Tập Huấn - Bộ GD 3
Chia sẻ bởi Hoàng Thị Xuân |
Ngày 19/03/2024 |
7
Chia sẻ tài liệu: Tập Huấn - Bộ GD 3 thuộc Tiếng anh 12
Nội dung tài liệu:
TỔ CHỨC DẠY HỌC THEO CHUẨN KIẾN THỨC KỸ NĂNG THÔNG QUA CÁC KỸ THUẬT DẠY HỌC TÍCH CỰC
12/18/2010
1
Tài liệu tập huấn GV
A. Những nguyên tắc định hướng dạy học theo chuẩn kiến thức, kỹ năng chương trình giáo dục phổ thông thông qua các kỹ thuật dạy học tích cực
B. Tổ chức dạy học theo chuẩn kiến thức kỹ năng của môn học đối với cấp THPT
C. Tổ chức dạy học theo chuẩn kiến thức kỹ năng của môn học
1. Nguyên tắc chung
- Chuẩn KT-KN là các yêu cầu cơ bản, tối thiểu về kiến thức, kĩ năng của môn học mà học sinh cần phải và có thể đạt được sau mỗi đơn vị kiến thức
- Phải xác định được mục tiêu của bài dạy, tức là xác định được chuẩn KT-KN cụ thể trong bài dạy. Hiểu được điều đó, giáo viên mới có thể chủ động xác định được chuẩn kiến thức, trả lời câu hỏi “dạy cái gì” cho phù hợp với từng trường, từng lớp, từng đối tượng học sinh.
A. Những nguyên tắc định hướng dạy học theo chuẩn kiến thức, kỹ năng chương trình giáo dục phổ thông thông qua các kỹ thuật dạy học tích cực
* Để việc sử dụng tài liệu chuẩn KT-KN có hiệu quả cần tuân thủ những nguyên tắc như sau:
- Phải căn cứ vào tài liệu Hướng dẫn thực hiện Chuẩn kiến thức, kĩ năng để xác định mục tiêu bài học, Giáo viên đối chiếu giữa tài liệu Hướng dẫn Chuẩn kiến thức kĩ năng với SGK để xác định bài, mục kiến thức nào là kiến thức cơ bản, kiến thức nào là kiến thức trọng tâm, đồng thời xác định những kĩ năng cần hình thành cho học sinh.
- Bám sát Chuẩn kiến thức, kĩ năng để thiết kế bài giảng nhằm đạt được các yêu cầu cơ bản, tối thiểu về kiến thức, kĩ năng. Không quá tải và quá lệ thuộc hoàn toàn vào SGK, không cố dạy hết toàn bộ nội dung SGK; việc khai thác sâu kiến thức trong SGK phải phù hợp với khả năng tiếp thu của học sinh.
- Dựa trên cơ sở yêu cầu về kiến thức, kĩ năng trong hướng dẫn thực hiện chuẩn kiến thức kĩ năng giáo viên vận dụng sáng tạo, linh hoạt các phương pháp, kĩ thuật dạy học nhằm phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo, tự giác học tập của học sinh. Cần chú trọng rèn luyện phương pháp tư duy, năng lực tự học, tự nghiên cứu, tạo niền vui, hứng khởi nhu cầu hành động và thái độ tự tin trong học tập cho học sinh.
- Trong tổ chức các hoạt động học tập trên lớp giáo viên cần linh hoạt hơn, tổ chức các hoạt động học tập phù hợp với đối tượng học sinh của mình. Tùy theo trình độ nhận thức của HS, điều kiện dạy học khác nhau để dạy học linh hoạt, hoặc bám sát chuẩn tối thiểu (hướng dẫn) hoặc dạy ở mức độ cao hơn nhưng vẫn nằm trong chương trình.
- Thiết kế và hướng dẫn HS trao đổi, trả lời các câu hỏi, bài tập nhằm nắm vững, hiểu được những yêu về kiến thức, kĩ năng qua đó phát triển tư duy và rèn luyện các kĩ năng thực hành của học sinh.
- Đa dạng hoá các hình thức tổ chức dạy học nhằm tạo sự hứng thú cho HS đối với học tập bộ môn như dạy học trên lớp, dạy học trong phòng học tiếng, tổ chức các hoạt động ngoại khoá, câu lạc bộ tiếng Anh, xem băng hình, phim tiếng Anh, tổ chức chuyên đề,… qua đó giúp HS nắm vững và đạt chuẩn kiến thức, kĩ năng của Chương trình Giáo dục phổ thông.
- Trong việc dạy học theo Chuẩn kiến thức, kĩ năng cần chú trọng việc sử dụng hiệu quả các thiết bị dạy học, giáo viên, học sinh tích cực làm đồ dùng, thiết bị dạy học; đồng thời ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học một cách hợp lí.
- Tuy nhiên, cần lưu ý rằng dạy học bám sát Chuẩn tối thiểu không có nghĩa là cắt xén, lược bỏ kiến thức trong Chương trình. Giữa các đối tượng HS khác nhau chỉ áp dụng nội dung dạy học khác nhau về mức độ.
2. Đối với cấp THPT, cần chú ý những nguyên tắc sau trong quá trình dạy học:
- Phát triển kĩ năng giao tiếp. Các kiến thức ngôn ngữ được xem là phương tiện chứ không phải là đích cuối cùng của quá trình học tập.
- Các hoạt động học tập phát huy đến mức tối đa sự tham gia của học sinh. Nội dung kiến thức của các SGK được chuyển tải qua một hệ thống các bài luyện kĩ năng ngôn ngữ đi kèm với các bài tập luyện theo cách thức thực hiện các nhiệm vụ học tập (Task based).
- Các nhiệm vụ học tập đa dạng về loại hình, phong phú về từ vựng, chủ điểm, nhiều tranh ảnh minh hoạ và các tình huống mang tính giao tiếp cao nhằm tạo điều kiện cho người học được tham gia một cách tích cực để hoàn thành mục tiêu của bài học.
- Phối hợp các kĩ năng trong các giờ dạy. Giờ dạy nói không chỉ có nói mà có thể có bài đọc hoặc bài nghe làm nguồn, có thể kết thúc bằng bài viết. Tuy nhiên sự phối hợp các kĩ năng cũng cần tính đến trình độ của học sinh, điều kiện môi trường học tập và thời lượng cho phép.
- Chú trọng đến quá trình học tập, quá trình tiếp thu kiến thức mới được đánh giá cao hơn là kết quả cuối cùng. Khi thực hiện tiết học kĩ năng Viết, một số giáo viên cho rằng bài viết của học sinh sau tiết học là yêu cầu phải đạt được và do đó dẫn đến tình trạng dạy luyện tập theo mẫu và hoàn thành được bài theo mẫu là kết quả cuối cùng. Tuy nhiên nhiều giáo viên đã nhận rõ rằng kết quả hoàn thành bài viết chưa phải là đích cuối cùng mà quá trình học sinh được động não, được tham gia tranh luận với các bạn để tìm ý phát triển bài viết và chuẩn bị ngữ liệu cho bài viết được đánh giá là quan trọng để hình thành kĩ năng viết cho người học.
- Tăng cường các loại hình Kiểm tra đánh giá kết quả học tập: trình bày, bài tập lớn, dự án nhỏ, ...
- Tăng cường sử dụng có hiệu quả các thiết bị, phương tiện và đồ dùng hỗ trợ dạy học.
B. Tổ chức dạy học theo chuẩn kiến thức kỹ năng của môn học đối với cấp THPT
12/18/2010
8
Tài liệu tập huấn GV
1. Quan hệ giữa Chuẩn kiến thức, kỹ năng, SGK và Chương trình GDPT môn Tiếng Anh
- Chuẩn KT-KN là thành phần của Chương trình GDPT đảm bảo việc chỉ đạo dạy học, kiểm tra, đánh giá theo chuẩn sẽ tạo nên sự thống nhất; làm hạn chế tình trạng dạy học quá tải, góp phần làm giảm tiêu cực của dạy thêm, học thêm; tạo điều kiện cơ bản, quan trọng để tổ chức kiểm tra, đánh giá theo chuẩn.
- Chuẩn KT-KN là căn cứ để hướng dẫn dạy học, kiểm tra, đánh giá, đổi mới phương pháp dạy học, đổi mới kiểm tra, đánh giỏ.
- Dạy học cho HS đạt chuẩn kiến thức, kĩ năng là đạt được các yêu cầu cơ bản và tối thiểu về kiến thức, kỹ năng, đảm bảo không quá tải và không quá lệ thuộc hoàn toàn vào SGK; mức độ khai thác sâu kiến thức, kỹ năng trong SGK phải phù hợp với khả năng tiếp thu của HS, rèn luyện phương pháp tư duy, năng lực tự học, tự nghiên cứu; tạo niềm vui, hứng khởi, nhu cầu hành động và thái độ tự tin trong học tập cho HS.
