Tài liệu tham khảo: Một số nhân vật lịch sử
Chia sẻ bởi Đang bị khóa |
Ngày 11/05/2019 |
206
Chia sẻ tài liệu: Tài liệu tham khảo: Một số nhân vật lịch sử thuộc Lịch sử 7
Nội dung tài liệu:
HOÀI VĂN HẦU TRẦN QUỐC TOẢN
Trần Quốc Toản là con Trung Thành Vương, cháu nội của Nhân Đạo Vương được phong là Hoài Văn Hầu, mới 15 tuổi, vì không được dự hội nghị quân sự ở Bình Than bàn kế chống giặc Nguyên, căm thù giặc tay cầm quả cam bóp vỡ lúc nào không hay.
Ra về, Trần Quốc Toản huy động hơn ngìn gia nô và trai tráng trong vùng, mua sắm vũ khí, đóng chiến thuyền để đánh giặc, may lá cở hiệu, thêu sáu chữ vàng: " Phá cường địch, báo hoàng ân"( phá giặc mạnh, báo ơn vua) .
Trong cuộc kháng chiến chống Mông - Nguyên lần hai, khi đối trận với giặc, Trần Quốc Tuấn tự mình xông lên trước quân sĩ, giặc trông thấy phảo lui tránh, không giám đối địch. Quốc Tuấn dã góp phần vào chiến công to lớn ở Tây Kết và giải phóng kinh thành Thăng Long.
Trong trận chặn giặc rút lui trên dông Như Nguyệt, Trần Quốc Tuấn đã anh dũng hi sinh, đã góp phần vào chiến thắng Vạn Kiếp, quét sạch giặc Nguyên - Mông ra khỏi đất nước đại Việt.
Vua Trần Nhân Tông vô cùng thương tiếc, đich thân làm văn tế truuy tặng tước Hoài Văn Vương.
( Theo Các triều đại Việt Nam )
LÊ QUÝ ĐÔN
Lê Quý Đôn là nhà văn hoá lớn thời Hậu Lê, thuở nhỏ có ten76 là Lê Danh Phương, sau đổi là Lê Quý Đôn, tự Doãn Hậu, hiệu Quế Đường. Quê làng Duyên Hà, huyện Diên Hà, phủ Tiên Hưng, phủ Ơn Nam (nay thuộc tỉnh Thái Bình).
Ong xuất thân trong gia đình khoa bảng lâu đời, thân phụ là Lê Phú Thứ, làm quan triều Lê. Thuở nhỏ ông nổi tiếng thông minh, có trí nhớ phi thường, được nhiều người đương thời xem là thần đồng.
Năm Quý Hợi (1743) đỗ Giải Nguuyên, năm Nhâm Thân (1752)đỗ Đệ nhất giáp tiến sĩ cập đệ đệ nhị danh (Bảng nhãn). Từ thi Hương đến thi Hội đều đỗ đầu. Sau khi thi đỗ được bổ Thị tộc toà Hàn Lâm, sung Tư Nghiệp Quốc Tử Giám. Năm Canh thìn(1760)làm phó sứ đi sứ nhà Thanh ( Trung Quốc). Học vấn văn chương đựơc cả người Thanh và sứ thần Triều Tiên ca ngợi, khi về được phong tước Dĩnh Thành ba, rồi phong Hàn Lâm viện thừa chỉ, Đốc Đồng Hải Dương. Sau về Kinh làm Quốc tài Quốc sử quán cùng Nguyễn Hoàn khảo duyệt phần Tục biên Quốc sử.
Năm Quý tỵ (1773) đựoc bổ Phó Đô ngự sử, rồi phong Hữu thị lang bộ Công. Năm 1776 được cử làm Tham thị Tham tán quuân cơ các đạo Thuận Hoá - Quảng Nam. Sau đổi về Thăng Long làm Hành Tham tụng tại triều, được phong tước Dĩnh Thành hầu.
Ngày 2/6/1784 (năm Cảnh Hưng thứ 45), ông mất tại chức, thọ 58 tuổi. Sau khi mất được truy tặng Thượng thư Bộ công tước Dĩnh thành hầu.
Lê Quý Đôn là một học giả uyên bác, đa dạng và sung mãn nhất của văn hoá Việt Nam. Giới nghiên cứu thế giới (Pháp)xem ông là nhà bác học về lĩnh vựuc văn hoá của nước ta. Công trình trước tác và sáng tác của ông gồm một thư tịch đồ sộ về nhiều bộ môn: Lịch sử, địa lý, văn học, ngôn ngữ học, triết học .
