Sự phân hóa Miền Tây bắc và Bắc Trung Bộ
Chia sẻ bởi Hoàng Văn Trung |
Ngày 26/04/2019 |
90
Chia sẻ tài liệu: sự phân hóa Miền Tây bắc và Bắc Trung Bộ thuộc Bài giảng khác
Nội dung tài liệu:
ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
KHOA ĐỊA LÝ
Sinh viên thực hiện: Hoàng Văn Trung
Lớp: 08SDL
ĐỊA LÍ TỰ NHIÊN VIỆT NAM
ĐỀ BÀI
SỰ PHÂN HÓA CỦA MIỀN
TÂY BẮC VÀ BẮC TRUNG BỘ
Lãnh thổ Việt Nam từ vầng trán kiêu hãnh Đồng Văn cho tới nơi đất mẹ vươn ra biển Cà Mau đã tạo nên một dải đất với dáng hình tuyệt đẹp. Vẻ đẹp ấy được tạo nên bởi tính thống nhất, hoàn chỉnh và tính đa dạng, phong phú của thiên nhiên Việt Nam. Dưới tác động một cách tổng hợp của các quy luật lãnh thổ, nước ta được phân thành nhiều miền và trong mỗi miền lại có sự phân hóa thành các khu.
PHẦN MỞ ĐẦU
Những nét khái quát cơ bản về
miền TB và BTB
- Đây là miền được hình thành do kết quả tác động tương hỗ của xứ địa tào Đông Dương và đới rừng gió mùa chí tuyến.
- Đây là miền đồi núi cao nhất nước ta, với cấu trúc dạng dải rất điển hình, chạy thẳng tắp theo hướng TB-ĐN.
- Nét điển hình về khí hậu ở đây là sự suy yếu của gió mùa đông bắc so với những vùng cùng vĩ độ và tác động mạnh mẽ của gió phơn Tây Nam khô nóng.
- Sinh vật xuất hiện nhiều loài có nguồn gốc Ấn Độ -Mianma và phương Nam.
Mặc dù có sự thống nhất như vậy, nhưng trong miền lại có sự phân hóa thành các khu khác nhau.
Sự phân hóa thành các khu này có nhiều nguyên nhân. Nhưng nguyên chính đó là địa hình và cấu trúc địa hình.
Vì thế miền Tây Bắc và Bắc Trung Bộ phân hóa thành 4 khu:
MIỀN TB & BTB
Khu Tây bắc
Khu Bắc
Trường Sơn
Khu ĐB
Thanh
– Nghệ - Tĩnh
Khu ĐB
Bình – Trị -
Thiên
PHẦN NỘI DUNG
Tọa độ địa lý: 22058’B – 1905’B
Bản đồ hành chính khu Tây Bắc
Tọa độ địa lý: 19040’B – 160B
Tọa độ địa lý: 1905’B – 180B
Tọa độ địa lý: 180B – 160B
Nằm trong khu vực địa tào Đông Dương, một
nhánh lớn của địa mángTêtit.
Gồm một hệ thống các phức lồi, phức lõm xen kẽ nhau
hướng tây bắc- đông nam.
Thời kỳ tiền Cambri: Giai đoạn đầu ở chế độ địa máng
Giai đoạn cuối có vận động uốn nếp kèm theo mắc ma
tạo nên khối Gabro và Granit (Đồng Vẽ - Hòa Bình).
Cổ kiến tạo: Vào chu kì Caledoni, pha tĩnh sụt lún, biển
tiến bồi trầm tích tuổi Cambri – Ocdovic (Fan Xi Păng,
Sông Mã, Lai Châu, hạ lưu sông Đà, pha động nâng lên.
Trung Sinh: Hoạt động kiến tạo trở lại chế độ sụt võng
mạnh mẽ vào T2-3 làm mở rộng các vùng trũng sông Đà,
Mường Tè, Sầm Nưa lấp đầy các hệ tầng trầm tích tạo
nên một lớp đá vôi dày và đá phiến.
Sau chu kì Inđoxini các sơn mạch chính như:Hoàng Liên Sơn, dải CN đá vôi Phong Thổ (Ninh Bình) Thanh Hóa, dải sông Mã – Pu Hoạt cơ bản được hình thành.
Chu kì Kimeri các đới Sơn La, Sông Đà, dọc biên giới Việt Lào được hoàn thiện cùng với nó là hoạt động macma phun trào xâm nhập xảy ra ở khắp nơi trong vùng.
Cuối Neogen hoạt động nâng lên, địa hình bị phân dị mạnh, chia cắt sâu tạo nên sự phân bậc đai cao, tồn tại bề mặt san bằng cổ, địa hình được trẻ hóa.
Nham thạch
Nguồn gốc nội sinh
Mắc ma, riôlit,
Granit…
Nguồn gốc ngoại sinh:
Đá vôi, đá phiến, sa thạch
Đá sét…
Nằm trong khu vực địa máng.