2. Sử dụng Chuẩn KT-KN để xác định mục tiêu tiết dạy
Chuẩn kiến thức, kĩ năng trình bày trong Chương trình GDPT có tính khái quát theo từng chủ điểm, đó là mục tiêu cần đạt được sau thời gian học hết chủ điểm (Theme).
Mục tiêu theo chuẩn kiến thức, kĩ năng theo từng đơn vị bài học (Unit) cũng được trình bày cụ thể trong tài liệu Hướng dẫn thực hiện chuẩn kiến thức, kĩ năng môn Tiếng Anh THPT.
Để xác định mục tiêu cho từng tiết học, ví dụ như ở SGK của lớp 11. Mục tiêu mỗi giờ lên lớp gắn liền với mục tiêu thực hiện các mục A, B, C, D hoặc E theo nội dung mỗi đơn vị bài học.
Mục tiêu cụ thể của mỗi giờ lên lớp được nêu trong sách Hướng dẫn dạy học (sách giáo viên).
Cần lưu ý một số điểm khi xác định mục tiêu giờ học như:
- Trước đây, mục tiêu giờ lên lớp nhấn mạnh đến điều GV cần thực hiện trong một giờ học.
- Giáo học pháp hiện đại, mục tiêu giờ học là điều HS phải thực hiện và đạt được sau một giờ học tập trên lớp.
- Mục tiêu của giờ lên lớp cần nhằm vào các kĩ năng cụ thể tương ứng với các mục của mỗi đơn vị bài học trong SGK chứ không tập trung vào các kiến thức ngôn ngữ.
E.g. Mục tiêu rèn luyện kĩ năng đọc hiểu (đọc lướt, đọc chi tiết, ...) khi dạy mục A, rèn luyện kĩ năng nói khi dạy mục B, rèn luyện kĩ năng nghe khi dạy mục C, rèn luyện kĩ năng viết khi dạy mục D và luyện phát âm và thực hành các bài tập về ngữ pháp (và từ vựng) khi dạy mục E.
- Khi diễn đạt mục tiêu giờ học, nên bắt đầu bằng động từ chỉ kĩ năng học sinh cần đạt được ở nội dung chính của bài học hoặc nhiệm vụ cơ bản mà học sinh cần thực hiện trong giờ học
3. Lựa chọn nội dung KT-KN
GV có thể căn cứ vào trình độ học sinh cụ thể của lớp mình mà điều chỉnh tăng hoặc giảm, hoặc thay thế các bài tập cho phù hợp đối tượng học sinh.
Để Phát triển kĩ năng giao tiếp. Các kiến thức ngôn ngữ được xem là phương tiện chứ không phải là đích cuối cùng của quá trình học tập. Do đó việc lựa chọn nội dung ngôn ngữ như ngữ âm, từ vựng, ngữ pháp đóng vai trò quan trọng. Tùy tình hình cụ thể của lớp học chúng ta có thể quyết định những âm nào cần nhấn mạnh trong giờ học, dạy với số lượng từ là bao nhiêu và những từ nào, cấu trúc ngữ pháp nào được giới thiệu đặc biệt là các kiến thức ngôn ngữ mới hoặc khó đối với HS.
Khi lựa chọn nội dung ngôn ngữ cho giờ lên lớp, cần lưu ý một số điểm sau:
- Những kiến thức ngôn ngữ một mặt đóng vai trò then chốt cho việc hiểu các thông tin của bài mặt khác những kiến thức ngôn ngữ đó HS phải sử dụng trong luyện tập các kĩ năng như nghe, nói, đọc, viết.
- Số lượng âm, từ, ngữ pháp đề cập trong mỗi giờ học nhiều hay ít tùy thuộc vào trình độ của học sinh. Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp do phải tập trung rèn luyện các kĩ năng ngôn ngữ, GV không nhất thiết phải giới thiệu nhiều từ và cấu trúc mới vì chúng có thể được hiểu trong ngữ cảnh hoặc để phát triển khả năng đoán từ của học sinh.
C. Tổ chức dạy học theo chuẩn kiến thức kỹ năng của môn học
12/18/2010
14
Tài liệu tập huấn GV
1. Các kĩ thuật dạy học tich cực sử dụng trong dạy các kỹ năng tiếp nhận (receptive skills): nghe và đọc
Ba giai đoạn trong một bài dạy kỹ năng tiếp nhận thông tin là:
- Trước khi nghe (đọc)
- Trong khi nghe (đọc)
- Sau khi nghe (đọc).
Ở mỗi giai đoạn, GV có thể sử dụng những kĩ thuật khác nhau. Có một số thủ thuật có thể sử dụng ở các giai đoạn
GV gợi mở cho HS chia sẻ với nhau hoặc GV cung cấp cho HS một số kiến thức văn hóa nền, dạy trước một số từ, cấu trúc hoặc cách phát âm khó, v.v.
Các kĩ thuật sử dụng trong giai đoạn 1:
trước khi nghe /đọc - the pre- stage
Các kĩ thuật dạy học tích cực sử dụng trong giai đoạn này bao gồm:
● Hoạt động tiên đoán tự do (open prediction): GV chỉ nêu lên chủ đề của bài nghe (đọc) và cho HS cả lớp tự do đoán xem nội dung của bài đọc sẽ như thế nào.
E.g. GV nói "Today you are going to read a text about ways of socializing. Now make some guesses about the text." và để HS đoán xem họ sẽ được đọc về những cách thức giao tiếp nào, v.v. Để gây hứng thú cho HS, GV có thể giới thiệu chủ đề của bài bằng tranh ảnh, hoặc những vật dụng thực, v.v.
● Đoán xem các nhận định về bài đọc đúng hay sai (true/false statements prediction): GV đưa ra một số nhận định về nội dung chính của của bài, trong đó có một số câu đúng, một số câu sai. HS đoán xem câu nào đúng, câu nào sai (có thể thảo luận nhóm/cặp, so sánh câu trả lời).
● Sắp đặt trật tự câu, ý hoặc tranh vẽ (ordering): GV cho HS xem một số bức tranh hoặc đọc một số câu và yêu cầu họ sắp xếp chúng theo trật tự đúng. Hoạt động này thường dùng khi bài nghe /đọc là một câu chuyện, hoặc về kết quả và nguyên nhân, hay về một quy trình nào đó, v.v.
● Trả lời câu hỏi (pre-questions): GV đặt một số câu hỏi về chủ đề bài nghe /đọc, HS vận dụng những kiến thức đã có sẵn của mình để trả lời các câu hỏi đó.
● Bài tập từ vựng : gợi ý cho HS nhớ lại những từ đã học có liên quan đến chủ đề sắp nghe /đọc. Gợi mở để giúp HS xây dựng‘mạng lưới’ từ vựng liên quan đến chủ đề bài nghe/ đọc, trong đó có những từ mới và khó mà họ sẽ gặp trong bài nghe /đọc. Để gây hứng thú cho HS, GV nên sử dụng một số thủ thuật ôn luyện từ vựng như ô vuông từ vựng (word square), hay noughts and crosses, wordstorm, cross word, puzzle words, word chain: v.v... giúp HS hiểu các khái niệm khó hoặc kiến thức văn hoá (nếu có trong bài). Chú ý: GV nên có những câu hỏi gợi mở, dẫn dắt giúp HS suy nghĩ và tự tìm ra câu trả lời.
Một số điều GV cần lưu ý:
● Để tạo không khí sôi nổi khi bắt đầu bài học, nên cho HS làm việc theo nhóm/cặp, sau đó so sánh câu trả lời, hoặc dùng hoạt động “brainstorming” với cả lớp.
● Trong tất cả các hoạt động trước đọc, GV nên tăng cường khuyến khích, gợi mở cho HS suy đoán và thực hiện yêu cầu bài tập chứ không đưa ra câu trả lời đúng. HS sẽ phải tìm câu trả lời đúng khi nghe /đọc bài.
● Có thể sử dụng một hoặc hai thủ thuật trong một bài học, nên thay đổi các thủ thuật trong các bài khác nhau để cho bài học hấp dẫn hơn, tránh lối mòn, nhàm chán.
Các kĩ thuật sử dụng trong giai đoạn 2:
trong khi nghe /đọc - the while/through- stage
Các dạng bài tập và kĩ thuật dạy học tích cực sử dụng trong giai đoạn 2 bao gồm:
- Đúng/sai (True/ False): GV chuẩn bị các phiếu học tập (hand-outs) bao gồm một số câu có thông tin đúng hoặc sai với thông tin trong bài đọc/ nghe. HS thảo luận theo cặp và xác định câu nào đúng, câu nào sai và sai ở thông tin nào rồi sửa lại cho chính xác.
