Sang kien day hoc Lich su 7
Chia sẻ bởi Phạm Thị Kiều Vân |
Ngày 10/05/2019 |
33
Chia sẻ tài liệu: Sang kien day hoc Lich su 7 thuộc Lịch sử 7
Nội dung tài liệu:
Phần thứ nhất: ĐẶT VẤN ĐỀ
I . LÝ DO CHỌN SKKN.
Từ trước đến nay trong dạy và học, hiện tượng dạy học theo kiểu “đọc – chép” được coi là một cách dạy học để truyền tải kiến thức cho học sinh và được sử dụng tương đối phổ biến trong dạy – học Lịch sử ở nhiều trường. Ngành Giáo dục và Đào tạo cũng đã có nhiều cuộc hội thảo và cũng đã đưa ra nhiều phương pháp dạy học tích cực hơn… nhưng hiện tại không ít giáo viên trong các nhà trường vẫn sử dụng cách dạy học theo kiểu “đọc – chép”
Phải nói rằng trong dạy học, cũng có lúc giáo viên cần phải đọc cho học sinh chép như môn chính tả...ở bậc Tiểu học, đọc hoặc ghi lên bảng các công thức toán học, bảng cửu chương, một sự kiện lịch sử, một số yếu tố địa lý, đoạn thơ, các khái niệm...ở bậc Trung học, điều này không có nghĩa là giáo viên đã sử dụng phương pháp “đọc – chép”.
Cũng phải khẳng định rằng, trong giáo học pháp, chưa bao giờ trong trường học có phương pháp dạy học mang tên “đọc – chép”. Do đó, “đọc” thế nào và học sinh “chép” ra sao mới là quan trọng. Bộ Giáo dục và Đào tạo chủ trương chống việc dạy học “chủ yếu qua đọc chép – nhìn chép” nghĩa là chống việc chỉ đọc chép, truyền thụ kiến thức một chiều trong cả một tiết lên lớp.
Với cách dạy này, người thầy đã máy móc, rập khuôn trong dạy học, dễ có tư tưởng phó mặc, không hứng thú trong cập nhật kiến thức, không sáng tạo trong việc tìm kiếm các phương án thiết kế bài dạy phù hợp với mọi đối tượng học sinh trong lớp mình phụ trách để kết quả giảng dạy đạt được mức tối ưu. Người học theo cách này sẽ trở nên thụ động, chỉ biết thu nhận kiến thức một chiều, không động não suy nghĩ, không biết tự mình chiếm lĩnh tri thức, trở nên thui chột về tư duy, khó vận dụng kiến thức vào cuộc sống.
Hơn nữa, đã dạy theo kiểu “đọc – chép” thì đề thi phải ra theo kiểu học thuộc. Học sinh khi học, chép được điều gì thì lúc thi, lại chép những điều ấy vào bài làm, không có khả năng sáng tạo, học sinh hiểu bài một cách máy móc không sáng tạo, không thể hiện được “cái riêng” của mình hoặc không dám thể hiện “cái riêng” của mình. Bài dạy học đọc – chép tất yếu phải được tổ chức theo phương thức diễn dịch, do đó tiết dạy “đọc – chép” sẽ nhàm chán và mang tính áp đặt.
Trong giai đoạn hiện nay, xu hướng dạy học hiện đại với sự kết hợp những thành tựu công nghệ thông tin đã và đang diễn ra một cách khá phổ biến ở các ngành học, cấp học. Công nghệ thông tin với tư cách là một phương tiện hỗ trợ cho việc dạy học đang chứng tỏ những ưu thế và hiệu quả trong quá trình dạy học nói chung và đối với bộ môn lịch sử nói riêng.
Bản thân là một giáo viên trẻ, có ham muốn hiểu biết nhiều hơn về công nghệ thông tin. Với thực trạng kết quả học tập môn Lịch sử của học sinh hiện nay rất thấp, là một giáo viên dạy môn Văn – Sử tôi cũng rất trăn trở, từ những năm trước tôi cũng đã tìm nhiều cách để thay đổi chút nào đó về cách nhìn nhận khi học tập môn Lịch sử như: Nghiên cứu đề tài về ứng dụng CNTT trong dạy học Lịch sử ; Tích hợp tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh vào dạy học Lịch sử... Đặc biệt trong năm học 2011 – 2012 tôi được đi tập huấn về : Các phương pháp dạy học tích cực của dự án “ Giáo dục vùng khó khăn nhất” do sở Giáo dục và Đào tạo tổ chức, trong đó có 6 mô-đun và tôi rất ấn tượng với mô-đun có ứng dụng bản đồ tư duy trong dạy học. Do vậy năm học này tôi đã mạnh dạn chọn nội dung: “Ứng dụng bản đồ tư duy trong dạy học bộ môn Lịch sử 7” để nghiên cứu và thực nghiệm nhằm nâng cao chất lượng dạy và học môn Lịch sử trong nhà trường.
II. Đối tượng nghiên cứu
Qua hơn 10 năm dạy học lịch sử ở nhà trường THCS tôi nhận thấy học sinh rất thích học môn lịch sử, khi giáo viên tích cực sử dụng đồ dùng trực quan, nhất là bản đồ tư duy khi giáo viên đưa ra từng đơn vị sự kiện lịch sử mà các em học sinh đang cần tìm hiểu; nhưng nếu giáo viên không sử dụng đồ dùng trực quan trên lớp thì sự ham thích, hào hứng trong học lịch sử bị l
I . LÝ DO CHỌN SKKN.