Nằm giữa hai khối nền cổ Pu hoạt ở phía bắc và
địa khối KonTum ở phía nam
Suốt cổ sinh Bắc Trường Sơn là địa máng bị sụt lún
mạnh, bề dày trầm tích đạt 12000m vào giữa C-P,
khu này cũng bị biển phủ nông có trầm tích đá vôi
dày 600-800m. Tạo ra dải đá vôi kéo dài ở phía tây
Quảng Bình và rải rác ở một số nơi
Vào chu kỳ Hecxini BTS kết thúc chế độ địa máng các
uốn nếp song song và so le và hoạt động macma xâm
nhập granit
Quá trình Bán bình nguyên hóa Palêôgen làm cho địa
hình bị hạ thấp đáng kể
Tân Kiến Tạo làm Bắc Trường Sơn được nâng lên
dạng vồng biên độ 600-900m.
Hiện tượng nghịch đoạn tầng tạo nên tính chất bất
đối xứng của hai sườn: sườn đông dốc mạnh ra biển,
sườn tây thoải dần từng bậc xuống thung lũng sông
Mê Kông.
Nham thạch: đá tinh thạch cổ kết tinh,đá macma xâm
nhập granit, phun trào riôlit, trầm tích đá cát kết…
Kiểu đb bồi tụ tam giác châu mài mòn bồi tụ xen kẽ.
Đầu Đệ tứ đông Trường Sơn bị hạ thấp với mức độ
không đều tạo thành các vịnh biển nhỏ nối liền với
nhau bởi các eo hẹp
Cuối Đệ tứ được nâng lên để lộ ra các thềm biển
xen kẽ những vũng biển cũ làm vật liệu phù sa lấp
đầy tạo thành đồng bằng.
Vật liệu bồi tụ có nguồn gốc biển và phù sa sông.
Đồng bằng mài mòn bồi tụ, sự hình thành liên
quan mật thiết với BTS và biển
Vào giai đoạn Tân sinh: Đường bờ biển được nâng
lên từng đợt để lại các bậc thềm. Sóng biển bồi cát
vào chân thềm tạo nên các dải cồn cát, giữa các dải
cồn cát là vùng trũng sau phát triển thành đầm phá.
Được lấpđầy vật liệu tạo nên đồng bằng.
Vật liệu bồi tụ phần lớn có nguồn gốc chủ yếu là biển
Là khu vực có địa hình cao và trẻ nhất nước ta, với
độ chia cắt sâu phổ biến 100m, chia cắt ngang
0,6 - 0,7km/km2.
Các khối núi cấu tạo chủ yếu granit, đỉnh sắc nhọn,
sườn dốc >350.
Cấu trúc địa hình gồm 3 mạch lớn:
Dãy Sông Mã
- Pu Hoạt :
Là dãy núi
kéo dài tới
500km.Vận
động tân kiến
tạo nâng với
biên độ
1000m
Dãy Hoàng Liên
Sơn: Là một khối
núi sót nổi lên
từ tiền Cambri,
cấu trúc bền vững
với khối Granit.
Dãy này có 2 bộ
phận Bắc – Nam
phân cách ở đèo
Khau Cọ 1068m
Dải núi và cao
nguyên kéo dài
từ Phong Thổ
đến Thanh Hóa:
Nằm kẹp giữa
sông Đà và sông
Mã kéo dài 400
km, rộng 10-25
km.
Ngoài ra trong khu vực còn có những vùng thấp và lòng chảo điển hình:
Tuần Giáo: Là một lòng chảo nhỏ giữa núi, cao 500 – 600 m, đây là nơi gặp nhau giữa 3 lưu vực s.Đà, s.Mã, s.Mê Kông.
Điện Biên: Là lòng chảo rộng nhất trong khu, dài 25 km, rộng 5 – 6 km, cao 550m, nằm trên đứt gãy kiến tạo sâu
Vùng núi thấp và trung du từ dưới khuỷ s.Đà đến Thanh Hoá, Nghệ An.
Do ảnh hưởng của tân kiến tạo không mạnh lắm nên
BTS (Bắc Trường Sơn)chủ yếu là miền đồi núi thấp.
Độ cao tb 650-750m, núi cao >1000m(chiếm 10%).
Địa hình Bắc Trường Sơn cao ở hai đầu, thấp ở giữa
Từ Bắc tới Nam có 3 đơn vị địa mạo
Từ hữu ngạn sông Cả đến đèo Mụ Giạ:
Núi ở đây cao 1000 m, một số đỉnh cao trên 2000 m như: Pu Xai Lai Leng 2711m, Rào Cỏ 2286 m.
Đây là vùng núi trung bình, uốn nếp dạng khối làm thành một dải hẹp chạy dọc biên giới Việt Lào.