- Đa lựa chọn (Multiple Choice): GV chuẩn bị câu hỏi với ba hoặc bốn lựa chọn để HS chọn đáp án đúng.
- Điền vào chỗ trống (Gaps-Fill)
- Biểu bảng (Grids)
- Hoàn thành câu (Sentence Completion)
- Tìm ý chính (Main Idea)
- Đặt câu hỏi cho câu trả lời có sẵn (Answers Given)
- Khớp câu hoặc ý (Matching)
- v.v...
* Giáo viên cần lưu ý:
Nên để một khoảng thời gian xác định cho HS hoàn thành bài tập, sau đó có thể cho HS so sánh đáp án.
GV cần phải rèn luyện cho HS kỹ năng đoán nghĩa của từ mới thông qua ngữ cảnh bằng cách khuyến khích HS tiếp tục đọc, không dừng lại khi gặp một từ mới mà đọc lui lại một vài câu và đọc tiếp một vài câu để đoán nghĩa, sử dụng một số kiến thức ngữ pháp như tiền tố, hậu tố để xác định loại từ và sau đó bằng lòng với việc chỉ đoán ra nghĩa khái quát của từ đó. Khi soạn bài GV nên chọn ra những từ nhất định để cho HS tập đoán nghĩa, những từ nào quá khó thì nên dạy trước ở giai đoạn 1, nếu bài có nhiều từ mới không nên để HS phải đoán nghĩa tất cả các từ đó, dễ gây hoang mang, lúng túng cho HS.
Kỹ năng nghe thường được coi là khó hơn do HS phụ thuộc hoàn toàn vào tốc độ của băng cassette hoặc GV. Lần thứ nhất, thứ hai nên cho HS nghe cả bài để họ nắm được ý chung cũng như bố cục cả bài và làm bài tập, sau đó nếu HS thấy khó thì mới cho nghe lại từng đoạn, dừng lại sau những chỗ khó. Nên hạn chế cho HS nghe từng câu một, vì làm như vậy sẽ khiến HS có thói quen không tốt là phải hiểu nghĩa từng từ, từng câu khi nghe.
Các kĩ thuật sử dụng trong giai đoạn 3:
sau khi nghe /đọc - the post- stage
Trong giai đoạn này HS sử dụng những thông tin đã đọc được hoặc nghe được để làm một việc gì đó có nghĩa với thông tin đó. Thông thường giai đoạn này yêu cầu HS phải sử dụng các kỹ năng sản sinh (receptive skills) như nói hoặc viết để đưa ra tóm tắt, tổng kết các thông tin hoặc vấn đề vừa nghe hay đọc được, nêu quan điểm của mình về các vấn đề đó, hoặc kể về những kinh nghiệm bản thân tương tự với những điều vừa nghe hoặc đọc được.
- Tóm tắt bài nghe /đọc (summarizing): là hoạt động phổ biến sau đọc, vừa củng cố việc hiểu nghĩa của bài vừa giúp HS luyện tập sử dụng những kiến thức và ngôn ngữ vừa học được trong bài. GV cần hướng dẫn tỉ mỉ. Có thể đưa ra một số từ gợi ý để HS dùng những từ đó mà viết tóm tắt; hoặc viết các từ đầu câu để HS chỉ việc hoàn thành các câu đó; hoặc cho một số câu hỏi về những ý chính trong bài, HS viết tóm tắt bằng cách trả lời các câu hỏi đó, v.v. hoạt động tóm tắt cũng có thể thực hiện qua nói.
- Thảo luận (discussing): HS khá hơn thì có thể dùng hình thức thảo luận nhóm, trao đổivề cảm tưởng, ý kiến, nhận định của bản thân về vấn đề vừa nghe /đọc, hoặc yêu cầu HS viết hoặc nói về một vấn đề tương tự nhưng về bản thân hoặc những hoàn cảnh tương tự như trong bài nghe /đọc.
- Đối với HS các lớp yếu, GV nên thiết kế lại các nhiệm vụ bài học cho vừa sức, tăng cường trợ giúp như cung cấp các từ gợi ý, cho trước khung mẫu, đặt câu hỏi gợi mở dạng trả lời có/không (yes/no question), v.v.
2. Các kĩ thuật dạy học tích cực sử dụng trong dạy các kỹ năng sản sinh (productive skills): nói và viết
HS luyện tập để có thể dùng ngoại ngữ để diễn đạt ý của mình nên các bước trong bài dạy kỹ năng nói và viết không giống với bài dạy nghe và đọc. Ở một số khía cạnh, dạy hai kỹ năng này gần giống dạy các kiến thức ngôn ngữ như từ vựng hoặc ngữ pháp: HS phải được cung cấp ngữ liệu, sau đó luyện tập các ngữ liệu đó và cuối cùng là sử dụng các ngữ liệu đó để diễn đạt ý tưởng của mình một cách tự do hơn. Mặt khác vì đây là bài luyện tập kỹ năng nên bài dạy nói / viết cũng có những hoạt động đặc thù.
Có thể chia bài dạy nói / viết thành 3 giai đoạn:
- giai đoạn chuẩn bị nói / viết
- giai đoạn luyện nói / viết có kiểm soát
- giai đoạn nói / viết tự do.
Để bài luyện nói / viết đạt hiệu quả cao các hoạt động luyện tập cần phải thú vị, hấp dẫn và có ý nghĩa, sát thực với đời sống và hoàn cảnh của HS. Bên cạnh đó cũng nên thiết kế các hoạt động có tính thách thức cao hoặc tạo khí thế thi đua giữa các cá nhân, các cặp hay nhóm HS bằng cách tính điểm, có giải thưởng hay phần thưởng cho những bài nói khá nhất, v.v.
Các kĩ thuật sử dụng trong giai đoạn chuẩn bị nói:
- Wordstorm
- Cross word/ puzzle words
- Word chain
- Guessing games
- Memory game
- Situation response
- Mind map
- Information gaps (Grid)
- Describe and draw/guess (Miêu tả và vẽ / đoán)
- Yes/ no contest
- …..
- Khai thác bài nói mẫu: tuỳ theo mục tiêu bài nói mà bài mẫu có thể là những phát ngôn đơn lẻ, một đoạn hội thoại hay một đoạn lời nói ngắn. GV sử dụng một số thủ thuật khi khai thác bài mẫu như:
+ Đọc to bài mẫu một lần, chú ý cách phát âm, trọng âm, ngắt giọng phù hợp, HS lắng nghe.
+ Đọc mẫu lần thứ hai, cho HS đọc theo.
- Dùng câu hỏi gợi mở (open questions) để HS tự rút ra cách sử dụng từ, cấu trúc cũng như ý nghĩa trong bài mẫu.
- Làm việc theo cặp/ nhóm (Pair-work / group-work): Cho HS luyện đọc bài mẫu cho thành thạo theo cặp/nhóm. Trong phần này GV cần chú trọng nhiều đến độ chính xác trong lời nói của HS và nên kịp thời sửa các lỗi sai về phát âm, ngữ pháp, từ vựng.
- Dạy trước một số từ vựng hoặc ngữ pháp cần thiết cho việc thực hiện bài tập nói (sử dụng các thủ thuật dạy từ vựng/ngữ pháp)
- Gợi mở để HS đóng góp những ý tưởng chung cho bài nói (có thể sử dụng hoạt động ‘động não’ (brainstorming) cho cả lớp hoặc cho HS làm việc theo nhóm, thảo luận và liệt kê các ý tưởng, sau đó đóng góp với cả lớp.
Lưu ý khi đưa ra yêu cầu và hướng dẫn cách thực hiện yêu cầu bài nói:
- Nếu bài nói có nhiều yêu cầu, nên dùng cách đưa yêu cầu theo từng bước (‘step by step intruction’).
- Không chỉ đưa ra yêu cầu mà còn phải làm mẫu cho HS thấy cách làm của từng bài như thế nào. Tuy nhiên, GV không nên trực tiếp làm mẫu mà giúp các HS khá giỏi trong lớp làm mẫu.
- Hỏi một vài câu hỏi để kiểm tra xem HS đã thực sự hiểu cách làm và yêu cầu của bài tập hay không.
GV sử dụng một số kĩ thuật sau đây để giúp HS luyện nói theo yêu cầu và sử dụng những ý hoặc từ vựng, cấu trúc cho trước.
