhiều loài chân đầu là thức ăn ngon và phổ biến ở nhiều nước.

- Phần lớn chân đầu có kích thước cơ thể trung bình, dài từ 30 - 50cm. Tuy vậy vẫn có những loài đang sống có kích thước cực lớn dài tới 18m,xúc tu dài tới 1m, hay loài đã hoá thạch ở vào kỷ Phấn trắng có đường kính vỏ là 2m.
Mực ống Loligo
- Phần đầu thường phát triển, có mắt cấu tạo hoàn hảo.
- Chân là phần biến đổi nhiều nhất, không còn giữ được cấu tạo điển hình của động vật thân mềm. Ở ốc anh vũ, một đại diện chân đầu cổ nhất còn tồn tại, một phần chân biến đổi thành tua đầu, phần còn lại vẫn có dạng đế nhưng cuộn lại thành phễu, thông với xoang áo và môi trường ngoài. Nước phun từ xoang áo theo phễu ra ngoài giúp ốc anh vũ di chuyển theo chiều ngược lại. Ở số loài khác có 8 tua và 2 tay (mực nang, mực ống) hay chỉ có 8 tay (mực phủ), có nhiều giác bám ở mặt trong, là cơ quan bắt mồi rất hiệu quả. Phễu của chúng là một ống kín, miệng phễu hướng vào xoang áo và đáy phễu hướng ra ngoài. Đáy phễu có khả năng đổi hướng giúp chúng đổi chiều khi di chuyển.
- Thân của động vật chân đầu kéo dài theo hướng lưng - bụng và chứa xoang áo phía dưới. Xoang áo là một túi kín, bờ trước của vạt áo ép lên phía trước mặt bụng của thân, làm thành khe áo. Trên mặt khe áo có 2 vết lõm tương ứng với 2 gờ sụn cứng. Khi gờ sụn khớp với chặt với 2 vết lõm, khe áo khép kín lại là lúc xoang chỉ thông với ngoài qua phễu. Nước từ xoang áo qua khe áo và được tống ra ngoài qua phễu.
- Vỏ của động vật chân đầu có quá trình biến đổi theo các mức độ khác nhau.
Vỏ của ốc anh vũ xoăn trong một mặt phẳng và đối xứng 2 bên, chia làm nhiều vách ngăn, tạo thành nhiều buồng. Cơ thể nằm trong buồng lớn nhất còn tất cả các buồng khác chứa đầy không khí. Giữa các vách ngăn có lỗ nhỏ, có ống vỏ thông từ buồng ngoài đến buồng thứ nhất (buồng phôi).
Chân đầu hoá thạch cũng có vỏ nhiều ngăn nhưng không xoắn. Mặt lưng của vỏ là tấm sừng mỏng, phần cuối vỏ là chóp vỏ tận cùng bằng một chủy đá vôi, buồng vỏ hẹp nên các vách gần như xếp sít vào nhau. Ở vỏ của mực ống mất cả phần bụng và phần lưng, chỉ có lại tấm sừng. Còn mất hoàn toàn không để lại dấu vết gì như ở duốc biển. Vỏ các chân đầu hoá thạch có hình chóp, hình ngà voi, xoắn trong một mặt phẳng hay xoắn hình chóp. Khi di chuyển từ ngoài vào trong có thể, vỏ chuyển chức năng từ bảo vệ cơ thể sang nâng đỡ cơ thể. Tiêu giảm vỏ có liên quan đến đời sống hoạt động của động vật chân đầu. Ngoài vỏ hay mai mực có nguồn gốc từ vỏ (từ lá phôi ngoài), động vật chân đầu còn hình thành bao sụn bảo vệ não, mắt, bình nang tương tự như sọ của động vật có xương sống. Đây là một hiện tượng hiến có ở động vật không xương sống.
- Hệ tiêu hoá: Động vật chân đầu là nhóm bắt mồi rất tích cực. Hầu của chân đầu có thành cơ khoẻ, có lưỡi bào và hai hàm hình mỏ vẹt. Hầu ở nhóm sống dưới biển sâu, ăn vụn bã hữu cơ lắng đọng thì lưỡi gai mất hẳn. Động vật chân đầu có tuyến mực ở vào phần cuối trực tràng (ngoại trừ ốc anh vũ), khi gặp nguy hiểm chúng tiết mực màu đen tạo thành vùng tối quanh cơ thể để che mắt kẻ thù. Mặt khác bản chất alcaloid của chất mực làm tê liệt các cơ quan thần kinh và cảm giác của kẻ thù.
