Sinh học

Chia sẻ bởi Nguyễn Minh Thịnh | Ngày 23/10/2018 | 83

Chia sẻ tài liệu: sinh học thuộc Bài giảng khác

Nội dung tài liệu:

MẾN CHÀO CÔ VÀ CÁC BẠN ĐẾN VỚI BUỔI BÁO CÁO
NHÓM: II
MÔN: HÌNH THÁI GIẢI PHẨU THỰC VẬT
GV: NGUYỄN THỊ BÉ NHANH
PHẦN II: THÂN CÂY
Nội dung báo cáo:

I.Hình thái ngoài của thân.
. +.Các bộ phận của thân
+.Các dạng thân
+.Biến dạng của thân
II.Cấu tạo giải phẩu của thân
+.Mô phân sinh ngọn
+.Cấu tạo sơ cấp của thân cây hai lá mầm
+.Cấu tạo thứ cấp của thân cây hai lá mầm
+.Cấu tạo của thân cây một lá mầm
HÌNH THÁI NGOÀI CỦA THÂN:
- Các bộ phận của thân: thân chính, cành và sự phân
cành        
+ Thân chính: thân gồm một thân chính thường mọc theo hướng thẳng đứng, ngược hướng với rễ. Khi còn non thân chính có màu lục, khi già chuyển sang màu nâu hay xám.
        Hình dạng, kích thước của thân chính không giống nhau: ở phần lớn các loài cây, thân chính là một trụ hình nón với mặt cắt tròn (thông, phi lao, nhãn…), có khi mặt cắt là hình 3 cạnh (cỏ gấu, cói, xương rồng ta…), hoặc hình vuông (tía tô, bạc hà…), hoặc hình 5 cạnh, nhiều cạnh (một số loại xương rồng như xương rồng ngọc lân), hoặc có loại thân dẹt (xương rồng bà, thân cây quỳnh)
 
        Có cây không có thân như mã đề, có cây thân rất thấp bé chỉ vài cm, nhưng nhiều cây có thân vừa cao vừa to như chò chỉ, bạch đàn Châu Úc…
+ Các bộ phận của thân chính:
Chồi ngọn: ở ngọn thân có chỗ hơi phinh to ra, hình nón gọi là chồi ngọn. Chồi ngọn gồm nhiều lá non phủ lên nhau che chở cho mô phân sinh ngọn ở phía trong.  
Chồi nách: ở nách các lá dọc theo thân có nhiều chồi nhỏ khác, cấu tạo giống như chồi ngọn gọi là chồi nách. Các chồi này phát triển thành cành hoặc hoa.  
Giữa chồi ngọn và chồi nách có mối quan hệ sinh lí phức tạp: chồi ngọn thường kìm hãm sự phát triển của chồi nách, khi chồi ngọn chết thì chồi nách phát triển mạnh.
 Chồi phụ: có thể mọc trên thân chính, cành hoặc rễ bị chặt ngang, có khi ở cả trên thân rễ của nhiều loài cỏ. Chồi phụ sẽ phát triển thành thân hoặc cành mới. Chồi phụ là hình thức sinh sản sinh dưỡng của thực vật có hoa, có ý nghĩa quan trọng trong trồng trọt.
Hình 13.1: ảnh chụp một đoạn thân cây
1.Chồi ngọn.
2.Chồi nách.
3.Thân chính
4.cành.
+ Mấu và gióng :
. Mấu là chỗ lá dính vào thân phía dưới chồi nách. Khoảng cách giữa hai mấu liên tiếp gọi là gióng. Các gióng ở phía ngọn có thể dài ra thêm nhưng các gióng ở phía dưới của thân sau khi đạt mức độ nhất định sẽ không dài ra thêm nữa.
        Sự tăng trưởng của cây do hoạt động của mô phân sinh gióng gọi là sinh trưởng gióng.Như vậy thân dài ra nhờ sự sinh trưởng ở đỉnh ngọn và sinh trưởng gióng.
       