- Kĩ thuật tổ chức luyện tập: nên tổ chức cho HS làm việc theo cặp / nhóm để tiết kiệm thời gian và luyện tập nói được nhiều nhất. Lưu ý: GV nên cho HS thay đổi thường xuyên các cặp, nhóm để HS có thể luyện được với nhiều đối tượng khác nhau và học được nhiều hơn. Có thể sử dụng các kĩ thuật chia nhóm thật nhanh:
+ Chia theo vần tên A, B, C
+ Chia theo màu áo
+ Chia theo độ dài của tóc, chiều cao...
- Vai trò của GV: một số GV quan niệm rằng sau khi đã làm mẫu và hướng dẫn đầy đủ cho HS là GV có thể ngồi nghỉ ngơi hoặc làm việc khác. Điều đó hoàn toàn không đúng, ở giai đoạn này GV đóng vai trò là người giám sát, giúp đỡ, điều phối. Trong khi HS làm việc theo cặp/nhóm, GV đi quanh các nhóm giám sát, nhắc nhở sao cho họ không sử dụng quá nhiều tiếng mẹ đẻ trong khi luyện tập ngoại ngữ, không có ai trong nhóm nói quá nhiều hoặc quá ít, nếu HS có vướng mắc gì về ngôn ngữ thì GV giúp HS giải quyết ngay.
- Kĩ thuật sửa lỗi: ở giai đoạn này GV không nên trực tiếp sửa lỗi cho HS mà nên bỏ qua các lỗi không quan trọng. Đối với các lỗi lặp đi lặp lại và phổ biến thì nên ghi chép lại, sau đó sửa chung ở trước cả lớp. GV nên chỉ nêu câu có lỗi ra ở trước lớp, sau đó khuyến khích HS tự tìm ra lỗi và tự sửa các lỗi đó.
Trong dạy viết ngoại ngữ người ta thường phân biệt ba loại hoạt động luyện viết khác nhau: viết có kiểm soát (controlled writing), viết có hướng dẫn (guided writing) và viết tự do (free writing). chương trình tiếng anh 12 tập trung vào các hoạt động viết có hướng dẫn:
Loại bài tập này đã đỡ máy móc hơn bài tập viết có kiểm soát nhưng vẫn chưa hoàn toàn là bài luyện kỹ năng viết giao tiếp. HS vẫn thực hiện các nhiệm vụ viết dưới sự hướng dẫn của GV mà chưa thể tự do dùng ngôn ngữ để giao tiếp với độc giả.
Dạy kĩ năng viết
- Trả lời câu hỏi ( sử dụng kĩ thuật ‘Five questions’ ) GV đặt các câu hỏi, HS trả lời các câu hỏi đó và sau đó ghép vào thành bài viết. nếu kết hợp luyện cả cấu trúc đoạn thì không để các câu hỏi theo trật tự. HS sẽ trả lời các câu hỏi riêng rẽ, sau đó sắp xếp các câu trả lời theo đúng trật tự một đoạn văn.
- Dùng từ cho sẵn để viết thành câu hoặc bài liền ý (sử dụng kĩ thuật ‘Ordering): cho trước một số từ cơ bản trong câu, HS phải sử dụng các từ đó để viết thành câu hoàn chỉnh có nghĩa. bài tập loại này có thể có mức độ khó dễ khác nhau. để tăng độ khó thì yêu cầu HS phải biến đổinhiều từ loại trong câu, thêm nhiều từ phụ như mạo từ, giới từ, v.v. và đảo lộn trật tự từ trong câu.
a) Dạy ngữ âm
Chương trình tiếng Anh THPT đưa phần ngữ âm vào dạy chính thức một cách có hệ thống nhưng thông qua các bài luyện tập thiết thực với HS chứ không đi vào các vấn đề lý thuyết ngữ âm. Sách giáo khoa tiếng anh 12 tập trung vào các vấn đề chính của ngữ âm như trọng âm từ, nhịp điệu trong câu tiếng Anh, và cách phát âm một số âm/từ ở vị trí đặc biệt. Trong phần luyện âm, vai trò hướng dẫn của GV là rất quan trọng. GV cần tìm hiểu và chuẩn bị kĩ để làm mẫu cho HS.
Một số kĩ thuật sử dụng dạy ngữ âm
- Same or different (đúng hay sai)
- Domino (trò chơi Domino)
- Tongue twist ( Trò chơi uốn lưỡi)
- Find the difference
- Odd one out
Dạy kiến thức ngôn ngữ
b) Dạy từ vựng
- Cần phân biệt ngữ nghĩa và cách sử dụng.
- Lưu ý:
Cách sử dụng của một từ phụ thuộc rất nhiều vào ngữ cảnh, thói quen của người bản ngữ và các mối quan hệ cùng với môi trường văn hoá và xã hội của họ. Cách sử dụng những ngữ liệu này chỉ có thể được hiểu rõ khi chúng được giới thiệu trong ngữ cảnh hay tình huống mà người bản ngữ đã sử dụng.
Chọn từ để dạy
Để lựa chọn từ cần dạy, cần xem xét những vấn đề từ chủ động - từ bị động (active and passive vocabulary)
● Từ chủ động là những từ HS hiểu, nhận biết và sử dụng được trong giao tiếp nói và viết.
● Từ bị động là những từ HS chỉ hiểu và nhận biết được khi nghe và đọc.
Cách dạy và giới thiệu hai loại từ này khác nhau. Từ chủ động có liên quan đến cả 4 kỹ năng: nghe, nói, đọc, viết, cần đầu tư thời gian để giới thiệu và luyện tập nhiều hơn, đặc biệt là cách sử dụng. Với từ bị động, có thể chỉ cần dừng lại ở mức nhận biết, không cần thực hiện các hoạt động ứng dụng. GV cần biết lựa chọn và quyết định xem từ nào là từ chủ động và từ nào là từ bị động.
Dùng giáo cụ trực quan (real objects)
GV có thể sử dụng các đồ vật trong lớp hoặc mang tới lớp, sử dụng tranh, ảnh, biểu bảng, sơ đồ hoặc có thể vẽ trực tiếp lên bảng. GV có thể sử dụng các hành động, cử chỉ, điệu bộ. bản thân GV và HS luôn là nguồn trực quan sinh động mà nếu khéo vận dụng sẽ đem lại hiệu quả tích cực.
Dùng tình huống ( situations)
GV có thể sử dụng các tình huống thực trong lớp hoặc ngoài lớp để chỉ ra nghĩa của từ. Ví dụ: GV có thể chỉ vào 1 nam HS ngồi giữa 2 nữ HS để giới thiệu ý nghĩa của từ between bằng cách nói Tuan is between Lan and Huong.
Kĩ thuật dạy nghĩa từ
Dùng ngôn ngữ lời nói:
GV có thể sử dụng tiếng Anh hoặc tiếng việt để chỉ ra ý nghĩa của từ mới. Có thể thực hiện bằng hình thức định nghĩa, sử dụng ngữ cảnh, sử dụng các từ đồng nghĩa, trái nghĩa hoặc dịch. Sau khi chỉ ra ý nghĩa của từ mới, GV có thể thực hiện một số các kĩ thuật sau để trình bày hình thức của từ đó.
- Vẽ tranh lên bảng để chỉ ra ý nghĩa của từ.
- Nói 1 hoặc 2 câu có chứa từ đó.
- Yêu cầu cả lớp lặp lại từ và cả câu đồng thanh 2 hoặc 3 lần.
- Viết từ hoặc câu đó lên bảng nếu cần thiết.
- Yêu cầu HS dịch câu đó sang tiếng việt.
- Đặt thêm ví dụ để củng cố từ.
- Đặt câu hỏi để HS trả lời trong đó có chứa từ vừa học.
- Yêu cầu HS chép từ vào vở.
Các kĩ thuật sử dụng khi dạy từ
- Matching
- Odd-man-out
- Cross word/ puzzle words
- Domino
- Quizz
- Grouping
- Arranging/ Ordering
- Blank-filling
- Substitution
- Replacement
- Sentence-building.
- …
Dạy các cấu trúc ngữ pháp có thể được thực hiện theo 2 cách chính:
- Diễn dịch: HS được cung cấp một quy tắc cấu trúc ngữ pháp kèm theo lời giải thích và ví dụ minh hoạ, sau đó HS luyện tập cách sử dụng.
- Quy nạp: HS được tiếp cận một loạt các ví dụ, từ các ví dụ này HS phải khái quát hoá thành các quy tắc với sự gợi ý của GV. Việc lựa chọn một trong hai cách này tuỳ thuộc vào độ khó của cấu trúc, năng lực của HS cũng như ý thích của GV.
