Tác phẩm Đời thừa
Chia sẻ bởi Nguyễn Quỳnh Chi |
Ngày 21/10/2018 |
20
Chia sẻ tài liệu: Tác phẩm Đời thừa thuộc Bài giảng khác
Nội dung tài liệu:
Bài ôn tập
Đời thừa – Nam Cao
I. Khái quát
A. Tác giả Nam Cao và tác phẩm “Đời thừa”:
1. Tác giả Nam Cao:
- Tên thật là Trần Hữu Tri (1915-1951)
- Bản thân là một trí thức nghèo, vất vả.
- 1943 , tham gia Hội văn hóa cứu quốc. Sau CM T8 vừa viết văn vừa tham gia cách mạng.
- Là một nhà văn hiện thực lớn của văn học Việt Nam.
2. Tác phẩm Đời thừa:
Bạn hãy cho biết, tác phẩm “Đời thừa” ra đời năm nào?
Hãy cho biết đề tài của tác phẩm và một số tác phẩm khác có cùng một đề tài như vậy.
Trả lời:
Tác phẩm “Đời thừa” ra mắt bạn đọc lần đầu tiên trong trang “Tiểu thuyết Thứ Bảy, Hà Nội, số 490, ra ngày 4-12-1943.
Tác phẩm viết về cuộc sống của người trí thức tiểu tư sản, một nhà văn nghèo bất đắc chí, vỡ mộng.
Các tác phẩm có cùng nội dung đề tài có thể kể đến như “Mực mài nước mắt” (Lan Khai), “Nợ văn” (Lãng Tử), “Tàn đèn dầu lạc” (Nguyễn Tuân), Tản Đà với hai câu thơ đầy uất ức trong “Thăm mã cũ bên đường”
Tài cao phận thấp chí khí uất,
Giang hồ mê chơi quên quê hương.
Và Xuân Diệu cau mặt với nỗi đời:
Nỗi đời cay cực đang giơ vuốt,
Cơm áo không đùa với khách thơ.
Còn có các tác phẩm như “Giăng sáng”, “Nước mắt”, “Sống mòn” của Nam Cao.
Đời thừa đã ghi lại chân thật hình ảnh buồn thảm của người tri thức tiểu tư sản nghèo. Tuy không đến nỗi quá đen tối, “tối như mực” lắm khi “đen quánh lại” – chữ dùng của Nguyễn Tuân -, như cuộc sống của quần chúng lao động thường xuyên đói rét thê thảm, nhưng cuộc sống của những người “lao động áo trắng”, những “vô sản đeo cổ cồn” đó cũng toàn một màu xám nhức nhối: “không tối đen mà xam xám nhờ nhờ” (Xuân Diệu). Vì nghèo túng triền miên, vì “chết mòn” về tinh thần.
Với tác phẩm này, nhà văn đã xoáy sâu vào tấn bi kịch tinh thần của người trí thức, qua đó đặt ra những vấn đề có ý nghĩa khái quát xã hội và triết luận sâu săc
B. Vị trí tác phẩm:
Hãy cho biết vị trí của tác phẩm trong mảng đề tài viết về trí thức tư sản của Nam Cao
Trả lời:
Trong mảng sáng tác về đề tài tiểu tư sản của Nam Cao, Đời thừa có một vị trí đặc biệt. Cũng như tiểu thuyết Sống mòn, Đời thừa là sự tổng hợp của ngòi bút Nam Cao trong đề tài tiểu tư sản, là tác phẩm đã thể hiện khá hoàn chỉnh tư tưởng nghệ thuật cơ bản của nhà văn. Có điều, trong khuôn khổ truyện ngắn, sự tổng hợp ấy không xảy ra trên bề rộng mà chủ yếu tập trung đi vào bề sâu.
Qua nhân vật trung tâm Hộ, Nam Cao đã kí thác đầy đủ những tâm sự sâu kín, hoài bão lớn của ông về sự nghiệp văn chương cũng như quan niệm độc đáo về con người.
C. Cảm hứng tư tưởng:
Trong tác phẩm, Nam Cao đã thể hiện hai tấn bi kịch rất lớn của con người trí thức. Hãy cho biết đó là hai tấn bi kịch nào.?