Miệng
Mấu mỏ
Mang
Dạ dày
Xoang áo
Phễu
- Hệ tuần hoàn: Tim của động vật chân đầu có 1 tâm thất và 2 tâm nhĩ (ở nhóm Hai mang) hay 2 tâm thất và 2 tâm nhĩ (ở nhóm Bốn mang). Trước và sau tâm thất xuất phát động mạch chủ trước và động mạch chủ sau. Động mạch chủ trước chạy dọc thực quản rồi phân nhánh tới đầu và tua đầu, động mạch chủ sau đưa máu tới ruột và cơ quan sinh dục. Động mạch chia thành mạng mao quản. Máu từ động mạch vào hệ mao quản hay khe hổng vào tĩnh mạch. Máu qua tĩnh mạch đầu vào tĩnh mạch lớn rồi phân thành 2 hay 4 nhánh (tùy nhóm) đến mang. Như vậy hệ tuần hoàn của chân đầu là gần kín và là một đặc điểm sai khác quan trọng so với các động vật thân mềm khác.
.
- Hệ bài tiết: Có 1 hay 1 đôi đơn thận tùy nhóm. Đơn thận thông với một xoang bao tim, còn đầu kia đổ vào xoang ở hai bên hậu môn.
- Hệ thần kinh và giác quan có cấu tạo phức tạp để thích nghi với đời sống hoạt động bắt mồi tích cực.
+ Não bộ nằm trong bao sụn đầu, giữa 2 mắt. Não bộ do nhiều hạch tập trung lại và có sụn đầu bao bọc(đặc điểm tiến hóa của động vật chân đầu).
Nhìn mặt lưng bộ não do 2 hạch chập lại với nhau, hai bên có 2 dây thần kinh thị giác lớn nối liền với 2 thùy thị giác cũng rất lớn nằm ở đáy mắt. Phía trên khối hạch này có các dây thần kinh nhỏ đi đến hành miệng, bình nang...
Nhìn mặt bụng thấy bộ não có nhiều hạch chập lại gồm một đôi hạch chân, một đôi hạch phủ tạng, chính giữa khối hạch chân có một lỗ nhỏ để động mạch chui qua. Khối hạch trên và dưới nối với nhau qua cầu nối não - chân và não - phủ tạng. Từ đôi hạch chân có các dây thần kinh đi vào các tua bắt mồi. Từ đôi hạch phủ tạng có nhiều dây thần kinh chạy về phía sau cơ thể điểu khiển các cơ quan khác nhau. Từ não và các hạch thần kinh có các đôi dây thần kinh đi đến nội quan.
+ Mắt của ốc anh vũ có cấu tạo còn đơn giản, chỉ là một hố mắt hướng tới môi trường ngoài bằng lỗ nhỏ.
+ Mắt của chân đầu khác có cấu tạo phức tạp như mắt của động vật có xương sống.
Cơ quan cảm giác đáng chú ý nhất của động vật chân đầu là mắt và bình nang.
+ Động vật chân đầu có khả năng biến đổi màu sắc rất nhanh chóng do sự biến dạng của tế bào sắc tố nằm trong mô liên kết. Tế bào sắc tố lớn, chứa nhiều hạt sắc tố màu đen, vàng, đỏ hay xanh... Chúng phân bố song song với bề mặt cơ thể và phân chia nhiều nhánh. Khi tế bào dãn thì da mực có màu xám, còn khi tế bào co thì da có màu sáng hơn. Thông thường da của chân đầu thay đổi theo màu sắc của môi trường. Tế bào sắc tố do não và hạch thần kinh thị giác điều khiển.  

- Hệ sinh dục: Chân đầu là động vật phân tính, có biểu hiện của dị hình chủng tính. Tuy nhiên con đực và cái không sai khác nhau nhiều về hình dạng ngoài mà chỉ ở các tay. Ở một số bọn động vật chân đầu có 1 đôi ống dẫn sinh dục (ốc anh vũ, mực phủ, mực nang) nhưng hầu hết ống dẫn bên phải tiêu giảm, chỉ còn lại ống dẫn bên trái.
- Hệ hô hấp: Cơ quan hô hấp của động vật chân đầu là mang lá đối, có thể có 2 hay 4 mang tuỳ theo nhóm. Lớp mô bì của mang không có tiêm mao. Dòng nước đưa ô xy đến cho mang khi con vật di chuyển. Dòng nước vào mang qua khe áo vùng lưng, chảy xuống phía bụng rồi ra ngoài qua phễu. Khi qua hậu môn và lỗ bài tiết nằm trong phần bụng của xoang áo, dòng nước cuốn theo chất cặn bã ra ngoài. 
2.4.2 Sinh sản và phát triển:
Quá trình thụ tinh tiến hành bên trong khoang áo.
Cơ quan giao phối là 1 tua đầu biến đổi, có giác ít phát triển và có rãnh giữa.
Khi thụ tinh, cơ quan giao phối của con đực lấy 1 ít bao tinh từ túi Needham rồi chuyển vào khoang áo của con cái và gắn chặt vào lỗ sinh dục cái.