Dạy ngữ pháp
Một số loại hình bài tập và kĩ thuật sử dụng khi dạy cấu trúc ngữ pháp
Việc luyện tập một cấu trúc ngữ pháp mới có thể thực hiện qua các loại hình bài tập sau đây:
- Repetition
- Substitution
- Conversion or transformation
- Matching
- Ordering/ rearranging
- Five questions
- Grid (completion)
12/18/2010
1
Tài liệu tập huấn GV
A. Những nguyên tắc định hướng dạy học theo chuẩn kiến thức, kỹ năng chương trình giáo dục phổ thông thông qua các kỹ thuật dạy học tích cực
B. Tổ chức dạy học theo chuẩn kiến thức kỹ năng của môn học đối với cấp THPT
C. Tổ chức dạy học theo chuẩn kiến thức kỹ năng của môn học
1. Nguyên tắc chung
- Chuẩn KT-KN là các yêu cầu cơ bản, tối thiểu về kiến thức, kĩ năng của môn học mà học sinh cần phải và có thể đạt được sau mỗi đơn vị kiến thức
- Phải xác định được mục tiêu của bài dạy, tức là xác định được chuẩn KT-KN cụ thể trong bài dạy. Hiểu được điều đó, giáo viên mới có thể chủ động xác định được chuẩn kiến thức, trả lời câu hỏi “dạy cái gì” cho phù hợp với từng trường, từng lớp, từng đối tượng học sinh.
A. Những nguyên tắc định hướng dạy học theo chuẩn kiến thức, kỹ năng chương trình giáo dục phổ thông thông qua các kỹ thuật dạy học tích cực
* Để việc sử dụng tài liệu chuẩn KT-KN có hiệu quả cần tuân thủ những nguyên tắc như sau:
- Phải căn cứ vào tài liệu Hướng dẫn thực hiện Chuẩn kiến thức, kĩ năng để xác định mục tiêu bài học, Giáo viên đối chiếu giữa tài liệu Hướng dẫn Chuẩn kiến thức kĩ năng với SGK để xác định bài, mục kiến thức nào là kiến thức cơ bản, kiến thức nào là kiến thức trọng tâm, đồng thời xác định những kĩ năng cần hình thành cho học sinh.
- Bám sát Chuẩn kiến thức, kĩ năng để thiết kế bài giảng nhằm đạt được các yêu cầu cơ bản, tối thiểu về kiến thức, kĩ năng. Không quá tải và quá lệ thuộc hoàn toàn vào SGK, không cố dạy hết toàn bộ nội dung SGK; việc khai thác sâu kiến thức trong SGK phải phù hợp với khả năng tiếp thu của học sinh.
- Dựa trên cơ sở yêu cầu về kiến thức, kĩ năng trong hướng dẫn thực hiện chuẩn kiến thức kĩ năng giáo viên vận dụng sáng tạo, linh hoạt các phương pháp, kĩ thuật dạy học nhằm phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo, tự giác học tập của học sinh. Cần chú trọng rèn luyện phương pháp tư duy, năng lực tự học, tự nghiên cứu, tạo niền vui, hứng khởi nhu cầu hành động và thái độ tự tin trong học tập cho học sinh.
- Trong tổ chức các hoạt động học tập trên lớp giáo viên cần linh hoạt hơn, tổ chức các hoạt động học tập phù hợp với đối tượng học sinh của mình. Tùy theo trình độ nhận thức của HS, điều kiện dạy học khác nhau để dạy học linh hoạt, hoặc bám sát chuẩn tối thiểu (hướng dẫn) hoặc dạy ở mức độ cao hơn nhưng vẫn nằm trong chương trình.
- Thiết kế và hướng dẫn HS trao đổi, trả lời các câu hỏi, bài tập nhằm nắm vững, hiểu được những yêu về kiến thức, kĩ năng qua đó phát triển tư duy và rèn luyện các kĩ năng thực hành của học sinh.
- Đa dạng hoá các hình thức tổ chức dạy học nhằm tạo sự hứng thú cho HS đối với học tập bộ môn như dạy học trên lớp, dạy học trong phòng học tiếng, tổ chức các hoạt động ngoại khoá, câu lạc bộ tiếng Anh, xem băng hình, phim tiếng Anh, tổ chức chuyên đề,… qua đó giúp HS nắm vững và đạt chuẩn kiến thức, kĩ năng của Chương trình Giáo dục phổ thông.
- Trong việc dạy học theo Chuẩn kiến thức, kĩ năng cần chú trọng việc sử dụng hiệu quả các thiết bị dạy học, giáo viên, học sinh tích cực làm đồ dùng, thiết bị dạy học; đồng thời ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học một cách hợp lí.
- Tuy nhiên, cần lưu ý rằng dạy học bám sát Chuẩn tối thiểu không có nghĩa là cắt xén, lược bỏ kiến thức trong Chương trình. Giữa các đối tượng HS khác nhau chỉ áp dụng nội dung dạy học khác nhau về mức độ.
2. Đối với cấp THPT, cần chú ý những nguyên tắc sau trong quá trình dạy học:
- Phát triển kĩ năng giao tiếp. Các kiến thức ngôn ngữ được xem là phương tiện chứ không phải là đích cuối cùng của quá trình học tập.
- Các hoạt động học tập phát huy đến mức tối đa sự tham gia của học sinh. Nội dung kiến thức của các SGK được chuyển tải qua một hệ thống các bài luyện kĩ năng ngôn ngữ đi kèm với các bài tập luyện theo cách thức thực hiện các nhiệm vụ học tập (Task based).
- Các nhiệm vụ học tập đa dạng về loại hình, phong phú về từ vựng, chủ điểm, nhiều tranh ảnh minh hoạ và các tình huống mang tính giao tiếp cao nhằm tạo điều kiện cho người học được tham gia một cách tích cực để hoàn thành mục tiêu của bài học.
- Phối hợp các kĩ năng trong các giờ dạy. Giờ dạy nói không chỉ có nói mà có thể có bài đọc hoặc bài nghe làm nguồn, có thể kết thúc bằng bài viết. Tuy nhiên sự phối hợp các kĩ năng cũng cần tính đến trình độ của học sinh, điều kiện môi trường học tập và thời lượng cho phép.
- Chú trọng đến quá trình học tập, quá trình tiếp thu kiến thức mới được đánh giá cao hơn là kết quả cuối cùng. Khi thực hiện tiết học kĩ năng Viết, một số giáo viên cho rằng bài viết của học sinh sau tiết học là yêu cầu phải đạt được và do đó dẫn đến tình trạng dạy luyện tập theo mẫu và hoàn thành được bài theo mẫu là kết quả cuối cùng. Tuy nhiên nhiều giáo viên đã nhận rõ rằng kết quả hoàn thành bài viết chưa phải là đích cuối cùng mà quá trình học sinh được động não, được tham gia tranh luận với các bạn để tìm ý phát triển bài viết và chuẩn bị ngữ liệu cho bài viết được đánh giá là quan trọng để hình thành kĩ năng viết cho người học.
- Tăng cường các loại hình Kiểm tra đánh giá kết quả học tập: trình bày, bài tập lớn, dự án nhỏ, ...
- Tăng cường sử dụng có hiệu quả các thiết bị, phương tiện và đồ dùng hỗ trợ dạy học.
B. Tổ chức dạy học theo chuẩn kiến thức kỹ năng của môn học đối với cấp THPT
12/18/2010
8
Tài liệu tập huấn GV
1. Quan hệ giữa Chuẩn kiến thức, kỹ năng, SGK và Chương trình GDPT môn Tiếng Anh
- Chuẩn KT-KN là thành phần của Chương trình GDPT đảm bảo việc chỉ đạo dạy học, kiểm tra, đánh giá theo chuẩn sẽ tạo nên sự thống nhất; làm hạn chế tình trạng dạy học quá tải, góp phần làm giảm tiêu cực của dạy thêm, học thêm; tạo điều kiện cơ bản, quan trọng để tổ chức kiểm tra, đánh giá theo chuẩn.
- Chuẩn KT-KN là căn cứ để hướng dẫn dạy học, kiểm tra, đánh giá, đổi mới phương pháp dạy học, đổi mới kiểm tra, đánh giỏ.
- Dạy học cho HS đạt chuẩn kiến thức, kĩ năng là đạt được các yêu cầu cơ bản và tối thiểu về kiến thức, kỹ năng, đảm bảo không quá tải và không quá lệ thuộc hoàn toàn vào SGK; mức độ khai thác sâu kiến thức, kỹ năng trong SGK phải phù hợp với khả năng tiếp thu của HS, rèn luyện phương pháp tư duy, năng lực tự học, tự nghiên cứu; tạo niềm vui, hứng khởi, nhu cầu hành động và thái độ tự tin trong học tập cho HS.
2. Sử dụng Chuẩn KT-KN để xác định mục tiêu tiết dạy
Chuẩn kiến thức, kĩ năng trình bày trong Chương trình GDPT có tính khái quát theo từng chủ điểm, đó là mục tiêu cần đạt được sau thời gian học hết chủ điểm (Theme).