Các kiểu phân nhánh:
        + Phân nhánh đôi (lưỡng phân): chồi ngọn dược phân đôi thành hai đỉnh sinh trưởng, mỗi đỉnh sẽ phát triển thành một cành mới, các chồi cành được tiếp tục phân đôi theo kiểu lưỡng phân, thường gặp ở tế bào bậc thấp như thông đất, quyển bá, tản một số tảo.
         + Phân nhánh đơn trục (đơn phân): chồi ngọn của thân phát triển thành trục chính và tiếp tục sinh trưởng có khi đến suốt đời của cây. Các cành bên được hình thành từ chồi nách của thân chính, các cành này cũng phát triển theo kiểu đơn phân (thân thông, mít…).        
+ Phân nhánh hợp trục: chồi ngọn ngừng sinh trưởng sớm hoặc chết đi, chồi nách phát triển thay thế chồi ngọn, sau một thời gian chồi nách này lại ngừng sinh trưởng hoặc chết đi và được thay thế bằng chồi nách sát đó. Phân nhánh hợp trục tạo thân chính rất ngắn và trục dọc là tập hợp của nhiều trục của các cấp cành bên thay thế liên tục (khoai tây, bí ngô…).
Các kiểu phân nhánh của cây
a. Phân nhánh đôi; b. Phân nhánh đơn trục;
c-d. Phân nhánh hợp trục
Các dạng thân: thân gỗ, thân bụi, thân bụi nhỏ, thân cỏ        
- Thân gỗ: là thân của các cây sống nhiều năm, thân chính phát triển mạnh, có sự hóa gỗ. Cây gỗ được chia thành 3 loại:
        + Cây gỗ to: thân cao từ 20m trở lên (chò chỉ, chò nâu…)
        + Cây gỗ vừa: thân cao 10-20m (sấu, đa, dẻ…)
        + Cây gỗ nhỏ: thân cao dưới 10m (na, ổi, mít, hồng xiêm…)
- Thân bụi: thân dạng gỗ sống nhiều năm nhưng thân chính chết hoặc kém phát triển, cành xuất phát từ gốc. Cây thân bụi có chiều cao không quá 6m (sim, mua, sú…).
 - Thân bụi nhỏ: cây sống nhiều năm, có thân hóa gỗ một phần ở gần gốc, phần ngọn không hóa gỗ và chết vào cuối thời kì dinh dưỡng. Tại gốc hình thành nên những chồi mới, làm cho cây tiếp tục sinh trưởng, phát triển (cỏ lào).        
- Thân cỏ: thân nằm trên mặt đất và chết vào cuối thời kì ra hoa kết quả, không có cấu tạo thứ cấp.
- Thân cỏ có nhiều loại: cỏ một năm, cỏ hai năm, cỏ nhiều năm.
-  Trong không gian, thân có nhiều loại: thân đứng, thân bò và thân leo.
X
X
X
X
X
X
X
Hãy tìm những từ thích hợp điền vào chổ trống trong bài dưới đây:
Nhà tôi trồng một cây mướp, tôi thường xuyên chăm sóc nên coy lớn rất nhanh. Khi quan sát cây mướp, thấy rõ thân cây gồm : …………………………………………..
Những cành mướp với nhiều lá to, phát triển từ ………………. Và những chùm hoa mướp vàng phát triển từ ………………..
Chưa đầy hai tháng cây mướp nhà tôi đã phủ đầy giàn, che nắng cho sân. Nó cho tôi…………. …thật ngon.
Có bạn hỏi cây mướp là loại thân gì ? Nó là ……………… có cách leo bằng…………………. Khác với cây mồng tơi trong vườn cũng là ………………. Nhưng lại leo bằng ………….............
thân chính, cành, chồi ngọn và chồi nách
chồi lá
chồi hoa
quả
thân leo
tua cuốn
thân leo
thân quấn
Bài tập 
Biến dạng của thân:        
- Thân củ: su hào, khoai tây…
- Thân rễ: dong ta, gừng, nghệ, cỏ tranh, cỏ gừng…
- Thân mọng nước: xương rồng ta, cành giao…
 - Giò thân: củ cái, củ từ…
- Thân hành: hành, kiệu, tỏi…
- Cành hình lá: cây quỳnh, càng cua
 - Gai: mọc ở nách lá do cành biến đổi lam nhiệm vụ bảo vệ thân như chanh, bưởi…  
1.Thân củ dưới mặt đất của khoai tây;
2.Thân rễ dưới mặt đất của cây dong ta;
3. Thân mọng nước;
4.Thân hành;  
II. Cấu tạo giải phẫu của thân:
a) Mô phân sinh ngọn (đỉnh sinh trưởng, đỉnh ngọn):
        - Nằm ở vị trí tận cùng của thân, cành, gồm 3 loại mô phân sinh sơ cấp
+ Tầng sinh bì (lớp nguyên bì) nằm ở ngoài cùng cho ra biểu bì của thân.
+ Ở giữa là mô phân sinh cơ bản: sinh ra vỏ, tủy và các tia tủy.
+ Tầng sinh trụ (tầng trước phát sinh) nằm ở trong cùng tạo ra libe sơ cấp, gỗ sơ cấp và tầng phát sinh gỗ-libe.
 