Phía đông là vùng đồi toả rộng đan xen với một loạt các thung lũng lòng chảo giữa núi. Phía nam có khối núi Hoành Sơn cao 1044 m
Từ Mụ Giạ đến Lao Bảo
Là khu vực thấp nhất của BTS, khối đá vôi Kẻ Bàng lan rộng. Khối Khe Ngang (cao 600m), hẹp và kéo dài.
Kẹp giữa hai khối núi đá vôi trên là một dải núi về phía đông nổi lên một số đỉnh cao trên 1000 m.
Phía nam có dãy đá vôi là vùng núi cát kết trơ trụi với hai bề mặt: Bề mặt cao trên 1000 m, bề mặt 300 - 400 m
Từ Lao Bảo đến Hải Vân
Địa hình cao trên 1000m
Trên bề mặt nổi lên những đỉnh Granit cao
1300-1800m. Như động Xá Mùi (1613m)
Đây là vùng núi mưa nhiều xâm thực sâu dữ dội,
thung lũng hẹp sâu, chảy ngoằn nghèo
ĐB Thanh - Nghệ - Tĩnh nhỏ hẹp và kém bằng phẳng:
nhiều đồi núi sót và các dải cồn cát ven biển.
ĐB sông
Mã – sông
Chu
Chia thành 3 dải đồng bằng
Là một tam giác châu gồm 3 dải nhỏ
Dải đất cao
phía Tây cao
3-4m. Đất
cát pha nhẹ
Dải đất trũng
ở giữa: cao 1-
2m. Đất thịt
nặng, hơi chua
Dải cồn cát
ven biển:
Cao 3-4m
ĐB
Nghệ
An
Gồm các đồng bằng như Quỳnh Lưu, Diễn Châu,
Yên Thành.
Đồng bằng nhỏ, ba mặt giáp núi, một mặt
thông ra biển.
Đây là đồng bằng được phù sa sông Cả bồi đắp
Trên những vũng biển cũ, hình thái đb khá rộng
và bằng phẳng hơn.
ĐB
Hà
Tĩnh
Gồm các đồng bằng: Can Lộc, Thạch Hà,
Cẩm Xuyên, Kỳ Anh.
Các đồng bằng này đều hẹp ngang, độ nghiêng
lớn, kém bằng phẳng, nhiều đồi núi sót nổi lên
cao từ 100-400m, những cồn cát ngăn chặn các
dải đất trũng bên trong.
Sự hình thành đồng bằng có quan hệ mật thiết với
BTS và biển, đồng bằng thể hiện rõ nguồn gốc là
đồng bằng mài mòn bồi tụ. Địa hình đồng bằng rất
không bằng phẳng
Đồng bằng chia thành những đồng bằng nhỏ hẹp như:
Đồng bằng Bến Hải, Phong Điền, Phú Vang, Hưng
Thủy, Phú Lộc.
Chia thành những dải
Các đồi núi sót có những nhánh nổi lên và chia
cắt đồng bằng thành từng ngăn hẹp.
Phía trong chân núi là các đồi núi thấp cùng
cấu trúc với BTS xen với đồi BBN phù sa cũ
Sát biển là các đụn cát, cồn cát. Khu vực cồn cát
cao nhất là Đồng Hới – Vĩnh Linh. Cao trung bình
20-30m, rộng tới 2-3 km.
Phía trong các cồn cát, đụn cát: Là những vùng
trũng thấp, điển hình như phá Tam Giang, Cầu Hai
Dải ĐB: ĐB Bến Hải, Phong Điền, Phú Vang…
5
Dải
Cồn cát ở Quảng Bình
Phá Tam Giang
Do vị trí xa nhất về phía tây của lãnh thổ nước ta, nên
khu TB có độ lục địa lớn.
MÙA ĐÔNG
MÙA HÈ
Chế độ mưa
Mưa ở khu TB chịu ảnh hưởng chủ yếu
của gió mùa TN và địa hình.
Mùa mưa kéo dài từ tháng 5- 10. Về phía
Nam có chậm hơn.
Lượng mưa phân bố không đều. Vùng mưa
nhiều là Hoàng Liên Sơn, Sa Pa từ 2700-3000 mm
Vùng mưa ít như Sơn La, Điện Biên từ 1300-1500 mm.
Mùa khô tại khu vực núi cao ngắn, còn vùng núi
thấp phía tây thì kéo dài.
Đây là khu địa hình núi cao, là nơi duy nhất ở nước ta có khí hậu ôn đới núi cao. t0 <00c nên xảy ra hiện tượng tuyết rơi, chủ yếu ở sườn đông của hoàng liên sơn
Khí hậu BTS mang tính chất chuyển tiếp giữa khí
hậu vùng núi phía Bắc và vùng núi phía Nam
Do lãnh thổ kéo dài về phía Nam (tới 160B) nên
tác động của gió mùa đông bắc đến đây đã yếu hẳn
Mùa mưa đã chậm dần sang Thu- Đông
Đây là khu vực chịu ảnh hưởng khá sâu sắc của
gió tây khô nóng.