Mục tiêu theo chuẩn kiến thức, kĩ năng theo từng đơn vị bài học (Unit) cũng được trình bày cụ thể trong tài liệu Hướng dẫn thực hiện chuẩn kiến thức, kĩ năng môn Tiếng Anh THPT.
Để xác định mục tiêu cho từng tiết học, ví dụ như ở SGK của lớp 11. Mục tiêu mỗi giờ lên lớp gắn liền với mục tiêu thực hiện các mục A, B, C, D hoặc E theo nội dung mỗi đơn vị bài học.
Mục tiêu cụ thể của mỗi giờ lên lớp được nêu trong sách Hướng dẫn dạy học (sách giáo viên).
Cần lưu ý một số điểm khi xác định mục tiêu giờ học như:
- Trước đây, mục tiêu giờ lên lớp nhấn mạnh đến điều GV cần thực hiện trong một giờ học.
- Giáo học pháp hiện đại, mục tiêu giờ học là điều HS phải thực hiện và đạt được sau một giờ học tập trên lớp.
- Mục tiêu của giờ lên lớp cần nhằm vào các kĩ năng cụ thể tương ứng với các mục của mỗi đơn vị bài học trong SGK chứ không tập trung vào các kiến thức ngôn ngữ.
E.g. Mục tiêu rèn luyện kĩ năng đọc hiểu (đọc lướt, đọc chi tiết, ...) khi dạy mục A, rèn luyện kĩ năng nói khi dạy mục B, rèn luyện kĩ năng nghe khi dạy mục C, rèn luyện kĩ năng viết khi dạy mục D và luyện phát âm và thực hành các bài tập về ngữ pháp (và từ vựng) khi dạy mục E.
- Khi diễn đạt mục tiêu giờ học, nên bắt đầu bằng động từ chỉ kĩ năng học sinh cần đạt được ở nội dung chính của bài học hoặc nhiệm vụ cơ bản mà học sinh cần thực hiện trong giờ học
3. Lựa chọn nội dung KT-KN
GV có thể căn cứ vào trình độ học sinh cụ thể của lớp mình mà điều chỉnh tăng hoặc giảm, hoặc thay thế các bài tập cho phù hợp đối tượng học sinh.
Để Phát triển kĩ năng giao tiếp. Các kiến thức ngôn ngữ được xem là phương tiện chứ không phải là đích cuối cùng của quá trình học tập. Do đó việc lựa chọn nội dung ngôn ngữ như ngữ âm, từ vựng, ngữ pháp đóng vai trò quan trọng. Tùy tình hình cụ thể của lớp học chúng ta có thể quyết định những âm nào cần nhấn mạnh trong giờ học, dạy với số lượng từ là bao nhiêu và những từ nào, cấu trúc ngữ pháp nào được giới thiệu đặc biệt là các kiến thức ngôn ngữ mới hoặc khó đối với HS.
Khi lựa chọn nội dung ngôn ngữ cho giờ lên lớp, cần lưu ý một số điểm sau:
- Những kiến thức ngôn ngữ một mặt đóng vai trò then chốt cho việc hiểu các thông tin của bài mặt khác những kiến thức ngôn ngữ đó HS phải sử dụng trong luyện tập các kĩ năng như nghe, nói, đọc, viết.
- Số lượng âm, từ, ngữ pháp đề cập trong mỗi giờ học nhiều hay ít tùy thuộc vào trình độ của học sinh. Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp do phải tập trung rèn luyện các kĩ năng ngôn ngữ, GV không nhất thiết phải giới thiệu nhiều từ và cấu trúc mới vì chúng có thể được hiểu trong ngữ cảnh hoặc để phát triển khả năng đoán từ của học sinh.
C. Tổ chức dạy học theo chuẩn kiến thức kỹ năng của môn học
12/18/2010
14
Tài liệu tập huấn GV
1. Các kĩ thuật dạy học tich cực sử dụng trong dạy các kỹ năng tiếp nhận (receptive skills): nghe và đọc
Ba giai đoạn trong một bài dạy kỹ năng tiếp nhận thông tin là:
- Trước khi nghe (đọc)
- Trong khi nghe (đọc)
- Sau khi nghe (đọc).
Ở mỗi giai đoạn, GV có thể sử dụng những kĩ thuật khác nhau. Có một số thủ thuật có thể sử dụng ở các giai đoạn
GV gợi mở cho HS chia sẻ với nhau hoặc GV cung cấp cho HS một số kiến thức văn hóa nền, dạy trước một số từ, cấu trúc hoặc cách phát âm khó, v.v.
Các kĩ thuật sử dụng trong giai đoạn 1:
trước khi nghe /đọc - the pre- stage
Các kĩ thuật dạy học tích cực sử dụng trong giai đoạn này bao gồm:
● Hoạt động tiên đoán tự do (open prediction): GV chỉ nêu lên chủ đề của bài nghe (đọc) và cho HS cả lớp tự do đoán xem nội dung của bài đọc sẽ như thế nào.
E.g. GV nói "Today you are going to read a text about ways of socializing. Now make some guesses about the text." và để HS đoán xem họ sẽ được đọc về những cách thức giao tiếp nào, v.v. Để gây hứng thú cho HS, GV có thể giới thiệu chủ đề của bài bằng tranh ảnh, hoặc những vật dụng thực, v.v.
● Đoán xem các nhận định về bài đọc đúng hay sai (true/false statements prediction): GV đưa ra một số nhận định về nội dung chính của của bài, trong đó có một số câu đúng, một số câu sai. HS đoán xem câu nào đúng, câu nào sai (có thể thảo luận nhóm/cặp, so sánh câu trả lời).
● Sắp đặt trật tự câu, ý hoặc tranh vẽ (ordering): GV cho HS xem một số bức tranh hoặc đọc một số câu và yêu cầu họ sắp xếp chúng theo trật tự đúng. Hoạt động này thường dùng khi bài nghe /đọc là một câu chuyện, hoặc về kết quả và nguyên nhân, hay về một quy trình nào đó, v.v.
● Trả lời câu hỏi (pre-questions): GV đặt một số câu hỏi về chủ đề bài nghe /đọc, HS vận dụng những kiến thức đã có sẵn của mình để trả lời các câu hỏi đó.
● Bài tập từ vựng : gợi ý cho HS nhớ lại những từ đã học có liên quan đến chủ đề sắp nghe /đọc. Gợi mở để giúp HS xây dựng‘mạng lưới’ từ vựng liên quan đến chủ đề bài nghe/ đọc, trong đó có những từ mới và khó mà họ sẽ gặp trong bài nghe /đọc. Để gây hứng thú cho HS, GV nên sử dụng một số thủ thuật ôn luyện từ vựng như ô vuông từ vựng (word square), hay noughts and crosses, wordstorm, cross word, puzzle words, word chain: v.v... giúp HS hiểu các khái niệm khó hoặc kiến thức văn hoá (nếu có trong bài). Chú ý: GV nên có những câu hỏi gợi mở, dẫn dắt giúp HS suy nghĩ và tự tìm ra câu trả lời.
Một số điều GV cần lưu ý:
● Để tạo không khí sôi nổi khi bắt đầu bài học, nên cho HS làm việc theo nhóm/cặp, sau đó so sánh câu trả lời, hoặc dùng hoạt động “brainstorming” với cả lớp.
● Trong tất cả các hoạt động trước đọc, GV nên tăng cường khuyến khích, gợi mở cho HS suy đoán và thực hiện yêu cầu bài tập chứ không đưa ra câu trả lời đúng. HS sẽ phải tìm câu trả lời đúng khi nghe /đọc bài.
● Có thể sử dụng một hoặc hai thủ thuật trong một bài học, nên thay đổi các thủ thuật trong các bài khác nhau để cho bài học hấp dẫn hơn, tránh lối mòn, nhàm chán.
Các kĩ thuật sử dụng trong giai đoạn 2:
trong khi nghe /đọc - the while/through- stage
Các dạng bài tập và kĩ thuật dạy học tích cực sử dụng trong giai đoạn 2 bao gồm:
- Đúng/sai (True/ False): GV chuẩn bị các phiếu học tập (hand-outs) bao gồm một số câu có thông tin đúng hoặc sai với thông tin trong bài đọc/ nghe. HS thảo luận theo cặp và xác định câu nào đúng, câu nào sai và sai ở thông tin nào rồi sửa lại cho chính xác.
- Đa lựa chọn (Multiple Choice): GV chuẩn bị câu hỏi với ba hoặc bốn lựa chọn để HS chọn đáp án đúng.