b) Cấu tạo sơ cấp của thân cây Hai lá mầm:
- Biểu bì: là mô bì sơ cấp của thân, được hình thành từ lớp nguyên bì của mô phân sinh ngọn, gồm một lớp tế bào sống, không chứa diệp lục, thực hiện chức năng bảo vệ. Biểu bì thân gồm những tế bào hơi kéo dài dọc theo thân và ít lỗ khí.
        Trong điều kiện khô hạn, tế bào biểu bì có lớp cuticun phủ mặt ngoài tế bào nhằm làm giảm sự mất nước, bảo vệ cây chống nấm bệnh và vi khuẩn.
       
- Vỏ sơ cấp: nằm sát biểu bì, được hình thành từ mô phân sinh cơ bản của mô phân sinh ngọn, gồm 2 loại mô: mô mềm vỏ và mô dày.
        + Mô dày: nằm sát biểu bì, gồm các tế bào sống có vách hóa dày không đều, tế bào dài ra khi cây phát triển. Mô dày có chức năng nâng đỡ và bảo vệ cho cây.
+ Mô mềm vỏ: nằm phía trong mô dày, gồm các tế bào có kích thước lớn, sắp xếp tạo các khoảng trống gian bào khá lớn. Mô mềm vỏ có chứa diệp lục tạo nên màu lục của thân non. Ngoài ra chúng còn chứa tinh bột, protein, lipit. Mô mềm có chức năng quang hợp, bài tiết, nâng đỡ và dự trữ.
        + Vỏ một số loài Hạt trần có các ống dẫn dầu, một số cây Hạt kín có túi tiết dầu hoặc ống nhựa mủ.
- Vỏ trong: là lớp trong cùng của vỏ sơ cấp. Vỏ trong của thân phát triển yếu hơn vỏ trong của rễ, đôi khi không phân biệt được với mô mềm vỏ.
        + Các tế bào vỏ trong chứa tinh bột, xếp sát nhau, có hình dạng tương đối giống tế bào mô mềm nhưng bé hơn và hơi kéo dài. Ở một số loài thân cỏ Hạt kín, vỏ trong cũng có đai caspari như vỏ trong của rễ. Vỏ trong của thân ngầm phát triển mạnh hơn sơ với vỏ trong của thân trên mặt đất.
  - Trụ giữa: gồm vỏ trụ, hệ dẫn, ruột và tia ruột
        + Vỏ trụ: là lớp ngoài cùng của trụ giữa, có nguồn gốc từ mô phân sinh sơ cấp và có khả năng phân chia để tăng số lượng các lớp tế bào, các tế bào này phân hóa tạo thành các mô vĩnh viễn (mô cơ và mô cơ bản). Mô cơ được hình thành từ sợi vỏ trụ hay sợi libe (sợi lanh, sợi gai). Vỏ trụ cũng có thể hình thành nên các ống nhựa mủ, ống tiết hoặc tạo nên lớp trong của chu bì.
        + Hệ dẫn: các bó libe và bó gỗ họp lại tạo thành bó dẫn xếp chồng với libe nằm ngoài và gỗ nằm trong (bó libe-gỗ hay bó dẫn). Một số loài có bó dẫn chồng kép hoặc bó đồng tâm.