Trứng của chân đầu giàu noãn hoàng. Trứng của mực nang và của Eledone lớn, đường kính 15mm. Trứng của mực ống và mực phủ bé hơn do có ít noãn hoàng.
Trứng phân cắt hình đĩa. Khối noãn hoàng cung cấp chất dự trữ, tiêu dần trong quá trình phát triển.
Mắt hình thành từ phía sau rồi di chuyển về phía trước và xếp quanh miệng.
Phát triển trực tiếp không qua biến thái.
2.4.3 Phân loại:
Có 3 phân lớp là Ốc anh vũ,bốn mang và Hai mang:
 - Phân lớp Ốc anh vũ
Có vỏ thẳng hay xoắn ngoài cơ thể. Có nhiều xúc tu nhưng không có giác bám. Có 2 đôi mang và 2 đôi thận. Xuất hiện từ kỷ Cambri. Hiện nay đã biết khoảng 10 loài ốc anh vũ sống ven vùng biển san hô.  
 - Phân lớp bốn mang
 - Phân lớp Hai mang
Có vỏ nằm phía trong cơ thể hay mất hẳn. Số lượng xúc tu ít và có giác bám trên xúc tu (tay). Cơ thể có một đôi thận và một đôi mang. Xuất hiện từ kỷ Tam điệp tồn tại cho đến ngày nay. Chia làm 3 bộ là:
+ Bộ Belemnoidea: Đã hoá thạch, có mai bên trong cơ thể. Đại diện có giống Belemnites.
+ Bộ Mười tay : Có 8 tua đầu và 2 tay, cơ thể có cấu tạo hình thoi thích nghi với đời sống bơi lội vận chuyển nhanh trong nước, hai bên cơ thể có vây. Bộ này gồm có nhiều loài có giá trị kinh tế sống ven biển như mực nang, mực ống...
 + Bộ Tám tay : Cơ thể hình túi, có 8 tua đầu, không có vây, vỏ tiêu giảm hoàn toàn.
- là ngành có ý nghĩa kinh tế.
Một số Chân đầu
III. VAI TRÒ CỦA ĐỘNG VẬT THÂN MỀM
3.1 Vai trò của động vật thân mềm.
- ĐVTM là nguồn thực phẩm quan trọng, trong thịt của chúng có chứa hàm lượng protein và gluxit khá cao trong khi đó hàm lượng lipit lại rất thấp. Các loài phổ biến được dùng lam thực phẩm bao gồm: trai, mực, ngao, bào ngư…
- ĐVTM có khả năng lọc nước, đặc biệt là nhóm ĐVTM 2 mảnh vỏ: trai, vẹm, hầu… Khả năng lọc nước của chúng là rất lớn: 1 con vẹm loc 3 – 5 lít nước/ngày, 1 con trai sông lọc 12 lít nước/ngày.
- Một số loài ĐVTM được dùng làm thuốc chữa bệnh như: Ốc bươu (pila polita) dùng trị bệnh dạ dày, ngọc trai trị bệnh sốt, bào ngư được dùng trong sản xuất thuốc bổ, thuốc tăng lực…
- ĐVTM có vai trò là sinh vật chỉ thị cho môi trường, sự có mặt của chúng là chỉ số cho điều kiện môi trường: Vẹm được dùng để kiểm tra mức độ ô nhiễmcủa hàm lượng kim loại nặng trong môi trường biển, sử dụng loài ốc gai làm chỉ thị cho mức độ ô nhiễm chât sơn trên thành tàu thuỷ
- Vỏ của chúng được sử dụng để trang trí, làm đồ mĩ nghệ. Đặc biêt là ngọc trai, được sử dụng làm đồ trang sức…
3.2 Tác hại của một số loại thân mềm.
- Một số loài ốc ăn chồi non của thực vật gây hại đến mùa màng như: ốc sên, ốc bươu vàng…
- Một số đục khoét thường gây hại cho các công trình thuỷ, thuyền bề như: teredo, pholas, bankia… một số sống bám vào tàu thuyền, đảo ngầm làm cản trở giao thông đường biển: hà, sum…
- Đã có 1 số người bị ngộ độc sau khi ăn thịt ĐVTM. Độc tố trong thịt ĐVTMcó thể gây chết ngay sau khi ăn hoặc tồn tại và gây độc mãn tính trong thời gian dài. Các nạn nhân bị ngộ độc thường có triệu chứng nôn mửa hoặc tiêu chảy.
* Một số tài liệu cũ có thể bị lỗi font khi hiển thị do dùng bộ mã không phải Unikey ...

Người chia sẻ: Lưu Thanh Thư
Dung lượng: | Lượt tài: 1
Loại file:
Nguồn : Chưa rõ
(Tài liệu chưa được thẩm định)