Quang phổ phát xạ và Robert Bunsen (Đức)
Chia sẻ bởi Trần Đức Ninh |
Ngày 09/05/2019 |
54
Chia sẻ tài liệu: Quang phổ phát xạ và Robert Bunsen (Đức) thuộc Hóa học 12
Nội dung tài liệu:
Quang phổ phát xạ và Robert Bunsen (Đức)
(30 March 1811
_ 200Birthday)
Robert Wilhelm Eberhard Bunsen (31 tháng 3 1811[1][2][3][4] – 16 tháng 8 1899) là nhà vật lý, hóa học người Đức. Ông nghiên cứu quang phổ phát xạ của các nguyên tố bị nung nóng,
và phát hiện ra caesium (năm 1860) và rubidium (năm 1861) cùng với với Gustav Kirchhoff. Bunsen phát triển một số phương pháp phân tích khí, là người tiên phong trong quang hóa, và đã làm việc đầu trong lĩnh vực hóa học a sen hữu cơ. Cùng với trợ lý phòng thí nghiệm của ông, Peter Desaga, ông đã phát triển các lò đốt Bunsen, một sự cải tiến về các lò đốt phòng thí nghiệm sau đó sử dụng. Giải thưởng Bunsen-Kirchhoff cho quang phổ được đặt theo tên Bunsen và Kirchhoff.
Robert Bunsen
Sinh 31 tháng 3, 1811
Göttingen, Vương quốc Hanover, Đức Mất 16 tháng 8, 1899 (88 tuổi)
Heidelberg, Đức
Nơi cư ngụ Đức Quốc gia Đức Ngành Hóa học Học trường Đại học Göttingen Người hướng dẫn luận án tiến sĩ Friedrich Stromeyer
Các sinh viên nổi tiếng:
Adolf von Baeyer
Fritz Haber
Philipp Lenard
Georg Ludwig Carius
Hermann Kolbe
Adolf Lieben
Carl Friedrich Wilhelm Ludwig
Viktor Meyer
Friedrich Konrad Beilstein
Henry Enfield Roscoe
John Tyndall
Edward Frankland
Dmitri Mendeleev
Thomas Edward Thorpe
Francis Robert Japp Nổi tiếng vì Phát hiện ra nguồn gốc của cacodyl; phát hiện ra caesium và rubidium.Phát minh đèn Bunsen; pin điện hóa cacbon-kẽm; phương pháp phân tích khí; phát triển phương pháp phân tích phổ Giải thưởng Huy chương Copley (1860)
Bunsen`s grave in Heidelberg`s Bergfriedhof
***Quang phổ học, theo ý nghĩa ban đầu, là môn khoa học nghiên cứu về quang phổ, tìm ra các quy luật liên hệ giữa các tính chất vật lý và hóa học của hệ vật chất với các quang phổ phát xạ hay hấp thụ của chúng; và ứng dụng các quy luật này trong các phương pháp phân tích quang phổ, tìm lại tính chất của hệ vật chất từ quang phổ quan sát được.
Mở rộng ra, phương pháp tương tự được áp dụng nghiên cứu các loại phổ, dải biến đổi của các tính chất vật lý và hóa học trong tập hợp các hạt vật chất (phân tử, nguyên tử, ion, ...), gọi là phổ học. Các phương pháp phổ học nói chung đôi khi vẫn được gọi là quang phổ học vì lý do lịch sử của thuật ngữ, dù cho chúng có thể hoàn toàn không liên quan đến việc đo đạc các quang tử nhìn thấy được trong dải quang phổ phát ra hay hấp thụ bởi vật chất.
***Quang phổ, Các phương pháp phân tích quang phổ được quan tâm trong hóa học và trong các quan sát từ xa, khi các máy thu chỉ nhận photon đến từ vật chất, mà không thực hiện đo đạc trực tiếp trên vật.
Một ví dụ trong hóa học, có thể xác định nồng độ của một chất trong một dung dịch, bằng cách tạo ra phức màu của chất cần xác định hay một chất mà có khả năng xác định gián tiếp chất cần xác định với thuốc thử hữu cơ, rồi quan sát quang phổ của hệ. Phương pháp này dựa trên sự hấp thụ bức xạ điện từ bởi các dung dịch của chất phân tích. Ở cùng một điều kiện, độ hấp thu hay mật độ quang sẽ tỷ lệ thuận với nồng độ chất hấp thụ. Điều kiện để làm thuốc thử tạo phức là phức tạo thành bền, cường độ màu mạnh, cho các phức chiết tốt, đặc biệt là chiết trong môi trường axit mạnh.