Đặc
điểm
chung
BTS là khu vực có lượng mưa lớn, trung bình >2000mm,
Những núi cao chắn gió >3000mm. Như Động Ngài
3500-4000 mm. Tại các đèo khuất gió lượng mưa thấp
khoảng 1500mm. Đặc biệt ở Mường Xén chỉ 600mm
Chế độ mưa
Đặc điểm
chung
Các dãy núi theo hướng TB-ĐN tuy độ cao không lớn
nhưng cũng góp phần làm giảm tác động của gió mùa
đông bắc vào mùa đông.
Do nằm sát với dãy Trưòng Sơn, về mùa hè chịu tác
động của gió phơn Tây Nam nên thời tiết trở nên khô
nóng, nhiệt độ khá cao
Mùa mưa kéo dài trong suốt mùa hè và còn có xu
hướng kéo sang cuối thu và đầu đông.
Chế độ nhiệt
Mùa hè: dài 7 tháng, từ
tháng 4–10, có 5 tháng t0
TB>250C,tháng nóng nhất
tháng7 t0 >28,50C.Khu vực
này a/h mạnh của gió phơn
TN, nên lớn nhất tuyệt đối
>400C, thời tiết khắc nghiệt
kéo dài tới 50 ngày.
Chế độ mưa
Bão ảnh hưởng vào Đb Thanh-Nghệ-Tĩnh
Lũ lụt
Ảnh hưởng của gió Phơn Tây Nam
Chế độ mưa: mưa nhiều và muộn.
Ảnh hưởng của gió phơn Tây Nam
Bão ảnh hưởng vào Đb Bình-Trị-Thiên
Sông Đà
Sông Mã
Đặc điểm lũ lên nhanh và rút nhanh, thường chỉ 1-2 ngày
Khu vực này có các sông chính: các phụ lưu thuộc hữu
ngạn sông Cả như Nậm Mô, Ngàn Sâu, sông Gianh,
sông Nhật Lệ, sông Bến Hải, sông Thạch Hãn và sông
Hương
Sông Ngàn Sâu
Sông Thạch Hãn
Sông Hương
Do đặc điểm địa hình hẹp ngang, lượng mưa lớn nên
thủy văn ở khu vực này có nét riêng biệt
Sông ngòi ngắn và dốc
Mùa lũ chậm dần từ B – N: Thanh Hóa từ tháng 6-10,
Nghệ An từ tháng 8 -11 , Hà Tĩnh từ tháng 8 -12,thời gian
lũ ngắn thường 3 – 4 ngày.
Mùa cạn ở đồng bằng này không khắc nghiệt như đồng
bằng Bắc Bộ, do mùa mưa đến tháng 12 và tháng 5 lại
có lũ tiểu mãn
Khu này là vùng hạ lưu của những sông :
+ Sông Mã ra biển bằng 3 chi lưu là sông Lèn, sông Tào,
sông Lạch Tào.
+ Sông Cả ra biển bằng 2 chi lưu là sông Nghèn và
sông Lam .
Sông Cả
Sông suối phát triển, mật độ sông ngòi từ 0,6 –
1,85km/km2, giảm dần từ T – Đ. Các sông ở khu
này nhỏ rất ngắn và dốc mạnh, nước chảy xiết.
Một số sông chính: sông Ròn, sông Gianh, sông Bố Trạch,
sông Kiến Giang, sông Bến Hải, sông Quảng Trị
chế độ
nước phân
hóa theo
mùa
Sông Gianh
Sông Kiến Giang
Bao gồm các loại đất
Rừng á nhiệt đới trên núi
Đỗ quyên tím
Rừng phi lao
Như vậy ta thấy miền TB – BTB là miền có lãnh thổ kéo dài phức tạp, nên bên cạnh những nét chung thì miền lại có sự phân hóa rõ rệt thể hiện qua các yếu tố địa chất, địa hình, khí hậu, thủy văn, thổ nhưỡng, sinh vật giữa các khu Tây bắc, Bắc Trường Sơn, Đb Thanh-Nghệ-Tĩnh và Đb Bình-Trị-Thiên. Chính sự phân hóa này đã làm cho ở mỗi khu có những nét đặc trưng riêng trong sự thống nhất chung của các khu Tây bắc và Bắc Trung Bộ. Do vậy, chúng ta cần nắm rõ những đặc trưng ấy của tự nhiên để có biện pháp khai thác và sử dụng một cách hợp lý nhất.