Trả lời:
Bi kịch thứ nhất là bi kịch tinh thần của người trí thức có ý thức về sực sống, muốn tự khẳng định mình bằng sự nghiệp có ích cho xã hội nhưng phải sống kiếp đời thừa, người thừa, bị xói mòn về nhân cách, rơi vào bi kịch tinh thần đau đớn nhất.
Tấn bi kịch thứ hai đau đớn hơn, dai dẳng hơn chính là bi kịch của con người lấy tình thương làm nguyên tác sống, đạo lí, nhưng lại tự phủ nhận mình, tự làm nhem nhuốc lý tưởng của mình.
Giá trị của Đời thừa không phải chỉ ở chỗ đã miêu tả chân thật cuộc sống nghèo khổ, bế tắc của người trí thức tiểu tư sản nghèo, đã viết về người tiểu tư sản không phải với ngòi bút vuốt ve, thi vị hoá, mà còn vạch ra cả những thói xấu của họ
Cách nói đó dường như xác đáng, song chỉ thấy một lớp ý nghĩa, lớp bên trên của tác phẩm. Mà với Nam Cao, cách nhìn như vậy vô tình thu hẹp và hạ thấp rất nhiều tầm tư tưởng của truyện. Khác với các tác phẩm của Nguyễn Công Hoan, Ngô Tất Tố, Vũ Trọng Phụng, truyện của Nam Cao thuộc loại có nhiều lớp nghĩa, tư tưởng truyện không phải luôn trùng khít với nội dung cuộc sống đựơc phản ánh trong truyện. Trong khi dựng lại chân thật tình cảnh nhếch nhác của người trí thức nghèo, ngòi bút Nam Cao đã tập trung xoáy sâu vào tấn bi kịch tinh thần của họ, qua đó, đặt ra một loạt vấn đề có ý nghĩa khái quát xã hội và triết học sâu sắc.
Chuyện Hộ “mê văn”, có “hoài bão lớn” về văn chương và khao khát tên tuổi chói sáng, là một hiện tượng phổ biến, có ý nghĩa điển hình.
II. Phân tích cụ thể
A. Giá trị tư tưởng:
1. Bi kịch tinh thần của nhà văn:
a. Hộ - một nhà văn thời thực dân phong kiến:
Hãy nêu một vài chi tiết trong truyện thể hiện Hộ là một nhà văn có hoài bão lớn.
Trả lời:
“mê văn” , “ôm ấp hoài bão lớn”
“đói rét không có nghĩa lý gì với gã trẻ tuổi say mê lý tưởng”
“Cả đời tôi sẽ chỉ viết một quyển thôi, nhưng quyển ấy sẽ ăn giải Nobel và dịch ra mọi thứ tiếng trên toàn cầu.
Hộ mang trong lòng một niềm đam mê lí tưởng mãnh liệt, trong trẻo và đầy lãng mạn, ước mơ tưởng chừng không có giới hạn. Từ chỗ đặt vấn đề như vậy, Nam Cao đã thể hiện sâu sắc cái nhìn nhân đạo mới mẻ của ông.
b. Cái nhìn nhân đạo sâu sắc, mới mẻ và độc đáo của Nam Cao về con người:
Hãy cho biết cái nhìn sâu sắc của Nam Cao về con người ở đây là gì? Hãy phân tích để làm rõ quan niệm này của nhà văn?
Cái nhìn nhân đạo của Nam Cao đã thể hiện một quan niệm về con người đó là ý thức cái tôi cá nhân cá thể, nhưng không đánh mất nhân tính, tình tự nhân loại.
Hộ thức tỉnh mạnh mẽ về ý thức cá nhân, mang một cái tôi cá nhân ý thức có nhu cầu tự khẳng định mình bằng tài năng và năng lực nhân tính. Hộ không chấp nhận sống tẻ nhạt, vô vị trong “ao đời phẳng lặng” (Xuân Diệu). Hộ muốn để lại dấu ấn giữa cuộc đời, nên đã gieo mình vào bến đời bằng sự nghiệp văn chương. Hộ “khao khát làm một cái gì để nâng cao sự sống”, Vì vậy mà văn chương trở thành sự nghiệp tinh thần để khẳng định bản thân, để làm đầy đời sống tinh thần và để phát triển tận độ năng lực bản thân.