(30 March 1811
_ 200Birthday)
Robert Wilhelm Eberhard Bunsen (31 tháng 3 1811[1][2][3][4] – 16 tháng 8 1899) là nhà vật lý, hóa học người Đức. Ông nghiên cứu quang phổ phát xạ của các nguyên tố bị nung nóng,
và phát hiện ra caesium (năm 1860) và rubidium (năm 1861) cùng với với Gustav Kirchhoff. Bunsen phát triển một số phương pháp phân tích khí, là người tiên phong trong quang hóa, và đã làm việc đầu trong lĩnh vực hóa học a sen hữu cơ. Cùng với trợ lý phòng thí nghiệm của ông, Peter Desaga, ông đã phát triển các lò đốt Bunsen, một sự cải tiến về các lò đốt phòng thí nghiệm sau đó sử dụng. Giải thưởng Bunsen-Kirchhoff cho quang phổ được đặt theo tên Bunsen và Kirchhoff.
Robert Bunsen
Sinh 31 tháng 3, 1811
Göttingen, Vương quốc Hanover, Đức Mất 16 tháng 8, 1899 (88 tuổi)
Heidelberg, Đức
Nơi cư ngụ Đức Quốc gia Đức Ngành Hóa học Học trường Đại học Göttingen Người hướng dẫn luận án tiến sĩ Friedrich Stromeyer
Các sinh viên nổi tiếng:
Adolf von Baeyer
Fritz Haber
Philipp Lenard
Georg Ludwig Carius
Hermann Kolbe
Adolf Lieben
Carl Friedrich Wilhelm Ludwig
Viktor Meyer
Friedrich Konrad Beilstein
Henry Enfield Roscoe
John Tyndall
Edward Frankland
Dmitri Mendeleev
Thomas Edward Thorpe
Francis Robert Japp Nổi tiếng vì Phát hiện ra nguồn gốc của cacodyl; phát hiện ra caesium và rubidium.Phát minh đèn Bunsen; pin điện hóa cacbon-kẽm; phương pháp phân tích khí; phát triển phương pháp phân tích phổ Giải thưởng Huy chương Copley (1860)
Bunsen`s grave in Heidelberg`s Bergfriedhof
***Quang phổ học, theo ý nghĩa ban đầu, là môn khoa học nghiên cứu về quang phổ, tìm ra các quy luật liên hệ giữa các tính chất vật lý và hóa học của hệ vật chất với các quang phổ phát xạ hay hấp thụ của chúng; và ứng dụng các quy luật này trong các phương pháp phân tích quang phổ, tìm lại tính chất của hệ vật chất từ quang phổ quan sát được.
Mở rộng ra, phương pháp tương tự được áp dụng nghiên cứu các loại phổ, dải biến đổi của các tính chất vật lý và hóa học trong tập hợp các hạt vật chất (phân tử, nguyên tử, ion, ...), gọi là phổ học. Các phương pháp phổ học nói chung đôi khi vẫn được gọi là quang phổ học vì lý do lịch sử của thuật ngữ, dù cho chúng có thể hoàn toàn không liên quan đến việc đo đạc các quang tử nhìn thấy được trong dải quang phổ phát ra hay hấp thụ bởi vật chất.
***Quang phổ, Các phương pháp phân tích quang phổ được quan tâm trong hóa học và trong các quan sát từ xa, khi các máy thu chỉ nhận photon đến từ vật chất, mà không thực hiện đo đạc trực tiếp trên vật.
Một ví dụ trong hóa học, có thể xác định nồng độ của một chất trong một dung dịch, bằng cách tạo ra phức màu của chất cần xác định hay một chất mà có khả năng xác định gián tiếp chất cần xác định với thuốc thử hữu cơ, rồi quan sát quang phổ của hệ. Phương pháp này dựa trên sự hấp thụ bức xạ điện từ bởi các dung dịch của chất phân tích. Ở cùng một điều kiện, độ hấp thu hay mật độ quang sẽ tỷ lệ thuận với nồng độ chất hấp thụ. Điều kiện để làm thuốc thử tạo phức là phức tạo thành bền, cường độ màu mạnh, cho các phức chiết tốt, đặc biệt là chiết trong môi trường axit mạnh.
* Một số tài liệu cũ có thể bị lỗi font khi hiển thị do dùng bộ mã không phải Unikey ...
Người chia sẻ: Trần Đức Ninh
Dung lượng: |
Lượt tài: 4
Loại file:
Nguồn : Chưa rõ
(Tài liệu chưa được thẩm định)