+ Ruột và tia ruột:
Ruột là phần mô mềm nối phần vỏ sơ cấp với phần giữa của thân, có nguồn gốc từ mô phân sinh ngọn, có chức năng dự trữ.
Tia ruột do mô phân sinh ngọn phân hóa nên, gồm các tế bào mô mềm sắp xếp tỏa tròn thành các tia xen kẽ giữa các bó dẫn.
Tia ruột có chức năng dẫn truyền nước, muối khoáng các chất hữu cơ hòa tan từ các bó dẫn đến các tế bào sống của vỏ và ruột.
Số lượng, kích thước và sự sắp xếp của tia ruột phụ thuộc vào loài cây, tuổi của cây và số lượng bó dẫn.
Cấu tạo sơ cấp của thân cây Hai lá mầm
A. Vỏ sơ cấp; B. Trụ giữa
1. Biểu bì; 2. Mô dày; 3. Mô mềm vỏ; 4. Vỏ trong;
5. Vỏ trụ; 6. Libe sơ cấp; 7. Tầng trước phát sinh;
8. Gỗ sơ cấp; 9. Mô mềm ruột
Cấu tạo sơ cấp thân cây cỏ hôi
c) Cấu tạo thứ cấp của thân cây Hai lá mầm :
        - Các cây Hai lá mầm sống một năm và hầu hết các cây Một lá mầm không có cấu tạo thứ cấp, chỉ có những cây Hạt trần và cây Hai lá mầm sống nhiều năm mới có cấu tạo thứ cấp.
        - Cấu tạo thứ cấp thân cây Hai lá mầm được quan sát trên lát cắt ngang bao gồm: vỏ thứ cấp, tầng sinh trụ, libe và gỗ thứ cấp.
       + Vỏ thứ cấp: đối với các loài cây, vỏ sơ cấp không giữ được lâu, lúc bấy giờ tầng sinh vỏ sẽ xuất hiện thay cho biểu bì.  
    + Tầng phát sinh trụ: tầng phát sinh khác với tầng trước phát sinh ở chỗ là có cấu trúc màng TB chắc hơn, sự hóa không bào mạnh hơn. Có hai loại tế bào: tế bào hình thoi và tế bào hình tròn.
Tế bào hình thoi có chiều dài lớn hơn chiều rộng hàng chục lần, có khả năng phân chia rất nhanh theo mặt phẳng tiếp tuyến. Một trong hai tế bào con được hình thành vẫn là tế bào của tầng phát sinh, tế bào thứ hai sẽ phân hóa thành gỗ hay libe tùy theo vị trí của nó ở mặt trong hay mặt ngoài.
Số tế bào hình tròn ít hơn tế bào hình thoi, thường tập hợp thành từng nhóm, có số lượng, kích thước khác nhau tùy từng loại cây. Đây là các tế bào mẹ của tia ruột thứ cấp, chúng phân hóa tạo nên tia gỗ và tia libe.
+ Libe và gỗ thứ cấp :
Libe thứ cấp được hình thành từ lớp tế bào ngoài của tầng phát sinh, có 2 loại: libe mềm gồm mạch rây, tế bào kèm và mô mềm; libe cứng gồm sợi libe, mô cứng và tế bào đá. Ở một số loài, trong libe thứ cấp còn có các tế bào tiết, ống tiết nhựa và ống nhựa mủ.
Gỗ thứ cấp: được hình thành ở phía trong tầng phát sinh trụ và tạo thành vòng liên tục, gồm mạch gỗ, quản bào, sợi gỗ, mô mềm và tia gỗ.
Ở các cây gỗ trưởng thành, gỗ thường được chia làm 2 miền: dác và ròng.
Miền ngoài gọi là gỗ dác, các tế bào sống, mềm, có màu nhạt, là lớp gỗ trẻ hơn gồm các mạch gỗ, mô mềm và sợi gỗ thực hiện chức năng vận chuyển nước và muối khoáng.
        Miền trong gọi là gỗ ròng, là phần gỗ chết, rắn, có màu sậm hơn, là lớp gỗ già, gồm các mạch gỗ đã bị nút lại ở các thể nút, mất khả năng vận chuyển, có chức năng nâng đỡ, có giá trị sử dụng lớn vì độ rắn chắc và chống mối mọt.
Cấu tạo thứ cấp thân cây dâm bụt
Cấu tạo thứ cấp thân cây cà giâm
d) Cấu tạo của thân cây Một lá mầm :
     