Thứ trong “Sống mòn” ám ảnh da diết “chết trong khi đang sống”, “chẳng dùng mình vào việc gì cả”
Thứ kêu thống thiết “Đau đớn thay những kiếp sống khao khát muốn vươn lên cao nhưng lại bị cơm áo gì sát đất” => nỗi đau tinh thần ko thể xoa dịu đối vs ng trí thức tự khẳng định mình
Hộ trong “Đời thừa” day dứt đau khổ miên man vì “nợ cơm áo ghì sát đất” => viết những trang văn cẩu thả vì thiếu độ nồng tình cảm với đời. Như vậy là tự phủ nhận cái tôi cá nhân tự ý thức.
“Còn gì đau đớn cho một kẻ vẫn khao khát làm một cái gì để nâng cao sự sống, giá trị đời sống của mình mà kết cục chẳng được gì, chỉ những cơm áo mà đủ mệt?” =>bi kịch của con người ý thức sâu sa về sự sống, nhưng bị nhấn chìm
Sự tương đồng giữa Nam Cao với các nhà văn lãng mạn:
Hãy cho biết những nét tương đồng giữa Nam Cao và các nhà văn lãng mạn thể hiện qua những phương diện nào và đưa ra một vài ví dụ cụ thể
Sự mới mẻ trong quan niêm nghệ thuật về con người của Nam Cao:
Quan niệm nghệ thuật của Nam Cao về con người mang một vẻ mới mẻ so với nhiều nhà văn cùng thời, hãy cho biết sự mới mẻ đó là gì?
Cái tôi trong văn học lãng mạn luôn bị xã hội bóp chết, thu mình lại trong vòng đời cá nhân khép kín, tự thực hiện sự phát triển cá nhân của chính mình.
Với Nam Cao, yêu cầu khẳng định mình và phát triển cái tôi cá nhân cá thể gắn liền vs trách nhiệm xã hội, hướng theo lí tưởng nhân đạo tiến bộ. Hộ luôn ý thức khẳng định mình bằng văn chương chân chính, mang tinh thần nhân văn cao đẹp với tình thương, lòng bác ác và sự công bằng
Trả lời
Nam Cao đã đề cập gần như trực diện tới vấn đề cá nhân, nói lên yêu cầu được khẳng định và phát triển của cá nhân
Chủ đề này không có trong sáng tác của Ngô Tất Tố, Nguyễn Công Hoan, nhưng lại là chu đề tâm huyết của Nam Cao. Khao khát được làm đầy trái tim, khao khát được sống mạnh mẽ, sâu sắc, vượt lên trên cái bằng phẳng tầm thường, sự ghê sợ điệu sống mòn mỏi, vô vị…, là những điều da diết ở các tác phẩm Phấn thông vàng, Kinh cầu nguyện của những kẻ đi làm, hay Thiếu quê hương, Tuỳ bút (I, II), Chiếc lư đồng mắt cua…, nhưng cũng chính là những điều nung nấu ở tác giả Đời thừa. Chủ đề ấy chính là một biểu hiện mới mẻ của chủ nghĩa nhân đạo trong văn học Việt Nam thế kỷ XX. Nếu như phần nhiều cái “tôi” trong văn học lãng mạn trong khi giãy giụa “nổi loạn” “chống lại xã hội thù địch với nó, nó càng ngày càng khép kín, chỉ còn tự thực hiện và tự “phát triển” trong sự đối lập với xã hội; thì ở Nam Cao, yêu cầu khẳng định và phát triển cá nhân luôn gắn liền với trách nhiệm xã hội, hướng theo lí tưởng nhân tạo tiến bộ. Hoài bão cá nhân mà Hộ say mê đạt tới để tự khẳng định trước cuộc đời là một sự nghiệp văn chương, nhưng là thứ văn chương chân chính, mang tinh thần nhân đạo cao đẹp, “nó ca ngợi tình thương, lòng bác ái, sự công bình”…