Các tác phẩm chính gồm:
Quốc sử tục biên ( 8 quyển )
Đại Việt thông sử hay Lê triều thông sử ( 30 quyển )
Phủ biên tạp lục ( 7 quyển )
Quân thư khảo viện ( 4 quyển )
Xuân thu lựoc luận
Bắc sử thông lục ( 3 quyển )
Toàn Việt thi lục ( 20 quyển )
Vân đài loại ngữ ( 4 quyển )
Quế Đường văn tập ( 3 quyển )
Dịch kinh phủ quyết ( 6 quyển )
Kiến văn tiểu lục ( 3 quyển )
Danh thần lục ( 2 quyển )
Thư kinh diễn nghĩa ( 3 quyển )
Toàn Việt văn tập ( 20 quyển )
Hoàng Việt vân hải ( 10 quyển )
Quế Đường thi tập (4 quyển )
và một số thơ, thơ phú bằng chữ Nôm .
Trong Lịch triều hiến chương loại chí, khi bình luận , ông Phan Huy Chú viết : " Ong ( Lê Quý Đôn) tư chất khác đời, thông minh hơn người . Bình sinh làm sách rất nhiều, khi bàn về kinh sử thì rất sâu sắc, rộng rãi, mà nói đến điển cổ thì đầy đủ rõ ràng. Cái sở trường của ông vượt hơn cả, nổi tiếng ở trên đời".
( Theo Từ điển NVLSVN )
Ỷ LAN
Nói đến triều Lý không thể không nói về Ỷ Lan, một trong những danh nhân có tài trị nước cua dân tộc. Tên thật của Ỷ Lan là Lê Thị Yến, quê ở làng Thổ Lỗi sau đổi thanh Siêu Loại ( Thuận Thành, Bắc Ninh ) nay thuộc Gia Lâm, Hà Nội. Vì mẹ mất từ năm 12 tuổi, cha lấy vợ kể nên thân phận của Ỷ Lan khổ như cô Tấm tong truyện cổ tích. Sử ghi: Ỷ Lan là cô tấm lộ Bắc, hay gọi đền thờ Ỷ Lan ở Dương Xá ( Gia Lâm, Hà Nội ) là đền thờ bà Tấm là vì thế.
Năm ấy, vua Lý Thánh Tông 40 tuổi chưa có con trai nối dõi nên về chùa Dâu cầu tự. Vua và quần thần vãn xem phong cảnh trong vùng, chợt thấy trong ngày hội vui, mà trên nương vẫn có một cô gái vừa hái dâu vừa hát. Vua vời xuống hỏi sự tình. Thấy Lê Thị Yến bội phần xinh đẹp, đối đáp lại lưu loát. Vua cảm mếm đưa về triều, rồi phong làm Nguyên phi, cho xây một cung riêng, đặt tên là cung Ỷ Lan để nhớ lại sự tích cô gái tựa gốc cây lan buổi đầu gặp gỡ.
Khác với các hậu phi, Ỷ lan không lấy việc trau chuốt nhan sắc, mong chiếm được cảm tình của nhà vua mà quan tâm hết thảy mọi công việc tong triều. Y Lan khổ công học hỏi, miệt mài đọc sách, nghiền ngẫm nghĩa sách nên chỉ trrong một thời gian ngắn, mọi người đều kinh ngạc trước sự hiểu biết uyên thâm về nhiều mặt của Ỷ Lan. Triều thần khâm phục Ỷ lan là một người có tài.một lần vua Lý Thánh Tông hỏi Ỷ Lan về kế trị nước, Ỷ Lan tâu rằng :
Muốn dân giàu nước mạnh, điều hệ trọng là biết nghe lời can gián của đấng trung thần. Lời nói ngay nghe chướng tai nhưng có lợi cho việc làm. Điều hệ trọng thứ hai là phải xem quyền hành là một thứ đáng sợ. Danh vọng và quyền lực thường làm thay đổi con người. Tự mình tu đức để dưỡng hoá dân thì sâu hơn mệnh lệnh.dân bắt chước người tên thì nhanh hơn pháp luật. Nước muốn mạnh, Hoàng đế còn phải nhân từ với muôn dân. Phàm xoay thiên hạ ở nhân chứ không phải ở bạo. Hội đủ nhưãng điều kiện ấy thì nước Đại Việt sẽ lớn mạnh.
