Sinh lý học
Chia sẻ bởi Lê Thanh Gấu |
Ngày 18/03/2024 |
11
Chia sẻ tài liệu: Sinh lý học thuộc Sinh học
Nội dung tài liệu:
TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA NÔNG NGHIỆP VÀ SINH HỌC ỨNG DỤNG
Giảng viên hướng dẫn
PGS.Ts
Nguyễn Thị Kim Đông
Danh sách nhóm thực hiện:
Bùi Văn Nhí
Phan Quốc Việt
Trần Tứ Phương
Nguyễn Minh Thơ
Trương Bá Khiêm
Trầm Thái Nguyên
Nguyễn Thị Hưởng
SINH SẢN TRÂU - BÒ
Trâu và Bò
Trâu và Bò là loài gia súc nhai lại đã được thuần hóa cho thịt và sữa khá nhiều .
Mặc dù chúng có nhiều điểm tương đồng trong sinh sản tồn tại giữa Trâu và Bò nhưng việc ngoại suy bừa bãi các hiện tượng sinh sản giữa hai giống phải được tránh.
Những phần tập trung vào các khía cạnh của chu kỳ sinh sản của hai giống bao gồm tuổi dậy thì, chu kỳ động dục (estrous), sự trở lại sau sinh của chu kỳ estrous và sự sinh tinh.
a.Gia súc cái:
Bê cái tuổi dậy thì ở kỳ động dục đầu tiên được theo sau bởi một giai đoạn bình thường của Kỳ Hoàng Thể.
Giai đoạn này được biết như là tuổi dậy thì và sự rụng trứng đầu tiên không đồng nhất ở những con bê cái.
Về phương diện lịch sử, kích thước được đề nghị căn cứ vào số đo trọng lượng sống.
Kỳ dậy thì
Bên cạnh trọng lượng, hệ thống đo lường khác như đo chiều cao, chiều dài và đo vùng xương chậu có thể được dùng để xác định cơ sở dữ liệu kích thước..
Chất lượng dinh dưỡng thấp và tăng trưởng chậm thì tuổi dậy thì của bê cái chậm trễ trong vài tuần và mức độ dinh dưỡng cao và phát triển nhanh chóng đẩy nhanh tuổi dậy thì.
Tuổi trung bình cho bê cái ở mức đề nghị của dinh dưỡng là 10 đến 12 tháng đối với bê cái lấy sữa và 11 cho đến 15 tháng cho bê cái lấy thịt.
Bê cái Zebu đạt tuổi dậy thì từ 18 đến 24 tháng.Tuy nhiên, sự khác biệt về giống trong độ tuổi tuổi dậy thì không bị ảnh hưởng bởi sự dinh dưỡng.
Đưa vật nuôi đi tránh rét trước tuổi dậy thì làm trì hoãn tuổi dậy thì.
b.Gia súc đực:
Tuổi dậy thì ở con đực là độ tuổi mà sự xuất tinh có chứa tinh trùng đủ để thụ thai.
Một trong những thay đổi sớm nhất trong sự khởi đầu của tuổi dậy thì là sự gia tăng tần suất phóng thích giữa 12 và 20 tuần lễ.
Sự phóng thích LH kích thích tế bào Leydig tiết ra testoterone là việc cần thiết tạo ra sự khác biệt của các tế bào Sertoli và sự khác biệt tế bào sinh tinh.
Bò đực Zebu
Tinh hoàn sản xuất làm tăng số tinh trùng lúc gần tuổi dậy thì (thời điểm xuất tinh đầu tiên của nó chứa 50.000.000 tinh trùng )
Các giống bò khác nhau về độ tuổi và trọng lượng ở tuổi dậy thì.
Bò Holestein đạt tuổi dậy thì sớm hơn bò Angus hoặc bò Hereford, với Charolais bò lai giữa chúng.
Bò lai cho thịt nhìn chung tuổi dậy thì sớm hơn so với bò đực.Bò đực Zebu đến tuổi dậy thì muộn hơn bò ôn đới cùng giống.