PHẦN KẾT LUẬN
CẢM ƠN CÔ VÀ CÁC BẠN
ĐÃ CHÚ Ý LẮNG NGHE
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
KHOA ĐỊA LÝ
Sinh viên thực hiện: Hoàng Văn Trung
Lớp: 08SDL
ĐỊA LÍ TỰ NHIÊN VIỆT NAM
ĐỀ BÀI
SỰ PHÂN HÓA CỦA MIỀN
TÂY BẮC VÀ BẮC TRUNG BỘ
Lãnh thổ Việt Nam từ vầng trán kiêu hãnh Đồng Văn cho tới nơi đất mẹ vươn ra biển Cà Mau đã tạo nên một dải đất với dáng hình tuyệt đẹp. Vẻ đẹp ấy được tạo nên bởi tính thống nhất, hoàn chỉnh và tính đa dạng, phong phú của thiên nhiên Việt Nam. Dưới tác động một cách tổng hợp của các quy luật lãnh thổ, nước ta được phân thành nhiều miền và trong mỗi miền lại có sự phân hóa thành các khu.
PHẦN MỞ ĐẦU
Những nét khái quát cơ bản về
miền TB và BTB
- Đây là miền được hình thành do kết quả tác động tương hỗ của xứ địa tào Đông Dương và đới rừng gió mùa chí tuyến.
- Đây là miền đồi núi cao nhất nước ta, với cấu trúc dạng dải rất điển hình, chạy thẳng tắp theo hướng TB-ĐN.
- Nét điển hình về khí hậu ở đây là sự suy yếu của gió mùa đông bắc so với những vùng cùng vĩ độ và tác động mạnh mẽ của gió phơn Tây Nam khô nóng.
- Sinh vật xuất hiện nhiều loài có nguồn gốc Ấn Độ -Mianma và phương Nam.
Mặc dù có sự thống nhất như vậy, nhưng trong miền lại có sự phân hóa thành các khu khác nhau.
Sự phân hóa thành các khu này có nhiều nguyên nhân. Nhưng nguyên chính đó là địa hình và cấu trúc địa hình.
Vì thế miền Tây Bắc và Bắc Trung Bộ phân hóa thành 4 khu:
MIỀN TB & BTB
Khu Tây bắc
Khu Bắc
Trường Sơn
Khu ĐB
Thanh
– Nghệ - Tĩnh
Khu ĐB
Bình – Trị -
Thiên
PHẦN NỘI DUNG
Tọa độ địa lý: 22058’B – 1905’B
Bản đồ hành chính khu Tây Bắc
Tọa độ địa lý: 19040’B – 160B
Tọa độ địa lý: 1905’B – 180B
Tọa độ địa lý: 180B – 160B
Nằm trong khu vực địa tào Đông Dương, một
nhánh lớn của địa mángTêtit.
Gồm một hệ thống các phức lồi, phức lõm xen kẽ nhau
hướng tây bắc- đông nam.
Thời kỳ tiền Cambri: Giai đoạn đầu ở chế độ địa máng
Giai đoạn cuối có vận động uốn nếp kèm theo mắc ma
tạo nên khối Gabro và Granit (Đồng Vẽ - Hòa Bình).
Cổ kiến tạo: Vào chu kì Caledoni, pha tĩnh sụt lún, biển
tiến bồi trầm tích tuổi Cambri – Ocdovic (Fan Xi Păng,
Sông Mã, Lai Châu, hạ lưu sông Đà, pha động nâng lên.
Trung Sinh: Hoạt động kiến tạo trở lại chế độ sụt võng
mạnh mẽ vào T2-3 làm mở rộng các vùng trũng sông Đà,
Mường Tè, Sầm Nưa lấp đầy các hệ tầng trầm tích tạo
nên một lớp đá vôi dày và đá phiến.
Sau chu kì Inđoxini các sơn mạch chính như:Hoàng Liên Sơn, dải CN đá vôi Phong Thổ (Ninh Bình) Thanh Hóa, dải sông Mã – Pu Hoạt cơ bản được hình thành.
Chu kì Kimeri các đới Sơn La, Sông Đà, dọc biên giới Việt Lào được hoàn thiện cùng với nó là hoạt động macma phun trào xâm nhập xảy ra ở khắp nơi trong vùng.
Cuối Neogen hoạt động nâng lên, địa hình bị phân dị mạnh, chia cắt sâu tạo nên sự phân bậc đai cao, tồn tại bề mặt san bằng cổ, địa hình được trẻ hóa.
Nham thạch
Nguồn gốc nội sinh
Mắc ma, riôlit,
Granit…
Nguồn gốc ngoại sinh:
Đá vôi, đá phiến, sa thạch
Đá sét…
Nằm trong khu vực địa máng.