Nghe Ỷ Lan tâu, vua phục lắm. Bởi thế năm 1069, vua thân cầm quân đi đánh giặc, đã tao quyền nhiếp chính cho Ỷ Lan. Cũng trong năm ấy, không may nước Đại Việt không may bị lụt lớn, mùa màng thất bát, nhiều nơi sinh loạn. Nhưng nhờ có kế sách trị nước đúng đắn, quyết đoàn táo bạo, loạn lạc đã được dẹp yên, dân đói đã được cứu sống. Cảm cái ơn ấy, cũng là cách suy tôn một tài năng, nhân dân đã tôn thờ bà là Quan âm nữ, lập bàn thờ Ỷ Lan. Vua đánh giặc lâu không thắng, bèn trao quyền bính cho Lý Thường Kiệt, đem một cánh quân nhỏ quay về. Đến châu Cư Liên ( Tiên Lữ, Hưng Yên ) hay tin Ỷ Lan đã đưa đất nước vượt qua muôn trùng khó khăn, giữ cảnh thái bình, thịnh trị, vua hổ thẹn quay ra trận đánh cho kì thắng mới về.
Năm Nhâm tý( 1072), vua Lý Thánh Tông đột ngột qua đời, triều Lý không tránh khỏi rối ren. Nhưng khi Ỷ Lan trở thành Hoàng thái hậu nắm quyền nhiếp chính và Lý Thường Kiệt nắm quyền tể tưởng thì nước Đại Việt lại khởi sa sắc, nhanh chóng thịnh cường. Y Lan đã thi hành những biện pháp dựng nước yên dân, khiến cho thế nước và sức dân mạnh hẳn lên. Năm Đinh tỵ (1077), Tổng triều phát động đại binh sang xâm lược. Để Lý Thường Kiệt rảnh tay lo việc trận mạc, Ỷ Lan đã bỏ qua hiềm khích cũ, điều Lý Tự Thành từ Nghệ An về, trao chức Thái sư như cũ, để cùng mình điều khiển triều đình, huy động sức người sức của vào trận. Nhờ vậy, nước Đại Việt đã làm nên chiến thắng hiển hách, quân giặc hùng hổ toan làm cỏ nước Đại Việt đã phải cam chịu thất bại, lủi thủi rút quân trở về nước.
Làm nên chiền thắng này, công Thái hậu Ỷ Lan thật lớn. Nhưng trong đời Ỷ Lan khng6 phải không có tì vết. Sau khi vua Lý Thánh Tông qua đời, Hoàng hậu Thượng Dương dựa vào thế lực của Thái sư Lý Tự Thành, đã gạt Ỷ Lan ra khỏi triều đình. Mãi 4 tháng sau, có Lý Thường Kiệt giúp sức, Ỷ Lan mới trở lại quyền nhiếp chính. Bà 9ã bắt giam Hoàng hậu Thượng Dương cùng 72 cung nữ vào lãnh cung, bỏ đói cho đến chết. Vì tội trạng ấy, sử sách phong kiến đã xoá sạch mọi công lao của bà đối với dân nước, mà quên mất rằng, trong nghiệp làm chính trị, đó là chuyện thường thấy.
( Theo Các triều đại Việt Nam )
HUYỀN TRÂN CÔNG CHÚA
Tháng 3 năm Tân sửu (1301) thượng hoàng Trần Nhân Tông làm cuộc viễn du sang kinh đô Chiêm Thành. Để tăng thêm quan hệ hoà hiếu giữa hai nước Đại Việt - Chiêm Thành, thượng hoàng hứa gả con gái cho vua Chiêm. Bởi vậy, năm Đinh ngọ( 1306), sau khi nhận lễ vật gồm hương quý và vàng bạc cầu hôn, vua Trần Anh Tông gả công chúa Huyền Trân cho vu Chiêm là Chế Mân. Chế Mân đem đất châu Ô, châu Lý làm vật dẫn cưới và phong Huyền Trân làm hoàng hậu. Việc công chúa Việt kết duyên cùng vua Chiêm là hợp lẽ, môn đăng hộ đối, chưa kể cuộc hôn nhân ấy là cái cầu giao hảo chính tị, xoá bỏ hiềm khích, hận thù để hai dân tộc được sống bình yên. Nhưng triều Trần không nhất trí. Nhiều người nặng óc kì thị dân tộc lên tiếng phản đối. Họ làm thơ quốc âm để chê cười vua Trần, tiếc nàng công chúa sắc nước hương trời. Nhưng cũng có nhiều người, trong đó có Trần Khắc Chung cho là việc tốt đẹp nên làm. Chỉ tội cho Huyền Trân, nàng đâu đã biết gì về đất nước và vị vua ấy.
Huyền Trân ve
* Một số tài liệu cũ có thể bị lỗi font khi hiển thị do dùng bộ mã không phải Unikey ...
Người chia sẻ: Đang bị khóa
Dung lượng: |
Lượt tài: 3
Loại file:
Nguồn : Chưa rõ
(Tài liệu chưa được thẩm định)