Bò đực Holestein
Bò cái Holestein
Bò Angus
Bò Hereford
II.Chu trình động dục (estrous):
Sau khi tinh hoàn đến kỳ dậy thì,nó tiếp tục phát triển và số lượng tinh trùng mỗi lần xuất tinh tăng lên cho đến khi 18 tháng 24 tháng tuổi trong cả hai loại bò thịt và bò sữa
a.Mùa sinh sản:
Nhiều loài thú hoang dã được nuôi theo mùa với mùa xuân và mùa hè là thời gian thích hợp nhất trong năm cho việc đẻ trong suốt quá trình thuần hoá.
b.Sự thay đổi theo chu kỳ:
Hình thái, nội tiết, và những thay đổi phân tiết xảy ra trong buồng trứng và các cơ quan sinh dục hình ống của bò trong suốt chu trình estrous.
c.Nang năng động:
Sóng siêu âm cho biết sự phát triển nang buồng trứng trong chu kỳ động dục (estrous) ở Bò.
Các mô hình ba làn sóng là phổ biến nhất.
I.Cơ chế
Từ mỗi sóng của sự phát triển nang, một nang đơn lớn "chi phối" tiếp tục phát triển trong khi đường kính nang lớn hơn 4 mm tăng trưởng trấn áp.
Sự phát triển của nang để đường kính lớn hơn 4 mm phụ thuộc vào FSH nhưng để nang lớn hơn nữa (đường kính từ 7 đến 9 mm ) nó yêu cầu chuyển sang LH.
Sự bảo dưỡng và hồi quy của các nang chi phối được kết hợp với những thay đổi trong môi trường P4 và LH.
Do đó, có ít nhất một nang lớn hiện diện trong buồng trứng trâu, bò suốt chu kỳ estrous, và nó dường như kiểm soát số phận của các nang khác trong buồng trứng.
Mức tăng của estradinduce gây ra estrus, kết hợp với các cấp xuống dốc của P4, gây ra các sóng LH.
Khoang dần dần lấp đầy với các tế bào Kỳ Hoàng Thể.Nang đạt đến sự trưởng thành khoảng 7 ngày sau rụng trứng và hoàn thiện chức năng trong 8 hoặc 9 ngày nữa trước khi nó thoái hóa .
c.Sự hoạt động của estrogen:
Tuyến yên quy định sự tăng trưởng nang, rụng trứng và chức năng Kỳ Hoàng Thể.
Nếu một nang trưởng thành đang hiện diện thì sóng LH tăng sẽ gây ra sự rụng trứng khoảng 24 giờ sau đó.
Những hành động của estrogen được liệt kê dưới đây:
Sự giảm chất nhờn cổ tử cung vào ngày động dục (estrus).
Giãn nở cổ tử cung trong estrus để ống thông có thể được chuyển vào tử cung dễ dàng hơn so với ở bất kỳ giai đoạn khác của chu kỳ estrous.
Cải thiện sự co rút lại hay sự cương của tử cung.
Sự thay đổi độ nhớt, ferning và điện trở là một cơ sở cho một số phương pháp phát hiện estrus ở bò, có thể phát hiện bằng xem mạch trực tràng, hầu hết quá trình thụ tinh sử dụng nó để xác minh (nếu bò trình thụ tinh trong estrus ).
Sự tiết estrogen rút khỏi đột ngột sau rụng trứng gây ra việc chảy máu âm hộ (bò cái hiển thị và chảy máu vào ngày thứ hai hoặc thứ ba sau khi chảy máu estrus )
d.Hoạt động của progesterone :
Suốt thời kỳ Hoàng thể, chất nhờn cổ tử cung là dày và bền vững, các kênh cổ tử cung được đóng kín
P4 trong huyết tương gần như tương quan với sự tăng trưởng, bảo trì, một hồi quy của CL.
e.Các phương pháp phát hiện Estrus:
Trong suốt giai đoạn kiểm tra estrus, vài gia súc mất tập trung,việc cho ăn nên tránh thực hiện.
Sự dò tìm được cải thiện bởi việc sử dụng bò đực
Các viện trợ khác để phát hiện bao gồm các chỉ số áp lực estrus nhạy cảm được đặt trên mông con cái và đánh dấu bóng hoặc đánh dấu yên trên bò.
Hiệu quả và phát hiện chính xác của estrus là cần thiết trong đàn bò sữa bằng cách sử dụng sự thụ tinh nhân tạo.
Nebel đã xem xét các phương pháp và tính chính xác của tiêu chuẩn phát hiện estrus trong bò sữa có thể được tính như sau:
1. Hiệu quả phát hiện được thể hiện như tỷ lệ phần trăm của thời kỳ estrous có thể được quan sát trong một thời kỳ nhất định.