Nằm giữa hai khối nền cổ Pu hoạt ở phía bắc và
địa khối KonTum ở phía nam
Suốt cổ sinh Bắc Trường Sơn là địa máng bị sụt lún
mạnh, bề dày trầm tích đạt 12000m vào giữa C-P,
khu này cũng bị biển phủ nông có trầm tích đá vôi
dày 600-800m. Tạo ra dải đá vôi kéo dài ở phía tây
Quảng Bình và rải rác ở một số nơi
Vào chu kỳ Hecxini BTS kết thúc chế độ địa máng các
uốn nếp song song và so le và hoạt động macma xâm
nhập granit
Quá trình Bán bình nguyên hóa Palêôgen làm cho địa
hình bị hạ thấp đáng kể
Tân Kiến Tạo làm Bắc Trường Sơn được nâng lên
dạng vồng biên độ 600-900m.
Hiện tượng nghịch đoạn tầng tạo nên tính chất bất
đối xứng của hai sườn: sườn đông dốc mạnh ra biển,
sườn tây thoải dần từng bậc xuống thung lũng sông
Mê Kông.
Nham thạch: đá tinh thạch cổ kết tinh,đá macma xâm
nhập granit, phun trào riôlit, trầm tích đá cát kết…
Kiểu đb bồi tụ tam giác châu mài mòn bồi tụ xen kẽ.
Đầu Đệ tứ đông Trường Sơn bị hạ thấp với mức độ
không đều tạo thành các vịnh biển nhỏ nối liền với
nhau bởi các eo hẹp
Cuối Đệ tứ được nâng lên để lộ ra các thềm biển
xen kẽ những vũng biển cũ làm vật liệu phù sa lấp
đầy tạo thành đồng bằng.
Vật liệu bồi tụ có nguồn gốc biển và phù sa sông.
Đồng bằng mài mòn bồi tụ, sự hình thành liên
quan mật thiết với BTS và biển
Vào giai đoạn Tân sinh: Đường bờ biển được nâng
lên từng đợt để lại các bậc thềm. Sóng biển bồi cát
vào chân thềm tạo nên các dải cồn cát, giữa các dải
cồn cát là vùng trũng sau phát triển thành đầm phá.
Được lấpđầy vật liệu tạo nên đồng bằng.
Vật liệu bồi tụ phần lớn có nguồn gốc chủ yếu là biển
Là khu vực có địa hình cao và trẻ nhất nước ta, với
độ chia cắt sâu phổ biến 100m, chia cắt ngang
0,6 - 0,7km/km2.
Các khối núi cấu tạo chủ yếu granit, đỉnh sắc nhọn,
sườn dốc >350.
Cấu trúc địa hình gồm 3 mạch lớn:
Dãy Sông Mã
- Pu Hoạt :
Là dãy núi
kéo dài tới
500km.Vận
động tân kiến
tạo nâng với
biên độ
1000m
Dãy Hoàng Liên
Sơn: Là một khối
núi sót nổi lên
từ tiền Cambri,
cấu trúc bền vững
với khối Granit.
Dãy này có 2 bộ
phận Bắc – Nam
phân cách ở đèo
Khau Cọ 1068m
Dải núi và cao
nguyên kéo dài
từ Phong Thổ
đến Thanh Hóa:
Nằm kẹp giữa
sông Đà và sông
Mã kéo dài 400
km, rộng 10-25
km.
Ngoài ra trong khu vực còn có những vùng thấp và lòng chảo điển hình:
Tuần Giáo: Là một lòng chảo nhỏ giữa núi, cao 500 – 600 m, đây là nơi gặp nhau giữa 3 lưu vực s.Đà, s.Mã, s.Mê Kông.
Điện Biên: Là lòng chảo rộng nhất trong khu, dài 25 km, rộng 5 – 6 km, cao 550m, nằm trên đứt gãy kiến tạo sâu
Vùng núi thấp và trung du từ dưới khuỷ s.Đà đến Thanh Hoá, Nghệ An.
Do ảnh hưởng của tân kiến tạo không mạnh lắm nên
BTS (Bắc Trường Sơn)chủ yếu là miền đồi núi thấp.
Độ cao tb 650-750m, núi cao >1000m(chiếm 10%).
Địa hình Bắc Trường Sơn cao ở hai đầu, thấp ở giữa
Từ Bắc tới Nam có 3 đơn vị địa mạo
Từ hữu ngạn sông Cả đến đèo Mụ Giạ:
Núi ở đây cao 1000 m, một số đỉnh cao trên 2000 m như: Pu Xai Lai Leng 2711m, Rào Cỏ 2286 m.
Đây là vùng núi trung bình, uốn nếp dạng khối làm thành một dải hẹp chạy dọc biên giới Việt Lào.
Phía đông là vùng đồi toả rộng đan xen với một loạt các thung lũng lòng chảo giữa núi. Phía nam có khối núi Hoành Sơn cao 1044 m
Từ Mụ Giạ đến Lao Bảo
Là khu vực thấp nhất của BTS, khối đá vôi Kẻ Bàng lan rộng. Khối Khe Ngang (cao 600m), hẹp và kéo dài.