Từ trước đến nay trong dạy và học, hiện tượng dạy học theo kiểu “đọc – chép” được coi là một cách dạy học để truyền tải kiến thức cho học sinh và được sử dụng tương đối phổ biến trong dạy – học Lịch sử ở nhiều trường. Ngành Giáo dục và Đào tạo cũng đã có nhiều cuộc hội thảo và cũng đã đưa ra nhiều phương pháp dạy học tích cực hơn… nhưng hiện tại không ít giáo viên trong các nhà trường vẫn sử dụng cách dạy học theo kiểu “đọc – chép”
Phải nói rằng trong dạy học, cũng có lúc giáo viên cần phải đọc cho học sinh chép như môn chính tả...ở bậc Tiểu học, đọc hoặc ghi lên bảng các công thức toán học, bảng cửu chương, một sự kiện lịch sử, một số yếu tố địa lý, đoạn thơ, các khái niệm...ở bậc Trung học, điều này không có nghĩa là giáo viên đã sử dụng phương pháp “đọc – chép”.
Cũng phải khẳng định rằng, trong giáo học pháp, chưa bao giờ trong trường học có phương pháp dạy học mang tên “đọc – chép”. Do đó, “đọc” thế nào và học sinh “chép” ra sao mới là quan trọng. Bộ Giáo dục và Đào tạo chủ trương chống việc dạy học “chủ yếu qua đọc chép – nhìn chép” nghĩa là chống việc chỉ đọc chép, truyền thụ kiến thức một chiều trong cả một tiết lên lớp.
Với cách dạy này, người thầy đã máy móc, rập khuôn trong dạy học, dễ có tư tưởng phó mặc, không hứng thú trong cập nhật kiến thức, không sáng tạo trong việc tìm kiếm các phương án thiết kế bài dạy phù hợp với mọi đối tượng học sinh trong lớp mình phụ trách để kết quả giảng dạy đạt được mức tối ưu. Người học theo cách này sẽ trở nên thụ động, chỉ biết thu nhận kiến thức một chiều, không động não suy nghĩ, không biết tự mình chiếm lĩnh tri thức, trở nên thui chột về tư duy, khó vận dụng kiến thức vào cuộc sống.
Hơn nữa, đã dạy theo kiểu “đọc – chép” thì đề thi phải ra theo kiểu học thuộc. Học sinh khi học, chép được điều gì thì lúc thi, lại chép những điều ấy vào bài làm, không có khả năng sáng tạo, học sinh hiểu bài một cách máy móc không sáng tạo, không thể hiện được “cái riêng” của mình hoặc không dám thể hiện “cái riêng” của mình. Bài dạy học đọc – chép tất yếu phải được tổ chức theo phương thức diễn dịch, do đó tiết dạy “đọc – chép” sẽ nhàm chán và mang tính áp đặt.
Trong giai đoạn hiện nay, xu hướng dạy học hiện đại với sự kết hợp những thành tựu công nghệ thông tin đã và đang diễn ra một cách khá phổ biến ở các ngành học, cấp học. Công nghệ thông tin với tư cách là một phương tiện hỗ trợ cho việc dạy học đang chứng tỏ những ưu thế và hiệu quả trong quá trình dạy học nói chung và đối với bộ môn lịch sử nói riêng.
Bản thân là một giáo viên trẻ, có ham muốn hiểu biết nhiều hơn về công nghệ thông tin. Với thực trạng kết quả học tập môn Lịch sử của học sinh hiện nay rất thấp, là một giáo viên dạy môn Văn – Sử tôi cũng rất trăn trở, từ những năm trước tôi cũng đã tìm nhiều cách để thay đổi chút nào đó về cách nhìn nhận khi học tập môn Lịch sử như: Nghiên cứu đề tài về ứng dụng CNTT trong dạy học Lịch sử ; Tích hợp tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh vào dạy học Lịch sử... Đặc biệt trong năm học 2011 – 2012 tôi được đi tập huấn về : Các phương pháp dạy học tích cực của dự án “ Giáo dục vùng khó khăn nhất” do sở Giáo dục và Đào tạo tổ chức, trong đó có 6 mô-đun và tôi rất ấn tượng với mô-đun có ứng dụng bản đồ tư duy trong dạy học. Do vậy năm học này tôi đã mạnh dạn chọn nội dung: “Ứng dụng bản đồ tư duy trong dạy học bộ môn Lịch sử 7” để nghiên cứu và thực nghiệm nhằm nâng cao chất lượng dạy và học môn Lịch sử trong nhà trường.
II. Đối tượng nghiên cứu
Qua hơn 10 năm dạy học lịch sử ở nhà trường THCS tôi nhận thấy học sinh rất thích học môn lịch sử, khi giáo viên tích cực sử dụng đồ dùng trực quan, nhất là bản đồ tư duy khi giáo viên đưa ra từng đơn vị sự kiện lịch sử mà các em học sinh đang cần tìm hiểu; nhưng nếu giáo viên không sử dụng đồ dùng trực quan trên lớp thì sự ham thích, hào hứng trong học lịch sử bị l
* Một số tài liệu cũ có thể bị lỗi font khi hiển thị do dùng bộ mã không phải Unikey ...
Người chia sẻ: Phạm Thị Kiều Vân
Dung lượng: |
Lượt tài: 2
Loại file:
Nguồn : Chưa rõ
(Tài liệu chưa được thẩm định)