2. Phát hiện chính xác là phần trăm của đối tượng quan sát thời kỳ estrous có thể được xác nhận bởi sự xem mạch trực tràng của tử cung cho sự hòa hợp buồng trứng cho một nang trưởng thành và các cấp P4 của bò được cân nhắc trong estrus.
f.Rụng trứng:
Bò là duy nhất trong số các động vật ở trang trại ở chỗ chúng rụng trứng 10-20 giờ sau khi kết thúc đứng estrus, hoặc trên mức trung bình 30 giờ sau khi sự khởi đầu của estrus.
Ngoại trừ chu kỳ sau sinh đầu tiên estrous.
III. Quá trình phóng thích và sản xuất tinh dịch.
Khoảng thời gian của 1 chu kỳ của biểu mô là 13,5 ngày cho Bò. Khoảng 61 ngày ( 45 chu kỳ) thì cần thiết cho việc hoàn thành việc sinh tinh.
Sự sản xuất tinh trùng hàng ngày số lượng những tinh trùng có tiềm năng sản xuất mỗi ngày ở tinh hoàn thì có liên quan rất lớn đến kích cỡ của tinh hoàn , mà chúng có thể được ước lượng bởi chiều dài và độ rộng hoặc là chu vi của bìu.
Tuy nhiên kích cỡ tinh hoàn và chu vi của bìu bị ảnh hưởng bởi lứa tuổi và di truyền.
Tuy nhiên kích cỡ tinh hoàn và chu vi của bìu bị ảnh hưởng bởi lứa tuổi và di truyền.
Sự khác nhau lớn xuất hiện trong đặc tính sản lượng tinh dịch giữa những con bò,giữa những lần phóng tinh thứ nhất và lần phóng tinh thứ hai, giữa những lần thu thập.
IV.Giao phối.
Thói quen giao phối,vào lúc nghỉ ngơi dương vật bò là một loại mô có tính đàn hồi thì nó ít liên quan đến đường kính và sự trương cứng.
Trong suốt quá trình căng cứng ,dương vật sẽ chịu đựng sự tăng chút ít về đường kính. Sự nhô ra bị ảnh hưởng bởi sự thẳng ra của việc hình thành nếp uốn theo hình chữ S .
Thị giác thì quan trọng hơn khứu giác trong sự kích thích về sinh dục của bò.
kích cỡ tinh hoàn được ước lượng bằng cách đo chiều dài và độ rộng hoặc chu vi bìu
Giao phối ở gia súc (ngắn hơn 5 giây) ngắn hơn so với của ngựa và heo.
Hầu hết những nơi sản xuất vật nuôi trong nước Mỹ sử dụng thụ tinh nhân tạo, nhưng hơn 90% thịt bò bred bởi thiên nhiên.
Hầu hết những giống sống theo đàn có giới hạn mùa chịu giống từ 9 đến 12 tuần nên những bò cái để trong mùa xuân thời gian này cần cung cấp nhiều thức ăn có giá trị.
V.Thời kỳ mang thai và quá trình sinh đẻ.
1)Thời kỳ mang thai.
Độ dài của quá trình mang thai khoảng từ 276 đến 295 ngày.
Khác trong thời kì mang thai dài là sự kết hợp với việc song sinh, giới tính của bê con, và số lần mang thai của bò cái.
Lúc gần đẻ thì âm đạo dày, dưới vú tăng lên, và đầu vú xuất hiện căng phồng với sữa.
2)Dấu hiệu sinh đẻ.
Suốt gian đoạn đầu của hoạt động (nở tử cung), có thể không ngừng và biểu hiện dấu hiệu của đau bụng.
Màng ối hoặc “bao nước thứ 2” xuất hiện ở âm hộ.
Những bò cái tốn 4 đến 6 giờ để tống nhau thai. Nó ăn sau khi sinh nhiêu hơn cừu.
3)Thời kì sinh đẻ.
Suốt thời kì sinh đẻ hoặc sau thời kì đẻ tử cung co hồi lại và bắt đầu lại thời kì động dục phải xuất hiện trước khi sự thụ tinh có thể xuất hiện.
Sừng tử cung được coi là ống cuộn vào khi xem mạch trực tràng cả hai sừng có kích thước gần bằng nhau.
VI.Chức năng của buồng trứng.
Sau khi sự sanh đẻ, bò vào một thời kỳ anestrus sau khi sinh.
Sự kết thúc của anestrus được đánh dấu bởi sự rụng trứng đầu tiên sau sinh.