2. Bi kịch tinh thần của một người trí thức phản bội nguyên tác sống nhân đạo.
Trong “Đời thừa”, Nam Cao có viết : “có thể hi sinh tình yêu, thứ tình yêu vị kỷ đi; nhưng hắn không thể từ bỏ lòng thương; có lẽ hắn nhu nhược, hèn nhát, tầm thường, nhưng hắn vẫn còn được là một con người”. Hãy cho biết câu văn trên có ý nghĩa gì với việc thể hiện bi kịch tinh thần của người trí thức.
Trả lời:
Với Hộ, nghệ thuật có ý nghĩa thiêng liêng, cao quý của sự sống, giá trị con người, là lý tưởng và hoài bão của anh.
Tuy nhiên theo Hộ, tình thương là tiêu chuẩn định giá tư cách, nhân cách, phẩm chất của một con người, không tình thương, con người chỉ sống với phần con.
Với câu văn trên của nhà văn Nam Cao, ta hiểu được vì sao Hộ rơi vào bi kịch tinh thần đầy đau đớn khi đặt tình thương, trách nhiêm với con người lên trên nghệ thuật. Chính câu văn đã đẩy Hộ vào mộ sự lựa chọn nghiệt ngã, vật vã hơn nhiều so với Điền trong “Giăng sáng”.
Hộ từ bỏ văn chương ko phải là từ bỏ đam mê tội lỗi mà là từ bỏ ý nghĩa giá trị sự sống của mình => Hộ lại vi phạm nguyên tắc sống nhân đạo và rơi vào bi kịch tinh thần
Nam Cao dứt khoác lên án cái xấu, cái ác để bảo vệ tình thương. Hộ lâm vào bế tắc nhưng không trả thù xã hội mà vươn lên sống nhân đạo, giữ được vẻ đẹp tình thương
Hộ nhìn Từ ngủ và “khóc nức nở”, nghẹn ngào xỉ vả mình: “anh…anh… chỉ là… một thằng…khốn nạn!” => đây là “giọt châu loài người” đã gội rửa thanh lọc tâm hồn anh, giữ lại anh trên mảnh đất tràn đầy nhân tính
3. Quan điểm nghệ thuật
Qua tác phẩm Đời thừa, hãy nêu lên quan điểm nghệ thuật của Nam Cao.
Trả lời
Phê phán lối văn chương tả chân hời hợt, chỉ tả được cái bề ngoài của hiện thực cuộc sống, các xác của xã hội.
Giá trị của văn chương đích thực phải thắm đượm lí tưởng nhân đạo lớn lao, có giá trị nhân loại phổ biến, đề cập đến những vấn đề liên quan đến vận mệnh con người. Văn chương chân chính vừa là văn chương vừa đau nỗi đau nhân tình vừa hướng con người về với niềm tin và khát vọng sống hoàn thiện, nhân ái và hòa hợp.
Nhà văn là người sáng tạo cái đẹp, phải có lương tâm trách nhiệm và khẳng định phong cách nghệ thuật độc đáo của riêng mình
B. Giá trị nghệ thuật
Đời thừa có nét đặc sắc về nghệ thuật tập trung ở ba điểm, hãy chỉ ra những đặc sắc nghệ thuật đó.
Trả lời
Lối kể chuyện tự nhiên dung dị, nhưng độc đáo, đặc biệt, của một ngòi bút truyện ngắn bậc thầy.
Nghệ thuật xây dựng nhân vật: nhân vật tư tưởng mà hạt nhân cơ bản tư tưởng tự ý thức; đi sâu vào ngóc ngách tâm hồn của nhân vật để phân tích
Kết cấu: theo dòng tâm tư, dòng ý thức nội tâm của nhân vật.