- Điền vào chỗ trống (Gaps-Fill)
- Biểu bảng (Grids)
- Hoàn thành câu (Sentence Completion)
- Tìm ý chính (Main Idea)
- Đặt câu hỏi cho câu trả lời có sẵn (Answers Given)
- Khớp câu hoặc ý (Matching)
- v.v...
* Giáo viên cần lưu ý:
Nên để một khoảng thời gian xác định cho HS hoàn thành bài tập, sau đó có thể cho HS so sánh đáp án.
GV cần phải rèn luyện cho HS kỹ năng đoán nghĩa của từ mới thông qua ngữ cảnh bằng cách khuyến khích HS tiếp tục đọc, không dừng lại khi gặp một từ mới mà đọc lui lại một vài câu và đọc tiếp một vài câu để đoán nghĩa, sử dụng một số kiến thức ngữ pháp như tiền tố, hậu tố để xác định loại từ và sau đó bằng lòng với việc chỉ đoán ra nghĩa khái quát của từ đó. Khi soạn bài GV nên chọn ra những từ nhất định để cho HS tập đoán nghĩa, những từ nào quá khó thì nên dạy trước ở giai đoạn 1, nếu bài có nhiều từ mới không nên để HS phải đoán nghĩa tất cả các từ đó, dễ gây hoang mang, lúng túng cho HS.
Kỹ năng nghe thường được coi là khó hơn do HS phụ thuộc hoàn toàn vào tốc độ của băng cassette hoặc GV. Lần thứ nhất, thứ hai nên cho HS nghe cả bài để họ nắm được ý chung cũng như bố cục cả bài và làm bài tập, sau đó nếu HS thấy khó thì mới cho nghe lại từng đoạn, dừng lại sau những chỗ khó. Nên hạn chế cho HS nghe từng câu một, vì làm như vậy sẽ khiến HS có thói quen không tốt là phải hiểu nghĩa từng từ, từng câu khi nghe.
Các kĩ thuật sử dụng trong giai đoạn 3:
sau khi nghe /đọc - the post- stage
Trong giai đoạn này HS sử dụng những thông tin đã đọc được hoặc nghe được để làm một việc gì đó có nghĩa với thông tin đó. Thông thường giai đoạn này yêu cầu HS phải sử dụng các kỹ năng sản sinh (receptive skills) như nói hoặc viết để đưa ra tóm tắt, tổng kết các thông tin hoặc vấn đề vừa nghe hay đọc được, nêu quan điểm của mình về các vấn đề đó, hoặc kể về những kinh nghiệm bản thân tương tự với những điều vừa nghe hoặc đọc được.
- Tóm tắt bài nghe /đọc (summarizing): là hoạt động phổ biến sau đọc, vừa củng cố việc hiểu nghĩa của bài vừa giúp HS luyện tập sử dụng những kiến thức và ngôn ngữ vừa học được trong bài. GV cần hướng dẫn tỉ mỉ. Có thể đưa ra một số từ gợi ý để HS dùng những từ đó mà viết tóm tắt; hoặc viết các từ đầu câu để HS chỉ việc hoàn thành các câu đó; hoặc cho một số câu hỏi về những ý chính trong bài, HS viết tóm tắt bằng cách trả lời các câu hỏi đó, v.v. hoạt động tóm tắt cũng có thể thực hiện qua nói.
- Thảo luận (discussing): HS khá hơn thì có thể dùng hình thức thảo luận nhóm, trao đổivề cảm tưởng, ý kiến, nhận định của bản thân về vấn đề vừa nghe /đọc, hoặc yêu cầu HS viết hoặc nói về một vấn đề tương tự nhưng về bản thân hoặc những hoàn cảnh tương tự như trong bài nghe /đọc.
- Đối với HS các lớp yếu, GV nên thiết kế lại các nhiệm vụ bài học cho vừa sức, tăng cường trợ giúp như cung cấp các từ gợi ý, cho trước khung mẫu, đặt câu hỏi gợi mở dạng trả lời có/không (yes/no question), v.v.
2. Các kĩ thuật dạy học tích cực sử dụng trong dạy các kỹ năng sản sinh (productive skills): nói và viết
HS luyện tập để có thể dùng ngoại ngữ để diễn đạt ý của mình nên các bước trong bài dạy kỹ năng nói và viết không giống với bài dạy nghe và đọc. Ở một số khía cạnh, dạy hai kỹ năng này gần giống dạy các kiến thức ngôn ngữ như từ vựng hoặc ngữ pháp: HS phải được cung cấp ngữ liệu, sau đó luyện tập các ngữ liệu đó và cuối cùng là sử dụng các ngữ liệu đó để diễn đạt ý tưởng của mình một cách tự do hơn. Mặt khác vì đây là bài luyện tập kỹ năng nên bài dạy nói / viết cũng có những hoạt động đặc thù.
Có thể chia bài dạy nói / viết thành 3 giai đoạn:
- giai đoạn chuẩn bị nói / viết
- giai đoạn luyện nói / viết có kiểm soát
- giai đoạn nói / viết tự do.
Để bài luyện nói / viết đạt hiệu quả cao các hoạt động luyện tập cần phải thú vị, hấp dẫn và có ý nghĩa, sát thực với đời sống và hoàn cảnh của HS. Bên cạnh đó cũng nên thiết kế các hoạt động có tính thách thức cao hoặc tạo khí thế thi đua giữa các cá nhân, các cặp hay nhóm HS bằng cách tính điểm, có giải thưởng hay phần thưởng cho những bài nói khá nhất, v.v.
Các kĩ thuật sử dụng trong giai đoạn chuẩn bị nói:
- Wordstorm
- Cross word/ puzzle words
- Word chain
- Guessing games
- Memory game
- Situation response
- Mind map
- Information gaps (Grid)
- Describe and draw/guess (Miêu tả và vẽ / đoán)
- Yes/ no contest
- …..
- Khai thác bài nói mẫu: tuỳ theo mục tiêu bài nói mà bài mẫu có thể là những phát ngôn đơn lẻ, một đoạn hội thoại hay một đoạn lời nói ngắn. GV sử dụng một số thủ thuật khi khai thác bài mẫu như:
+ Đọc to bài mẫu một lần, chú ý cách phát âm, trọng âm, ngắt giọng phù hợp, HS lắng nghe.
+ Đọc mẫu lần thứ hai, cho HS đọc theo.
- Dùng câu hỏi gợi mở (open questions) để HS tự rút ra cách sử dụng từ, cấu trúc cũng như ý nghĩa trong bài mẫu.
- Làm việc theo cặp/ nhóm (Pair-work / group-work): Cho HS luyện đọc bài mẫu cho thành thạo theo cặp/nhóm. Trong phần này GV cần chú trọng nhiều đến độ chính xác trong lời nói của HS và nên kịp thời sửa các lỗi sai về phát âm, ngữ pháp, từ vựng.
- Dạy trước một số từ vựng hoặc ngữ pháp cần thiết cho việc thực hiện bài tập nói (sử dụng các thủ thuật dạy từ vựng/ngữ pháp)
- Gợi mở để HS đóng góp những ý tưởng chung cho bài nói (có thể sử dụng hoạt động ‘động não’ (brainstorming) cho cả lớp hoặc cho HS làm việc theo nhóm, thảo luận và liệt kê các ý tưởng, sau đó đóng góp với cả lớp.
Lưu ý khi đưa ra yêu cầu và hướng dẫn cách thực hiện yêu cầu bài nói:
- Nếu bài nói có nhiều yêu cầu, nên dùng cách đưa yêu cầu theo từng bước (‘step by step intruction’).
- Không chỉ đưa ra yêu cầu mà còn phải làm mẫu cho HS thấy cách làm của từng bài như thế nào. Tuy nhiên, GV không nên trực tiếp làm mẫu mà giúp các HS khá giỏi trong lớp làm mẫu.
- Hỏi một vài câu hỏi để kiểm tra xem HS đã thực sự hiểu cách làm và yêu cầu của bài tập hay không.
GV sử dụng một số kĩ thuật sau đây để giúp HS luyện nói theo yêu cầu và sử dụng những ý hoặc từ vựng, cấu trúc cho trước.
- Kĩ thuật tổ chức luyện tập: nên tổ chức cho HS làm việc theo cặp / nhóm để tiết kiệm thời gian và luyện tập nói được nhiều nhất. Lưu ý: GV nên cho HS thay đổi thường xuyên các cặp, nhóm để HS có thể luyện được với nhiều đối tượng khác nhau và học được nhiều hơn. Có thể sử dụng các kĩ thuật chia nhóm thật nhanh:
+ Chia theo vần tên A, B, C
+ Chia theo màu áo
+ Chia theo độ dài của tóc, chiều cao...