Hầu hết bò sữa được phát hiện trong kỳ dộng dục và sự tạo noãn tại kỳ động dục thứ hai vào khoảng 35 ngày sau khi sinh.
Ảnh hưởng của sữa: Sự hoạt động của buồng trứng trong việc tạo sữa vẫn còn là một vấn đề lớn với sự quản lý của bò thịt và gia súc trên toàn thế giới nhằm mục đích kép. Một vài nghiên cứu đã được đưa về cơ chế mà qua đó sự tiết sữa ở bê con là làm yếu gonadotrephin và mở rộng sau khi sinh trong kỳ rụng trứng.
Thiếu dinh dưỡng: mức độ vừa phải của việc thiếu ăn, trước hoặc sau khi đẻ, có thể ảnh hưởng các cơ chế của sự trưởng thành nang cuối cùng và sự rụng trứng.
Quá trình sinh sản: Mặc dù cả hai mức giá đậu thai và có thai ước tính tỷ lệ bò là mang thai, sự khác biệt giữa họ từ lâu đã được công nhận. Tỷ lệ đậu thai đánh giá cao hơn tỷ lệ thụ thai khoảng 10-15% bò.
Khả năng sinh sản: Khoảng đẻ tối ưu cho cả hai thịt bò và bò sữa là 12 tháng, nhưng khoảng tháng 12 là ít.
B)SINH SẢN Ở TRÂU
I.Thời kỳ động dục.
Tuổi trưởng thành hoặc tuổi trong lần đầu tiên giao phối là khó xác định vì những vấn đề liên quan đến hiện tượng lên giống.
Con trâu ở tuổi thành thục muộn hơn ở các loài gia súc khác .
Loài sống ở sông lên giống sớm hơn loài sống ở đầm lầy.
Tinh hoàn ở trâu xuống bìu khi con vật được nuôi từ 2-4 tháng ,mặc dù có thể chúng có mặc khi vừa mới sinh ra ở một số loài động vật .
Tinh hoàn của trâu không hoạt động kéo dài từ 0 đến 7 tháng tuổi ,sau thời kì đó là 1 số giai đoạn tăng trưởng nhanh chóng và hoạt động,tinh hoàn sinh ra kích thích tố androgenic.
Xuất tinh có chứa tinh trùng hữu hiệu chỉ khi động vật là khoảng 24 tháng tuổi.
II .Chu kỳ động dục.
1) Mùa sinh sản:
Những con trâu , như gia súc, thì những kỳ động dục và lên giống trong suốt cả năm.
Các mẫu báo cáo theo mùa đẻ ở nhiều quốc gia đã được quy về nhiệt độ xung quanh, ngày chiếu sáng, và cung cấp thức ăn.
Hiệu quả của độ chiếu sang trong ngày trên chu kỳ động dục tương tự như trong cả hai con trâu và bò.
Nhiệt độ cũng ảnh hưởng đến chu kỳ rụng trứng và nhu cầu giao phối.
2) Thay đổi theo chu kỳ.
Nhiều thay đổi tuần hoàn trong buồng trứng, cơ quan sinh dục dạng hình ống, và tiết ra kích thích tố trong con trâu được sánh ngang với các gia súc.
3) Thời kỳ động dục và rụng trứng:
Kỳ động dục
Dấu hiệu: Xả nhầy từ âm hộ rõ ràng, bồn chồn, tăng tần suất đi tiểu, sự hét, và sữa sản xuất không phải là dấu hiệu đáng tin cậy của kỳ động dục.
Kỳ động dục vào buổi tối muộn thì hoạt động tình dục cao điểm 18h00 – 6h00.
4) Biến động sinh sản:
Những mức độ thụ tinh là 50 tới 60% với tinh dịch đã làm lạnh 25 tới 45% với tinh dịch frocen, và hơn 60% với dịch vụ tự nhiên.
Những nhịp độ mang thai theo sau một mùa nhân giống bị hạn chế từ 2 đến 3 tháng và phụ thuộc vào tình trạng dinh dưỡng và cho sữa của những trâu mẹ.
Trong những đàn trâu đầm lầy thay đổi từ 30 đến 75%.
Cai sữa sớm, cảm ứng của thời kì động dục, dinh dưỡng tốt hơn đã đẩy nhanh việc nối lại hoạt động của buồng trứng sau khi sinh sớm và giảm những ngày mở trong trâu cái.