III. Kết luận
Truyện ngắn xuất sắc, có ý nghĩa kết tinh, tổng hợp những giá trị tư tưởng của Nam Cao trước CM T8
Nêu lên nguyên tắc lớn về sống và viết
Đời thừa – Nam Cao
I. Khái quát
A. Tác giả Nam Cao và tác phẩm “Đời thừa”:
1. Tác giả Nam Cao:
- Tên thật là Trần Hữu Tri (1915-1951)
- Bản thân là một trí thức nghèo, vất vả.
- 1943 , tham gia Hội văn hóa cứu quốc. Sau CM T8 vừa viết văn vừa tham gia cách mạng.
- Là một nhà văn hiện thực lớn của văn học Việt Nam.
2. Tác phẩm Đời thừa:
Bạn hãy cho biết, tác phẩm “Đời thừa” ra đời năm nào?
Hãy cho biết đề tài của tác phẩm và một số tác phẩm khác có cùng một đề tài như vậy.
Trả lời:
Tác phẩm “Đời thừa” ra mắt bạn đọc lần đầu tiên trong trang “Tiểu thuyết Thứ Bảy, Hà Nội, số 490, ra ngày 4-12-1943.
Tác phẩm viết về cuộc sống của người trí thức tiểu tư sản, một nhà văn nghèo bất đắc chí, vỡ mộng.
Các tác phẩm có cùng nội dung đề tài có thể kể đến như “Mực mài nước mắt” (Lan Khai), “Nợ văn” (Lãng Tử), “Tàn đèn dầu lạc” (Nguyễn Tuân), Tản Đà với hai câu thơ đầy uất ức trong “Thăm mã cũ bên đường”
Tài cao phận thấp chí khí uất,
Giang hồ mê chơi quên quê hương.
Và Xuân Diệu cau mặt với nỗi đời:
Nỗi đời cay cực đang giơ vuốt,
Cơm áo không đùa với khách thơ.
Còn có các tác phẩm như “Giăng sáng”, “Nước mắt”, “Sống mòn” của Nam Cao.
Đời thừa đã ghi lại chân thật hình ảnh buồn thảm của người tri thức tiểu tư sản nghèo. Tuy không đến nỗi quá đen tối, “tối như mực” lắm khi “đen quánh lại” – chữ dùng của Nguyễn Tuân -, như cuộc sống của quần chúng lao động thường xuyên đói rét thê thảm, nhưng cuộc sống của những người “lao động áo trắng”, những “vô sản đeo cổ cồn” đó cũng toàn một màu xám nhức nhối: “không tối đen mà xam xám nhờ nhờ” (Xuân Diệu). Vì nghèo túng triền miên, vì “chết mòn” về tinh thần.
Với tác phẩm này, nhà văn đã xoáy sâu vào tấn bi kịch tinh thần của người trí thức, qua đó đặt ra những vấn đề có ý nghĩa khái quát xã hội và triết luận sâu săc
B. Vị trí tác phẩm:
Hãy cho biết vị trí của tác phẩm trong mảng đề tài viết về trí thức tư sản của Nam Cao
Trả lời:
Trong mảng sáng tác về đề tài tiểu tư sản của Nam Cao, Đời thừa có một vị trí đặc biệt. Cũng như tiểu thuyết Sống mòn, Đời thừa là sự tổng hợp của ngòi bút Nam Cao trong đề tài tiểu tư sản, là tác phẩm đã thể hiện khá hoàn chỉnh tư tưởng nghệ thuật cơ bản của nhà văn. Có điều, trong khuôn khổ truyện ngắn, sự tổng hợp ấy không xảy ra trên bề rộng mà chủ yếu tập trung đi vào bề sâu.
Qua nhân vật trung tâm Hộ, Nam Cao đã kí thác đầy đủ những tâm sự sâu kín, hoài bão lớn của ông về sự nghiệp văn chương cũng như quan niệm độc đáo về con người.
C. Cảm hứng tư tưởng:
Trong tác phẩm, Nam Cao đã thể hiện hai tấn bi kịch rất lớn của con người trí thức. Hãy cho biết đó là hai tấn bi kịch nào.?
Trả lời:
Bi kịch thứ nhất là bi kịch tinh thần của người trí thức có ý thức về sực sống, muốn tự khẳng định mình bằng sự nghiệp có ích cho xã hội nhưng phải sống kiếp đời thừa, người thừa, bị xói mòn về nhân cách, rơi vào bi kịch tinh thần đau đớn nhất.