Kẹp giữa hai khối núi đá vôi trên là một dải núi về phía đông nổi lên một số đỉnh cao trên 1000 m.
Phía nam có dãy đá vôi là vùng núi cát kết trơ trụi với hai bề mặt: Bề mặt cao trên 1000 m, bề mặt 300 - 400 m
Từ Lao Bảo đến Hải Vân
Địa hình cao trên 1000m
Trên bề mặt nổi lên những đỉnh Granit cao
1300-1800m. Như động Xá Mùi (1613m)
Đây là vùng núi mưa nhiều xâm thực sâu dữ dội,
thung lũng hẹp sâu, chảy ngoằn nghèo
ĐB Thanh - Nghệ - Tĩnh nhỏ hẹp và kém bằng phẳng:
nhiều đồi núi sót và các dải cồn cát ven biển.
ĐB sông
Mã – sông
Chu
Chia thành 3 dải đồng bằng
Là một tam giác châu gồm 3 dải nhỏ
Dải đất cao
phía Tây cao
3-4m. Đất
cát pha nhẹ
Dải đất trũng
ở giữa: cao 1-
2m. Đất thịt
nặng, hơi chua
Dải cồn cát
ven biển:
Cao 3-4m
ĐB
Nghệ
An
Gồm các đồng bằng như Quỳnh Lưu, Diễn Châu,
Yên Thành.
Đồng bằng nhỏ, ba mặt giáp núi, một mặt
thông ra biển.
Đây là đồng bằng được phù sa sông Cả bồi đắp
Trên những vũng biển cũ, hình thái đb khá rộng
và bằng phẳng hơn.
ĐB
Hà
Tĩnh
Gồm các đồng bằng: Can Lộc, Thạch Hà,
Cẩm Xuyên, Kỳ Anh.
Các đồng bằng này đều hẹp ngang, độ nghiêng
lớn, kém bằng phẳng, nhiều đồi núi sót nổi lên
cao từ 100-400m, những cồn cát ngăn chặn các
dải đất trũng bên trong.
Sự hình thành đồng bằng có quan hệ mật thiết với
BTS và biển, đồng bằng thể hiện rõ nguồn gốc là
đồng bằng mài mòn bồi tụ. Địa hình đồng bằng rất
không bằng phẳng
Đồng bằng chia thành những đồng bằng nhỏ hẹp như:
Đồng bằng Bến Hải, Phong Điền, Phú Vang, Hưng
Thủy, Phú Lộc.
Chia thành những dải
Các đồi núi sót có những nhánh nổi lên và chia
cắt đồng bằng thành từng ngăn hẹp.
Phía trong chân núi là các đồi núi thấp cùng
cấu trúc với BTS xen với đồi BBN phù sa cũ
Sát biển là các đụn cát, cồn cát. Khu vực cồn cát
cao nhất là Đồng Hới – Vĩnh Linh. Cao trung bình
20-30m, rộng tới 2-3 km.
Phía trong các cồn cát, đụn cát: Là những vùng
trũng thấp, điển hình như phá Tam Giang, Cầu Hai
Dải ĐB: ĐB Bến Hải, Phong Điền, Phú Vang…
5
Dải
Cồn cát ở Quảng Bình
Phá Tam Giang
Do vị trí xa nhất về phía tây của lãnh thổ nước ta, nên
khu TB có độ lục địa lớn.
MÙA ĐÔNG
MÙA HÈ
Chế độ mưa
Mưa ở khu TB chịu ảnh hưởng chủ yếu
của gió mùa TN và địa hình.
Mùa mưa kéo dài từ tháng 5- 10. Về phía
Nam có chậm hơn.
Lượng mưa phân bố không đều. Vùng mưa
nhiều là Hoàng Liên Sơn, Sa Pa từ 2700-3000 mm
Vùng mưa ít như Sơn La, Điện Biên từ 1300-1500 mm.
Mùa khô tại khu vực núi cao ngắn, còn vùng núi
thấp phía tây thì kéo dài.
Đây là khu địa hình núi cao, là nơi duy nhất ở nước ta có khí hậu ôn đới núi cao. t0 <00c nên xảy ra hiện tượng tuyết rơi, chủ yếu ở sườn đông của hoàng liên sơn
Khí hậu BTS mang tính chất chuyển tiếp giữa khí
hậu vùng núi phía Bắc và vùng núi phía Nam
Do lãnh thổ kéo dài về phía Nam (tới 160B) nên
tác động của gió mùa đông bắc đến đây đã yếu hẳn
Mùa mưa đã chậm dần sang Thu- Đông
Đây là khu vực chịu ảnh hưởng khá sâu sắc của
gió tây khô nóng.