KHOA NÔNG NGHIỆP VÀ SINH HỌC ỨNG DỤNG
Giảng viên hướng dẫn
PGS.Ts
Nguyễn Thị Kim Đông
Danh sách nhóm thực hiện:
Bùi Văn Nhí
Phan Quốc Việt
Trần Tứ Phương
Nguyễn Minh Thơ
Trương Bá Khiêm
Trầm Thái Nguyên
Nguyễn Thị Hưởng
SINH SẢN TRÂU - BÒ
Trâu và Bò
Trâu và Bò là loài gia súc nhai lại đã được thuần hóa cho thịt và sữa khá nhiều .
Mặc dù chúng có nhiều điểm tương đồng trong sinh sản tồn tại giữa Trâu và Bò nhưng việc ngoại suy bừa bãi các hiện tượng sinh sản giữa hai giống phải được tránh.
Những phần tập trung vào các khía cạnh của chu kỳ sinh sản của hai giống bao gồm tuổi dậy thì, chu kỳ động dục (estrous), sự trở lại sau sinh của chu kỳ estrous và sự sinh tinh.
a.Gia súc cái:
Bê cái tuổi dậy thì ở kỳ động dục đầu tiên được theo sau bởi một giai đoạn bình thường của Kỳ Hoàng Thể.
Giai đoạn này được biết như là tuổi dậy thì và sự rụng trứng đầu tiên không đồng nhất ở những con bê cái.
Về phương diện lịch sử, kích thước được đề nghị căn cứ vào số đo trọng lượng sống.
Kỳ dậy thì
Bên cạnh trọng lượng, hệ thống đo lường khác như đo chiều cao, chiều dài và đo vùng xương chậu có thể được dùng để xác định cơ sở dữ liệu kích thước..
Chất lượng dinh dưỡng thấp và tăng trưởng chậm thì tuổi dậy thì của bê cái chậm trễ trong vài tuần và mức độ dinh dưỡng cao và phát triển nhanh chóng đẩy nhanh tuổi dậy thì.
Tuổi trung bình cho bê cái ở mức đề nghị của dinh dưỡng là 10 đến 12 tháng đối với bê cái lấy sữa và 11 cho đến 15 tháng cho bê cái lấy thịt.
Bê cái Zebu đạt tuổi dậy thì từ 18 đến 24 tháng.Tuy nhiên, sự khác biệt về giống trong độ tuổi tuổi dậy thì không bị ảnh hưởng bởi sự dinh dưỡng.
Đưa vật nuôi đi tránh rét trước tuổi dậy thì làm trì hoãn tuổi dậy thì.
b.Gia súc đực:
Tuổi dậy thì ở con đực là độ tuổi mà sự xuất tinh có chứa tinh trùng đủ để thụ thai.
Một trong những thay đổi sớm nhất trong sự khởi đầu của tuổi dậy thì là sự gia tăng tần suất phóng thích giữa 12 và 20 tuần lễ.
Sự phóng thích LH kích thích tế bào Leydig tiết ra testoterone là việc cần thiết tạo ra sự khác biệt của các tế bào Sertoli và sự khác biệt tế bào sinh tinh.
Bò đực Zebu
Tinh hoàn sản xuất làm tăng số tinh trùng lúc gần tuổi dậy thì (thời điểm xuất tinh đầu tiên của nó chứa 50.000.000 tinh trùng )
Các giống bò khác nhau về độ tuổi và trọng lượng ở tuổi dậy thì.
Bò Holestein đạt tuổi dậy thì sớm hơn bò Angus hoặc bò Hereford, với Charolais bò lai giữa chúng.
Bò lai cho thịt nhìn chung tuổi dậy thì sớm hơn so với bò đực.Bò đực Zebu đến tuổi dậy thì muộn hơn bò ôn đới cùng giống.
Bò đực Holestein
Bò cái Holestein
Bò Angus
Bò Hereford
II.Chu trình động dục (estrous):
Sau khi tinh hoàn đến kỳ dậy thì,nó tiếp tục phát triển và số lượng tinh trùng mỗi lần xuất tinh tăng lên cho đến khi 18 tháng 24 tháng tuổi trong cả hai loại bò thịt và bò sữa
a.Mùa sinh sản:
Nhiều loài thú hoang dã được nuôi theo mùa với mùa xuân và mùa hè là thời gian thích hợp nhất trong năm cho việc đẻ trong suốt quá trình thuần hoá.
b.Sự thay đổi theo chu kỳ:
Hình thái, nội tiết, và những thay đổi phân tiết xảy ra trong buồng trứng và các cơ quan sinh dục hình ống của bò trong suốt chu trình estrous.
c.Nang năng động:
Sóng siêu âm cho biết sự phát triển nang buồng trứng trong chu kỳ động dục (estrous) ở Bò.