   - Thân cây Một lá mầm khác thân cây Hai lá mầm về cách sắp xếp các bó dẫn và thiếu tầng phát sinh.
        - Thân cây Một lá mầm thường không phân hóa rõ thành vỏ và trụ giữa. Do không có tầng sinh trụ nên không có sự sinh trưởng thứ cấp, luôn giữ nguyên cấu tạo sơ cấp. Thân dày lên do sự tăng thể tích của các tế bào không phải do sự tăng số lượng (trừ các cây gỗ), do đó thân hạn chế sự tăng trưởng về chiều ngang.
        - Trên lát cắt ngang, quan sát từ ngoài vào trong ta thấy
            + Bên ngoài là lớp biểu bì có tầng cuticun khá phát triển, dưới lớp biểu bì là vòng tế bào mô cứng.
           + Bên trong là khối tế bào mô mềm gồm các tế bào tròn cạnh, càng đi vào phần giữa tế bào càng lớn hơn.
           + Các bó dẫn kiểu chồng kín, sắp xếp lộn xộn trong khối tế bào mô mềm, các bó ở phía ngoài bé và xếp sát nhau hơn các bó ở phía trong. Xung quanh mỗi bó dẫn có vòng tế bào mô cứng.
           + Trong mỗi bó dẫn, phần libe gồm ống rây và tế bào kèm, phần gỗ 1 quản bào xoắn và 1 quản bào vòng. Các tế bào mô mềm xung quanh quản bào sớm bị chết đi để lại một khoang trống.
Sơ đồ cấu tạo thân cây Một lá mầm (cây ngô)
1. Biểu bì; 2. Vòng mô cơ; 3. Libe;
4. Gỗ; 5. Mô mềm
Cấu tạo kiểu thân rạ ở một số cây Một lá mầm:
           - Thường gặp ở các cây họ Lúa, phần giữa thân thường chết và để lại một khoang rỗng ở phần gióng, mấu đặc vẫn giữ nguyên cấu trúc ban đầu.
            - Thân rạ có mô cứng phát triển tạo thành một vòng biểu bì dày. Các bó dẫn được xếp thành 2 vòng: vòng ngoài gồm các bó dẫn bé xếp trong lớp mô cứng, vòng trong gồm các bó dẫn lớn nằm sâu trong thân.
            - Xen giữa vòng mô cơ có những đám mô mềm chứa diệp lục nằm dưới biểu bì, có lỗ khí, tạo thân có màu lục. Ở các cây trưởng thành mô này thường bị hủy đi.
- Kiểu sinh trưởng thứ cấp nhờ sự hoạt động của mô phân sinh từng vùng: thường gặp ở các cây thân gỗ thuộc bộ Hành (Liliales) như các chi Huyết dụ (Cordyline), Huyết giác (Dracaena)…Thân của chúng hàng năm dày lên thêm nhờ sự hình thành các bó dẫn mới trong thân, các bó này do các tế bào mô mềm nằm ngoài các bó dẫn lúc đầu phân chia và họp thành một vòng phát sinh liên tục gọi là vòng dày.