Tấn bi kịch thứ hai đau đớn hơn, dai dẳng hơn chính là bi kịch của con người lấy tình thương làm nguyên tác sống, đạo lí, nhưng lại tự phủ nhận mình, tự làm nhem nhuốc lý tưởng của mình.
Giá trị của Đời thừa không phải chỉ ở chỗ đã miêu tả chân thật cuộc sống nghèo khổ, bế tắc của người trí thức tiểu tư sản nghèo, đã viết về người tiểu tư sản không phải với ngòi bút vuốt ve, thi vị hoá, mà còn vạch ra cả những thói xấu của họ
Cách nói đó dường như xác đáng, song chỉ thấy một lớp ý nghĩa, lớp bên trên của tác phẩm. Mà với Nam Cao, cách nhìn như vậy vô tình thu hẹp và hạ thấp rất nhiều tầm tư tưởng của truyện. Khác với các tác phẩm của Nguyễn Công Hoan, Ngô Tất Tố, Vũ Trọng Phụng, truyện của Nam Cao thuộc loại có nhiều lớp nghĩa, tư tưởng truyện không phải luôn trùng khít với nội dung cuộc sống đựơc phản ánh trong truyện. Trong khi dựng lại chân thật tình cảnh nhếch nhác của người trí thức nghèo, ngòi bút Nam Cao đã tập trung xoáy sâu vào tấn bi kịch tinh thần của họ, qua đó, đặt ra một loạt vấn đề có ý nghĩa khái quát xã hội và triết học sâu sắc.
Chuyện Hộ “mê văn”, có “hoài bão lớn” về văn chương và khao khát tên tuổi chói sáng, là một hiện tượng phổ biến, có ý nghĩa điển hình.
II. Phân tích cụ thể
A. Giá trị tư tưởng:
1. Bi kịch tinh thần của nhà văn:
a. Hộ - một nhà văn thời thực dân phong kiến:
Hãy nêu một vài chi tiết trong truyện thể hiện Hộ là một nhà văn có hoài bão lớn.
Trả lời:
“mê văn” , “ôm ấp hoài bão lớn”
“đói rét không có nghĩa lý gì với gã trẻ tuổi say mê lý tưởng”
“Cả đời tôi sẽ chỉ viết một quyển thôi, nhưng quyển ấy sẽ ăn giải Nobel và dịch ra mọi thứ tiếng trên toàn cầu.
Hộ mang trong lòng một niềm đam mê lí tưởng mãnh liệt, trong trẻo và đầy lãng mạn, ước mơ tưởng chừng không có giới hạn. Từ chỗ đặt vấn đề như vậy, Nam Cao đã thể hiện sâu sắc cái nhìn nhân đạo mới mẻ của ông.
b. Cái nhìn nhân đạo sâu sắc, mới mẻ và độc đáo của Nam Cao về con người:
Hãy cho biết cái nhìn sâu sắc của Nam Cao về con người ở đây là gì? Hãy phân tích để làm rõ quan niệm này của nhà văn?
Cái nhìn nhân đạo của Nam Cao đã thể hiện một quan niệm về con người đó là ý thức cái tôi cá nhân cá thể, nhưng không đánh mất nhân tính, tình tự nhân loại.
Hộ thức tỉnh mạnh mẽ về ý thức cá nhân, mang một cái tôi cá nhân ý thức có nhu cầu tự khẳng định mình bằng tài năng và năng lực nhân tính. Hộ không chấp nhận sống tẻ nhạt, vô vị trong “ao đời phẳng lặng” (Xuân Diệu). Hộ muốn để lại dấu ấn giữa cuộc đời, nên đã gieo mình vào bến đời bằng sự nghiệp văn chương. Hộ “khao khát làm một cái gì để nâng cao sự sống”, Vì vậy mà văn chương trở thành sự nghiệp tinh thần để khẳng định bản thân, để làm đầy đời sống tinh thần và để phát triển tận độ năng lực bản thân.