Đặc
điểm
chung
BTS là khu vực có lượng mưa lớn, trung bình >2000mm,
Những núi cao chắn gió >3000mm. Như Động Ngài
3500-4000 mm. Tại các đèo khuất gió lượng mưa thấp
khoảng 1500mm. Đặc biệt ở Mường Xén chỉ 600mm
Chế độ mưa
Đặc điểm
chung
Các dãy núi theo hướng TB-ĐN tuy độ cao không lớn
nhưng cũng góp phần làm giảm tác động của gió mùa
đông bắc vào mùa đông.
Do nằm sát với dãy Trưòng Sơn, về mùa hè chịu tác
động của gió phơn Tây Nam nên thời tiết trở nên khô
nóng, nhiệt độ khá cao
Mùa mưa kéo dài trong suốt mùa hè và còn có xu
hướng kéo sang cuối thu và đầu đông.
Chế độ nhiệt
Mùa hè: dài 7 tháng, từ
tháng 4–10, có 5 tháng t0
TB>250C,tháng nóng nhất
tháng7 t0 >28,50C.Khu vực
này a/h mạnh của gió phơn
TN, nên lớn nhất tuyệt đối
>400C, thời tiết khắc nghiệt
kéo dài tới 50 ngày.
Chế độ mưa
Bão ảnh hưởng vào Đb Thanh-Nghệ-Tĩnh
Lũ lụt
Ảnh hưởng của gió Phơn Tây Nam
Chế độ mưa: mưa nhiều và muộn.
Ảnh hưởng của gió phơn Tây Nam
Bão ảnh hưởng vào Đb Bình-Trị-Thiên
Sông Đà
Sông Mã
Đặc điểm lũ lên nhanh và rút nhanh, thường chỉ 1-2 ngày
Khu vực này có các sông chính: các phụ lưu thuộc hữu
ngạn sông Cả như Nậm Mô, Ngàn Sâu, sông Gianh,
sông Nhật Lệ, sông Bến Hải, sông Thạch Hãn và sông
Hương
Sông Ngàn Sâu
Sông Thạch Hãn
Sông Hương
Do đặc điểm địa hình hẹp ngang, lượng mưa lớn nên
thủy văn ở khu vực này có nét riêng biệt
Sông ngòi ngắn và dốc
Mùa lũ chậm dần từ B – N: Thanh Hóa từ tháng 6-10,
Nghệ An từ tháng 8 -11 , Hà Tĩnh từ tháng 8 -12,thời gian
lũ ngắn thường 3 – 4 ngày.
Mùa cạn ở đồng bằng này không khắc nghiệt như đồng
bằng Bắc Bộ, do mùa mưa đến tháng 12 và tháng 5 lại
có lũ tiểu mãn
Khu này là vùng hạ lưu của những sông :
+ Sông Mã ra biển bằng 3 chi lưu là sông Lèn, sông Tào,
sông Lạch Tào.
+ Sông Cả ra biển bằng 2 chi lưu là sông Nghèn và
sông Lam .
Sông Cả
Sông suối phát triển, mật độ sông ngòi từ 0,6 –
1,85km/km2, giảm dần từ T – Đ. Các sông ở khu
này nhỏ rất ngắn và dốc mạnh, nước chảy xiết.
Một số sông chính: sông Ròn, sông Gianh, sông Bố Trạch,
sông Kiến Giang, sông Bến Hải, sông Quảng Trị
chế độ
nước phân
hóa theo
mùa
Sông Gianh
Sông Kiến Giang
Bao gồm các loại đất
Rừng á nhiệt đới trên núi
Đỗ quyên tím
Rừng phi lao
Như vậy ta thấy miền TB – BTB là miền có lãnh thổ kéo dài phức tạp, nên bên cạnh những nét chung thì miền lại có sự phân hóa rõ rệt thể hiện qua các yếu tố địa chất, địa hình, khí hậu, thủy văn, thổ nhưỡng, sinh vật giữa các khu Tây bắc, Bắc Trường Sơn, Đb Thanh-Nghệ-Tĩnh và Đb Bình-Trị-Thiên. Chính sự phân hóa này đã làm cho ở mỗi khu có những nét đặc trưng riêng trong sự thống nhất chung của các khu Tây bắc và Bắc Trung Bộ. Do vậy, chúng ta cần nắm rõ những đặc trưng ấy của tự nhiên để có biện pháp khai thác và sử dụng một cách hợp lý nhất.
PHẦN KẾT LUẬN
CẢM ƠN CÔ VÀ CÁC BẠN
ĐÃ CHÚ Ý LẮNG NGHE
* Một số tài liệu cũ có thể bị lỗi font khi hiển thị do dùng bộ mã không phải Unikey ...
Người chia sẻ: Hoàng Văn Trung
Dung lượng: |
Lượt tài: 1
Loại file:
Nguồn : Chưa rõ
(Tài liệu chưa được thẩm định)