Sự chuyển tiếp cấu tạo từ rễ lên thân
  - Sự tiến hóa của trụ giữa:
        + Trụ giữa là tập hợp tất cả các mô dẫn và mô cơ bản kèm theo của thân và rễ (cơ quan trục). Cấu tạo trụ giữa ở các thực vật có mạch rất đa dạng, thể hiện sự tiến hóa.
        + Sự tiến hóa của trụ giữa theo hướng tăng cường bề mặt tiếp xúc giữa các mô dẫn với mô cơ bản. Theo 2 con đường:
        1) Gỗ tạo thành những chỗ lồi ăn sâu vào phần mô mềm, dẫn tới hình thành trụ hình sao (gặp ở Asteroxylon trong ngành Quyết trần), phát triển xa hơn theo hướng này sẽ cho ra kiểu trụ giữa với libe ít nhiều xen vào các dải gỗ, chia cắt gỗ thành những đám riêng biệt, đó là kiểu trụ hình dải, gặp ở ngành Thông lá (Lycophyta).
        2) Xuất hiện ruột và trụ có dạng như một ống rỗng, sự liên hệ giữa hệ dẫn với các mô mềm được thực hiện ở cả mặt ngoài và mặt trong, đó là kiểu trụ ống. Trụ ống có thể đơn (1 vòng libe ở phía ngoài gỗ) hoặc kép (libe bao quanh gỗ cả ở phía ngoài và phía trong). Libe có thêm ống rây (Dương xỉ).Các loài hiện đang sống không có các kiểu trụ trên.
        - Sự tiến hóa xa hơn của trụ có liên quan đến sự phát triển của lá. Lá càng nhiều thì sự phân nhánh càng mạnh.
        - Từ trụ ống kép cắt thành nhiều phần, mỗi phần là một bó dẫn đồng tâm với libe bao ngoài gỗ để đảm bảo tốt hơn việc tiếp xúc giữa mô dẫn với các mô cơ bản. Đó là kiểu trụ mạng, gặp ở các loài dương xỉ hiện nay.
        - Ở các cây Hai lá mầm, quá trình mô mềm hóa còn diễn ra nhanh hơn. Từ kiểu trụ ống đơn tiến hóa theo hướng cắt ra nhiều bó, cách nhau bởi các khoảng mô mềm rộng. Trụ giữa gồm những bó mạch riêng rẽ được bao quanh bởi mô mềm. Các bó xếp thành một vòng gần như đều đặn, đó là kiểu trụ thật.
        - Ở các cây Một lá mầm có kiểu trụ phân tán, là kiểu trụ có cấu tạo tiến hóa nhất. Số lượng bó dẫn nhiều, các bó xếp lộn xộn, phân tán, không theo một trật tự nào.
Sơ đồ tiến hóa của các kiểu trụ dẫn
Trụ nguyên;
Trụ hình sao;
Trụ hình dải;
Trụ ống đơn;
Trụ ống kép;
Trụ đốt;
Trụ mạng;
Trụ thật;
Trụ phân tán
BÀI BÁO CÁO ĐẾN ĐÂY LÀ KẾT THÚC
NHÓM 2:
LỚP:CĐSHS11
Bye bye!
See you again !
* Một số tài liệu cũ có thể bị lỗi font khi hiển thị do dùng bộ mã không phải Unikey ...

Người chia sẻ: Nguyễn Minh Thịnh
Dung lượng: | Lượt tài: 1
Loại file:
Nguồn : Chưa rõ
(Tài liệu chưa được thẩm định)