Thứ trong “Sống mòn” ám ảnh da diết “chết trong khi đang sống”, “chẳng dùng mình vào việc gì cả”
Thứ kêu thống thiết “Đau đớn thay những kiếp sống khao khát muốn vươn lên cao nhưng lại bị cơm áo gì sát đất” => nỗi đau tinh thần ko thể xoa dịu đối vs ng trí thức tự khẳng định mình
Hộ trong “Đời thừa” day dứt đau khổ miên man vì “nợ cơm áo ghì sát đất” => viết những trang văn cẩu thả vì thiếu độ nồng tình cảm với đời. Như vậy là tự phủ nhận cái tôi cá nhân tự ý thức.
“Còn gì đau đớn cho một kẻ vẫn khao khát làm một cái gì để nâng cao sự sống, giá trị đời sống của mình mà kết cục chẳng được gì, chỉ những cơm áo mà đủ mệt?” =>bi kịch của con người ý thức sâu sa về sự sống, nhưng bị nhấn chìm
Sự tương đồng giữa Nam Cao với các nhà văn lãng mạn:
Hãy cho biết những nét tương đồng giữa Nam Cao và các nhà văn lãng mạn thể hiện qua những phương diện nào và đưa ra một vài ví dụ cụ thể
Sự mới mẻ trong quan niêm nghệ thuật về con người của Nam Cao:
Quan niệm nghệ thuật của Nam Cao về con người mang một vẻ mới mẻ so với nhiều nhà văn cùng thời, hãy cho biết sự mới mẻ đó là gì?
Cái tôi trong văn học lãng mạn luôn bị xã hội bóp chết, thu mình lại trong vòng đời cá nhân khép kín, tự thực hiện sự phát triển cá nhân của chính mình.
Với Nam Cao, yêu cầu khẳng định mình và phát triển cái tôi cá nhân cá thể gắn liền vs trách nhiệm xã hội, hướng theo lí tưởng nhân đạo tiến bộ. Hộ luôn ý thức khẳng định mình bằng văn chương chân chính, mang tinh thần nhân văn cao đẹp với tình thương, lòng bác ác và sự công bằng
Trả lời
Nam Cao đã đề cập gần như trực diện tới vấn đề cá nhân, nói lên yêu cầu được khẳng định và phát triển của cá nhân
Chủ đề này không có trong sáng tác của Ngô Tất Tố, Nguyễn Công Hoan, nhưng lại là chu đề tâm huyết của Nam Cao. Khao khát được làm đầy trái tim, khao khát được sống mạnh mẽ, sâu sắc, vượt lên trên cái bằng phẳng tầm thường, sự ghê sợ điệu sống mòn mỏi, vô vị…, là những điều da diết ở các tác phẩm Phấn thông vàng, Kinh cầu nguyện của những kẻ đi làm, hay Thiếu quê hương, Tuỳ bút (I, II), Chiếc lư đồng mắt cua…, nhưng cũng chính là những điều nung nấu ở tác giả Đời thừa. Chủ đề ấy chính là một biểu hiện mới mẻ của chủ nghĩa nhân đạo trong văn học Việt Nam thế kỷ XX. Nếu như phần nhiều cái “tôi” trong văn học lãng mạn trong khi giãy giụa “nổi loạn” “chống lại xã hội thù địch với nó, nó càng ngày càng khép kín, chỉ còn tự thực hiện và tự “phát triển” trong sự đối lập với xã hội; thì ở Nam Cao, yêu cầu khẳng định và phát triển cá nhân luôn gắn liền với trách nhiệm xã hội, hướng theo lí tưởng nhân tạo tiến bộ. Hoài bão cá nhân mà Hộ say mê đạt tới để tự khẳng định trước cuộc đời là một sự nghiệp văn chương, nhưng là thứ văn chương chân chính, mang tinh thần nhân đạo cao đẹp, “nó ca ngợi tình thương, lòng bác ái, sự công bình”…
2. Bi kịch tinh thần của một người trí thức phản bội nguyên tác sống nhân đạo.
Trong “Đời thừa”, Nam Cao có viết : “có thể hi sinh tình yêu, thứ tình yêu vị kỷ đi; nhưng hắn không thể từ bỏ lòng thương; có lẽ hắn nhu nhược, hèn nhát, tầm thường, nhưng hắn vẫn còn được là một con người”. Hãy cho biết câu văn trên có ý nghĩa gì với việc thể hiện bi kịch tinh thần của người trí thức.