Các mô hình ba làn sóng là phổ biến nhất.
I.Cơ chế
Từ mỗi sóng của sự phát triển nang, một nang đơn lớn "chi phối" tiếp tục phát triển trong khi đường kính nang lớn hơn 4 mm tăng trưởng trấn áp.
Sự phát triển của nang để đường kính lớn hơn 4 mm phụ thuộc vào FSH nhưng để nang lớn hơn nữa (đường kính từ 7 đến 9 mm ) nó yêu cầu chuyển sang LH.
Sự bảo dưỡng và hồi quy của các nang chi phối được kết hợp với những thay đổi trong môi trường P4 và LH.
Do đó, có ít nhất một nang lớn hiện diện trong buồng trứng trâu, bò suốt chu kỳ estrous, và nó dường như kiểm soát số phận của các nang khác trong buồng trứng.
Mức tăng của estradinduce gây ra estrus, kết hợp với các cấp xuống dốc của P4, gây ra các sóng LH.
Khoang dần dần lấp đầy với các tế bào Kỳ Hoàng Thể.Nang đạt đến sự trưởng thành khoảng 7 ngày sau rụng trứng và hoàn thiện chức năng trong 8 hoặc 9 ngày nữa trước khi nó thoái hóa .
c.Sự hoạt động của estrogen:
Tuyến yên quy định sự tăng trưởng nang, rụng trứng và chức năng Kỳ Hoàng Thể.
Nếu một nang trưởng thành đang hiện diện thì sóng LH tăng sẽ gây ra sự rụng trứng khoảng 24 giờ sau đó.
Những hành động của estrogen được liệt kê dưới đây:
Sự giảm chất nhờn cổ tử cung vào ngày động dục (estrus).
Giãn nở cổ tử cung trong estrus để ống thông có thể được chuyển vào tử cung dễ dàng hơn so với ở bất kỳ giai đoạn khác của chu kỳ estrous.
Cải thiện sự co rút lại hay sự cương của tử cung.
Sự thay đổi độ nhớt, ferning và điện trở là một cơ sở cho một số phương pháp phát hiện estrus ở bò, có thể phát hiện bằng xem mạch trực tràng, hầu hết quá trình thụ tinh sử dụng nó để xác minh (nếu bò trình thụ tinh trong estrus ).
Sự tiết estrogen rút khỏi đột ngột sau rụng trứng gây ra việc chảy máu âm hộ (bò cái hiển thị và chảy máu vào ngày thứ hai hoặc thứ ba sau khi chảy máu estrus )
d.Hoạt động của progesterone :
Suốt thời kỳ Hoàng thể, chất nhờn cổ tử cung là dày và bền vững, các kênh cổ tử cung được đóng kín
P4 trong huyết tương gần như tương quan với sự tăng trưởng, bảo trì, một hồi quy của CL.
e.Các phương pháp phát hiện Estrus:
Trong suốt giai đoạn kiểm tra estrus, vài gia súc mất tập trung,việc cho ăn nên tránh thực hiện.
Sự dò tìm được cải thiện bởi việc sử dụng bò đực
Các viện trợ khác để phát hiện bao gồm các chỉ số áp lực estrus nhạy cảm được đặt trên mông con cái và đánh dấu bóng hoặc đánh dấu yên trên bò.
Hiệu quả và phát hiện chính xác của estrus là cần thiết trong đàn bò sữa bằng cách sử dụng sự thụ tinh nhân tạo.
Nebel đã xem xét các phương pháp và tính chính xác của tiêu chuẩn phát hiện estrus trong bò sữa có thể được tính như sau:
1. Hiệu quả phát hiện được thể hiện như tỷ lệ phần trăm của thời kỳ estrous có thể được quan sát trong một thời kỳ nhất định.
2. Phát hiện chính xác là phần trăm của đối tượng quan sát thời kỳ estrous có thể được xác nhận bởi sự xem mạch trực tràng của tử cung cho sự hòa hợp buồng trứng cho một nang trưởng thành và các cấp P4 của bò được cân nhắc trong estrus.
f.Rụng trứng:
Bò là duy nhất trong số các động vật ở trang trại ở chỗ chúng rụng trứng 10-20 giờ sau khi kết thúc đứng estrus, hoặc trên mức trung bình 30 giờ sau khi sự khởi đầu của estrus.