- Vai trò của GV: một số GV quan niệm rằng sau khi đã làm mẫu và hướng dẫn đầy đủ cho HS là GV có thể ngồi nghỉ ngơi hoặc làm việc khác. Điều đó hoàn toàn không đúng, ở giai đoạn này GV đóng vai trò là người giám sát, giúp đỡ, điều phối. Trong khi HS làm việc theo cặp/nhóm, GV đi quanh các nhóm giám sát, nhắc nhở sao cho họ không sử dụng quá nhiều tiếng mẹ đẻ trong khi luyện tập ngoại ngữ, không có ai trong nhóm nói quá nhiều hoặc quá ít, nếu HS có vướng mắc gì về ngôn ngữ thì GV giúp HS giải quyết ngay.
- Kĩ thuật sửa lỗi: ở giai đoạn này GV không nên trực tiếp sửa lỗi cho HS mà nên bỏ qua các lỗi không quan trọng. Đối với các lỗi lặp đi lặp lại và phổ biến thì nên ghi chép lại, sau đó sửa chung ở trước cả lớp. GV nên chỉ nêu câu có lỗi ra ở trước lớp, sau đó khuyến khích HS tự tìm ra lỗi và tự sửa các lỗi đó.
Trong dạy viết ngoại ngữ người ta thường phân biệt ba loại hoạt động luyện viết khác nhau: viết có kiểm soát (controlled writing), viết có hướng dẫn (guided writing) và viết tự do (free writing). chương trình tiếng anh 12 tập trung vào các hoạt động viết có hướng dẫn:
Loại bài tập này đã đỡ máy móc hơn bài tập viết có kiểm soát nhưng vẫn chưa hoàn toàn là bài luyện kỹ năng viết giao tiếp. HS vẫn thực hiện các nhiệm vụ viết dưới sự hướng dẫn của GV mà chưa thể tự do dùng ngôn ngữ để giao tiếp với độc giả.
Dạy kĩ năng viết
- Trả lời câu hỏi ( sử dụng kĩ thuật ‘Five questions’ ) GV đặt các câu hỏi, HS trả lời các câu hỏi đó và sau đó ghép vào thành bài viết. nếu kết hợp luyện cả cấu trúc đoạn thì không để các câu hỏi theo trật tự. HS sẽ trả lời các câu hỏi riêng rẽ, sau đó sắp xếp các câu trả lời theo đúng trật tự một đoạn văn.
- Dùng từ cho sẵn để viết thành câu hoặc bài liền ý (sử dụng kĩ thuật ‘Ordering): cho trước một số từ cơ bản trong câu, HS phải sử dụng các từ đó để viết thành câu hoàn chỉnh có nghĩa. bài tập loại này có thể có mức độ khó dễ khác nhau. để tăng độ khó thì yêu cầu HS phải biến đổinhiều từ loại trong câu, thêm nhiều từ phụ như mạo từ, giới từ, v.v. và đảo lộn trật tự từ trong câu.
a) Dạy ngữ âm
Chương trình tiếng Anh THPT đưa phần ngữ âm vào dạy chính thức một cách có hệ thống nhưng thông qua các bài luyện tập thiết thực với HS chứ không đi vào các vấn đề lý thuyết ngữ âm. Sách giáo khoa tiếng anh 12 tập trung vào các vấn đề chính của ngữ âm như trọng âm từ, nhịp điệu trong câu tiếng Anh, và cách phát âm một số âm/từ ở vị trí đặc biệt. Trong phần luyện âm, vai trò hướng dẫn của GV là rất quan trọng. GV cần tìm hiểu và chuẩn bị kĩ để làm mẫu cho HS.
Một số kĩ thuật sử dụng dạy ngữ âm
- Same or different (đúng hay sai)
- Domino (trò chơi Domino)
- Tongue twist ( Trò chơi uốn lưỡi)
- Find the difference
- Odd one out
Dạy kiến thức ngôn ngữ
b) Dạy từ vựng
- Cần phân biệt ngữ nghĩa và cách sử dụng.
- Lưu ý:
Cách sử dụng của một từ phụ thuộc rất nhiều vào ngữ cảnh, thói quen của người bản ngữ và các mối quan hệ cùng với môi trường văn hoá và xã hội của họ. Cách sử dụng những ngữ liệu này chỉ có thể được hiểu rõ khi chúng được giới thiệu trong ngữ cảnh hay tình huống mà người bản ngữ đã sử dụng.
Chọn từ để dạy
Để lựa chọn từ cần dạy, cần xem xét những vấn đề từ chủ động - từ bị động (active and passive vocabulary)
● Từ chủ động là những từ HS hiểu, nhận biết và sử dụng được trong giao tiếp nói và viết.
● Từ bị động là những từ HS chỉ hiểu và nhận biết được khi nghe và đọc.
Cách dạy và giới thiệu hai loại từ này khác nhau. Từ chủ động có liên quan đến cả 4 kỹ năng: nghe, nói, đọc, viết, cần đầu tư thời gian để giới thiệu và luyện tập nhiều hơn, đặc biệt là cách sử dụng. Với từ bị động, có thể chỉ cần dừng lại ở mức nhận biết, không cần thực hiện các hoạt động ứng dụng. GV cần biết lựa chọn và quyết định xem từ nào là từ chủ động và từ nào là từ bị động.
Dùng giáo cụ trực quan (real objects)
GV có thể sử dụng các đồ vật trong lớp hoặc mang tới lớp, sử dụng tranh, ảnh, biểu bảng, sơ đồ hoặc có thể vẽ trực tiếp lên bảng. GV có thể sử dụng các hành động, cử chỉ, điệu bộ. bản thân GV và HS luôn là nguồn trực quan sinh động mà nếu khéo vận dụng sẽ đem lại hiệu quả tích cực.
Dùng tình huống ( situations)
GV có thể sử dụng các tình huống thực trong lớp hoặc ngoài lớp để chỉ ra nghĩa của từ. Ví dụ: GV có thể chỉ vào 1 nam HS ngồi giữa 2 nữ HS để giới thiệu ý nghĩa của từ between bằng cách nói Tuan is between Lan and Huong.
Kĩ thuật dạy nghĩa từ
Dùng ngôn ngữ lời nói:
GV có thể sử dụng tiếng Anh hoặc tiếng việt để chỉ ra ý nghĩa của từ mới. Có thể thực hiện bằng hình thức định nghĩa, sử dụng ngữ cảnh, sử dụng các từ đồng nghĩa, trái nghĩa hoặc dịch. Sau khi chỉ ra ý nghĩa của từ mới, GV có thể thực hiện một số các kĩ thuật sau để trình bày hình thức của từ đó.
- Vẽ tranh lên bảng để chỉ ra ý nghĩa của từ.
- Nói 1 hoặc 2 câu có chứa từ đó.
- Yêu cầu cả lớp lặp lại từ và cả câu đồng thanh 2 hoặc 3 lần.
- Viết từ hoặc câu đó lên bảng nếu cần thiết.
- Yêu cầu HS dịch câu đó sang tiếng việt.
- Đặt thêm ví dụ để củng cố từ.
- Đặt câu hỏi để HS trả lời trong đó có chứa từ vừa học.
- Yêu cầu HS chép từ vào vở.
Các kĩ thuật sử dụng khi dạy từ
- Matching
- Odd-man-out
- Cross word/ puzzle words
- Domino
- Quizz
- Grouping
- Arranging/ Ordering
- Blank-filling
- Substitution
- Replacement
- Sentence-building.
- …
Dạy các cấu trúc ngữ pháp có thể được thực hiện theo 2 cách chính:
- Diễn dịch: HS được cung cấp một quy tắc cấu trúc ngữ pháp kèm theo lời giải thích và ví dụ minh hoạ, sau đó HS luyện tập cách sử dụng.
- Quy nạp: HS được tiếp cận một loạt các ví dụ, từ các ví dụ này HS phải khái quát hoá thành các quy tắc với sự gợi ý của GV. Việc lựa chọn một trong hai cách này tuỳ thuộc vào độ khó của cấu trúc, năng lực của HS cũng như ý thích của GV.
Dạy ngữ pháp
Một số loại hình bài tập và kĩ thuật sử dụng khi dạy cấu trúc ngữ pháp
Việc luyện tập một cấu trúc ngữ pháp mới có thể thực hiện qua các loại hình bài tập sau đây:
- Repetition
- Substitution
- Conversion or transformation
- Matching
- Ordering/ rearranging
- Five questions
- Grid (completion)
* Một số tài liệu cũ có thể bị lỗi font khi hiển thị do dùng bộ mã không phải Unikey ...
Người chia sẻ: Hoàng Thị Xuân
Dung lượng: |
Lượt tài: 0
Loại file:
Nguồn : Chưa rõ
(Tài liệu chưa được thẩm định)