Trả lời:
Với Hộ, nghệ thuật có ý nghĩa thiêng liêng, cao quý của sự sống, giá trị con người, là lý tưởng và hoài bão của anh.
Tuy nhiên theo Hộ, tình thương là tiêu chuẩn định giá tư cách, nhân cách, phẩm chất của một con người, không tình thương, con người chỉ sống với phần con.
Với câu văn trên của nhà văn Nam Cao, ta hiểu được vì sao Hộ rơi vào bi kịch tinh thần đầy đau đớn khi đặt tình thương, trách nhiêm với con người lên trên nghệ thuật. Chính câu văn đã đẩy Hộ vào mộ sự lựa chọn nghiệt ngã, vật vã hơn nhiều so với Điền trong “Giăng sáng”.
Hộ từ bỏ văn chương ko phải là từ bỏ đam mê tội lỗi mà là từ bỏ ý nghĩa giá trị sự sống của mình => Hộ lại vi phạm nguyên tắc sống nhân đạo và rơi vào bi kịch tinh thần
Nam Cao dứt khoác lên án cái xấu, cái ác để bảo vệ tình thương. Hộ lâm vào bế tắc nhưng không trả thù xã hội mà vươn lên sống nhân đạo, giữ được vẻ đẹp tình thương
Hộ nhìn Từ ngủ và “khóc nức nở”, nghẹn ngào xỉ vả mình: “anh…anh… chỉ là… một thằng…khốn nạn!” => đây là “giọt châu loài người” đã gội rửa thanh lọc tâm hồn anh, giữ lại anh trên mảnh đất tràn đầy nhân tính
3. Quan điểm nghệ thuật
Qua tác phẩm Đời thừa, hãy nêu lên quan điểm nghệ thuật của Nam Cao.
Trả lời
Phê phán lối văn chương tả chân hời hợt, chỉ tả được cái bề ngoài của hiện thực cuộc sống, các xác của xã hội.
Giá trị của văn chương đích thực phải thắm đượm lí tưởng nhân đạo lớn lao, có giá trị nhân loại phổ biến, đề cập đến những vấn đề liên quan đến vận mệnh con người. Văn chương chân chính vừa là văn chương vừa đau nỗi đau nhân tình vừa hướng con người về với niềm tin và khát vọng sống hoàn thiện, nhân ái và hòa hợp.
Nhà văn là người sáng tạo cái đẹp, phải có lương tâm trách nhiệm và khẳng định phong cách nghệ thuật độc đáo của riêng mình
B. Giá trị nghệ thuật
Đời thừa có nét đặc sắc về nghệ thuật tập trung ở ba điểm, hãy chỉ ra những đặc sắc nghệ thuật đó.
Trả lời
Lối kể chuyện tự nhiên dung dị, nhưng độc đáo, đặc biệt, của một ngòi bút truyện ngắn bậc thầy.
Nghệ thuật xây dựng nhân vật: nhân vật tư tưởng mà hạt nhân cơ bản tư tưởng tự ý thức; đi sâu vào ngóc ngách tâm hồn của nhân vật để phân tích
Kết cấu: theo dòng tâm tư, dòng ý thức nội tâm của nhân vật.
III. Kết luận
Truyện ngắn xuất sắc, có ý nghĩa kết tinh, tổng hợp những giá trị tư tưởng của Nam Cao trước CM T8
Nêu lên nguyên tắc lớn về sống và viết
* Một số tài liệu cũ có thể bị lỗi font khi hiển thị do dùng bộ mã không phải Unikey ...
Người chia sẻ: Nguyễn Quỳnh Chi
Dung lượng: |
Lượt tài: 0
Loại file:
Nguồn : Chưa rõ
(Tài liệu chưa được thẩm định)