Ngoại trừ chu kỳ sau sinh đầu tiên estrous.
III. Quá trình phóng thích và sản xuất tinh dịch.
Khoảng thời gian của 1 chu kỳ của biểu mô là 13,5 ngày cho Bò. Khoảng 61 ngày ( 45 chu kỳ) thì cần thiết cho việc hoàn thành việc sinh tinh.
Sự sản xuất tinh trùng hàng ngày số lượng những tinh trùng có tiềm năng sản xuất mỗi ngày ở tinh hoàn thì có liên quan rất lớn đến kích cỡ của tinh hoàn , mà chúng có thể được ước lượng bởi chiều dài và độ rộng hoặc là chu vi của bìu.
Tuy nhiên kích cỡ tinh hoàn và chu vi của bìu bị ảnh hưởng bởi lứa tuổi và di truyền.
Tuy nhiên kích cỡ tinh hoàn và chu vi của bìu bị ảnh hưởng bởi lứa tuổi và di truyền.
Sự khác nhau lớn xuất hiện trong đặc tính sản lượng tinh dịch giữa những con bò,giữa những lần phóng tinh thứ nhất và lần phóng tinh thứ hai, giữa những lần thu thập.
IV.Giao phối.
Thói quen giao phối,vào lúc nghỉ ngơi dương vật bò là một loại mô có tính đàn hồi thì nó ít liên quan đến đường kính và sự trương cứng.
Trong suốt quá trình căng cứng ,dương vật sẽ chịu đựng sự tăng chút ít về đường kính. Sự nhô ra bị ảnh hưởng bởi sự thẳng ra của việc hình thành nếp uốn theo hình chữ S .
Thị giác thì quan trọng hơn khứu giác trong sự kích thích về sinh dục của bò.
kích cỡ tinh hoàn được ước lượng bằng cách đo chiều dài và độ rộng hoặc chu vi bìu
Giao phối ở gia súc (ngắn hơn 5 giây) ngắn hơn so với của ngựa và heo.
Hầu hết những nơi sản xuất vật nuôi trong nước Mỹ sử dụng thụ tinh nhân tạo, nhưng hơn 90% thịt bò bred bởi thiên nhiên.
Hầu hết những giống sống theo đàn có giới hạn mùa chịu giống từ 9 đến 12 tuần nên những bò cái để trong mùa xuân thời gian này cần cung cấp nhiều thức ăn có giá trị.
V.Thời kỳ mang thai và quá trình sinh đẻ.
1)Thời kỳ mang thai.
Độ dài của quá trình mang thai khoảng từ 276 đến 295 ngày.
Khác trong thời kì mang thai dài là sự kết hợp với việc song sinh, giới tính của bê con, và số lần mang thai của bò cái.
Lúc gần đẻ thì âm đạo dày, dưới vú tăng lên, và đầu vú xuất hiện căng phồng với sữa.
2)Dấu hiệu sinh đẻ.
Suốt gian đoạn đầu của hoạt động (nở tử cung), có thể không ngừng và biểu hiện dấu hiệu của đau bụng.
Màng ối hoặc “bao nước thứ 2” xuất hiện ở âm hộ.
Những bò cái tốn 4 đến 6 giờ để tống nhau thai. Nó ăn sau khi sinh nhiêu hơn cừu.
3)Thời kì sinh đẻ.
Suốt thời kì sinh đẻ hoặc sau thời kì đẻ tử cung co hồi lại và bắt đầu lại thời kì động dục phải xuất hiện trước khi sự thụ tinh có thể xuất hiện.
Sừng tử cung được coi là ống cuộn vào khi xem mạch trực tràng cả hai sừng có kích thước gần bằng nhau.
VI.Chức năng của buồng trứng.
Sau khi sự sanh đẻ, bò vào một thời kỳ anestrus sau khi sinh.
Sự kết thúc của anestrus được đánh dấu bởi sự rụng trứng đầu tiên sau sinh.
Hầu hết bò sữa được phát hiện trong kỳ dộng dục và sự tạo noãn tại kỳ động dục thứ hai vào khoảng 35 ngày sau khi sinh.
Ảnh hưởng của sữa: Sự hoạt động của buồng trứng trong việc tạo sữa vẫn còn là một vấn đề lớn với sự quản lý của bò thịt và gia súc trên toàn thế giới nhằm mục đích kép. Một vài nghiên cứu đã được đưa về cơ chế mà qua đó sự tiết sữa ở bê con là làm yếu gonadotrephin và mở rộng sau khi sinh trong kỳ rụng trứng.
Thiếu dinh dưỡng: mức độ vừa phải của việc thiếu ăn, trước hoặc sau khi đẻ, có thể ảnh hưởng các cơ chế của sự trưởng thành nang cuối cùng và sự rụng trứng.
Quá trình sinh sản: Mặc dù cả hai mức giá đậu thai và có thai ước tính tỷ lệ bò là mang thai, sự khác biệt giữa họ từ lâu đã được công nhận. Tỷ lệ đậu thai đánh giá cao hơn tỷ lệ thụ thai khoảng 10-15% bò.
Khả năng sinh sản: Khoảng đẻ tối ưu cho cả hai thịt bò và bò sữa là 12 tháng, nhưng khoảng tháng 12 là ít.
B)SINH SẢN Ở TRÂU
I.Thời kỳ động dục.
Tuổi trưởng thành hoặc tuổi trong lần đầu tiên giao phối là khó xác định vì những vấn đề liên quan đến hiện tượng lên giống.
Con trâu ở tuổi thành thục muộn hơn ở các loài gia súc khác .
Loài sống ở sông lên giống sớm hơn loài sống ở đầm lầy.
Tinh hoàn ở trâu xuống bìu khi con vật được nuôi từ 2-4 tháng ,mặc dù có thể chúng có mặc khi vừa mới sinh ra ở một số loài động vật .
Tinh hoàn của trâu không hoạt động kéo dài từ 0 đến 7 tháng tuổi ,sau thời kì đó là 1 số giai đoạn tăng trưởng nhanh chóng và hoạt động,tinh hoàn sinh ra kích thích tố androgenic.
Xuất tinh có chứa tinh trùng hữu hiệu chỉ khi động vật là khoảng 24 tháng tuổi.
II .Chu kỳ động dục.
1) Mùa sinh sản:
Những con trâu , như gia súc, thì những kỳ động dục và lên giống trong suốt cả năm.
Các mẫu báo cáo theo mùa đẻ ở nhiều quốc gia đã được quy về nhiệt độ xung quanh, ngày chiếu sáng, và cung cấp thức ăn.
Hiệu quả của độ chiếu sang trong ngày trên chu kỳ động dục tương tự như trong cả hai con trâu và bò.
Nhiệt độ cũng ảnh hưởng đến chu kỳ rụng trứng và nhu cầu giao phối.
2) Thay đổi theo chu kỳ.
Nhiều thay đổi tuần hoàn trong buồng trứng, cơ quan sinh dục dạng hình ống, và tiết ra kích thích tố trong con trâu được sánh ngang với các gia súc.
3) Thời kỳ động dục và rụng trứng:
Kỳ động dục
Dấu hiệu: Xả nhầy từ âm hộ rõ ràng, bồn chồn, tăng tần suất đi tiểu, sự hét, và sữa sản xuất không phải là dấu hiệu đáng tin cậy của kỳ động dục.
Kỳ động dục vào buổi tối muộn thì hoạt động tình dục cao điểm 18h00 – 6h00.
4) Biến động sinh sản:
Những mức độ thụ tinh là 50 tới 60% với tinh dịch đã làm lạnh 25 tới 45% với tinh dịch frocen, và hơn 60% với dịch vụ tự nhiên.
Những nhịp độ mang thai theo sau một mùa nhân giống bị hạn chế từ 2 đến 3 tháng và phụ thuộc vào tình trạng dinh dưỡng và cho sữa của những trâu mẹ.
Trong những đàn trâu đầm lầy thay đổi từ 30 đến 75%.
Cai sữa sớm, cảm ứng của thời kì động dục, dinh dưỡng tốt hơn đã đẩy nhanh việc nối lại hoạt động của buồng trứng sau khi sinh sớm và giảm những ngày mở trong trâu cái.
* Một số tài liệu cũ có thể bị lỗi font khi hiển thị do dùng bộ mã không phải Unikey ...
Người chia sẻ: Lê Thanh Gấu
Dung lượng: |
Lượt tài: 1
Loại file:
Nguồn : Chưa rõ
(Tài liệu chưa được thẩm định)