Quản lí nông nghiệp nông thôn 2

Chia sẻ bởi Thaiyuong Nguyen | Ngày 18/03/2024 | 9

Chia sẻ tài liệu: quản lí nông nghiệp nông thôn 2 thuộc Hóa học

Nội dung tài liệu:







PHÁT TRIỂN
BỀN VỮNG KINH TẾ TRANG TRẠI
CHAN NUƠI
Mô hình KTTT

Mô hình kinh tế trang trại phân bố theo vùng ngập:
Các mô hình cơ cấu kinh tế hợp lý VAC (Vườn - Ao - Chuồng).
Mô hình Lâm - Ngư.
Mô hình Nông - Lâm - Ngư.
Mô hình 2lúa - 1màu.
Mô hình nuôi tôm, cá hay trồng lúa, trồng cây ăn trái.
Hiệu quả kinh tế - xã hội - môi trường của các loại hình trang trại

ĐBSCL, 2002 có khoảng 18.973 trang trại (chiếm 36,1% trong tổng số trang trại cả nước) chủ yếu là cây hàng năm (50,8%) và các loại hình trang trại thủy sản (chiếm 44%) với sức sản xuất hàng năm khoảng 2 triệu tấn thủy sản và 1,5 triệu tấn cây ăn trái.
Thu nhập bình quân của các trang trại nói chung khoảng 500 - 700USD/người/năm.
Đối với những chủ trang trại nuôi trồng thủy sản có thể thu lãi trên 41 triệu đồng/ha nuôi trồng.
Các mô hình trang trại được hình thành dẫn đến các cơ sở nhà máy chế biến cũng mọc lên đã phần nào giải quyết bớt nguồn lao động dồi dào hiện có trong vùng nông thôn.
NTTS
Tổng số diện tích nuôi trồng thủy sản trên 1,4 triệu ha:
Nuôi trồng thủy sản nước ngọt khoảng 500.000 ha,
Nuôi trồng thủy sản nước mặn, lợ khoảng 900.000 ha,
160.000 ha diện tích nuôi trồng thủy sản ở các bãi triều ven biển.
Phân loại trang trại NTTS
Theo kết quả điều tra về tình hình nuôi trồng thủy sản tại vùng nghiên cứu chủ yếu tồn tại và phân vùng rõ rệt với 3 loại hình:
Nuôi trồng thủy sản trên vùng nước mặn - lợ
Nuôi trồng thủy sản trên vùng nước ngọt.
Các loại hình tự phát khác
Nuôi thủy sản nước mặn, lợ

Vùng nuôi trồng thủy sản nước mặn, lợ tập trung chủ yếu ở các vùng ven biển thuộc ĐBSCL trong đó vùng ngập lũ chủ yếu là Kiên Giang, Tiền Giang, Bến Tre.
Nuôi quảng canh: bắt đầu từ thập niên 80. Lúc đầu, loại hình này chỉ dựa trên nguồn giống, thức ăn tự nhiên, công việc chăm sóc quản lý cũng đơn giản hơn. Loại hình này ngày càng phát triển và cải tiến dần về kỹ thuật nuôi như có đầu tư về giống và kỹ thuật nuôi cũng được chú trọng hơn về nguồn thức ăn, xử lý ao nuôi và phòng bệnh nên năng suất cũng dần dần được cải tiến hơn.
Nuôi bán thâm canh và thâm canh: Phương thức nuôi này thường được nuôi những khu vực chịu ảnh hưởng của cao triều và trung triều. Kỹ thuật này nuôi phức tạp hơn so với nuôi quảng canh. Ao nuôi cũng được thiết kế hệ thống thoát nước riêng biệt, mật độ nuôi dày hơn. Kỹ thuật này nuôi trồng khá phức tạp, quản lý môi trường nuôi chặt chẽ, chăm sóc hàng ngày và vốn đầu tư lớn.
Mô hình nuôi thủy sản kết hợp với trồng trọt (lúa - tôm): Đây là mô hình phát triển khá nhanh đối với những vùng chịu ảnh hưởng mạnh của thủy triều biển. Vào mùa khô, đất khu vực này chịu ảnh hưởng mạnh mẽ vấn đề xâm nhập mặn.
Nuôi thủy sản nước ngọt

Nuôi trồng thủy sản nước ngọt tập trung ở vùng ngập lũ Tứ Giác Long Xuyên, vùng Đồng Tháp Mười. Các mô hình nuôi hiện nay là:
Mô hình nuôi cá bè: Việc xây dựng các bè nuôi cá tập trung chủ yếu trên các hệ thống sông Tiền và sông Hậu. Tùy theo mục đích, đối tượng nuôi và khả năng tài chính mà các hộ nông dân hay các chủ trang trại hiện có mà xây dựng kích thước bè có diện tích lớn nhỏ khác nhau với quy mô khác nhau.
Nuôi cá ao hầm: Nuôi cá ao hầm chủ yếu là cá tra với khoảng hơn 7200 ao tập trung chủ yếu ở Phú Tân, Chợ Mới, Tân Châu.Việc nuôi cá trong ao hầm trong vùng ngập lũ có một tiềm năng rất lớn nhưng giá cả cạnh tranh không bằng đối với loại cá nuôi bè do màu sắc, thịt không trắng và mùi hôi trong thịt cá do ảnh hưởng một phần về chế độ dinh dưỡng, một phần do việc phát triển quá mức của loại tảo Oscillatoria và Anabaena trong ao hầm.
Mô hình nuôi kết hợp: Mô hình nuôi này dễ quản lý đối với thủy sản nuôi và kiểm soát được lượng thức ăn dư thừa, xử lý bệnh thuận lợi hơn đảm bảo môi trường ao nuôi luôn sạch: ví dụ mô hình nuôi cá lóc trong giai lưới kết hợp với cá rô đồng trong ao, mô hình nuôi cá rô phi đăng quầng trong ao nuôi tôm sú.
Các mô hình khác
Trong vùng nghiên cứu, người dân trong mùa lũ còn tranh thủ phát triển các loại hình cũng mang hiệu quả kinh tế cao như:
Mô hình nuôi ếch Thái Lan trong mùng lưới;
Mô hình nuôi lươn đồng trong bể lót cao su;
Mô hình nuôi cá lóc trong mùng lưới;
Mô hình nuôi sò huyết, nghêu;
Mô hình nuôi các kèo;
Mô hình nuôi cá, ếch cải tiến;
Tập trung ở một số tỉnh Đồng Tháp, An Giang, Vĩnh Long, Cần Thơ, Trà Vinh, Sóc Trăng
Các mô hình như:
canh tác lúa - tôm với canh tác lúa,
nuôi tôm nước ngọt, tôm càng xanh;
canh tác lúa - cá với các loại cá đồng truyền thống cá lóc, cá rô, cá sặc, cá trê, cá thác lác, cá rô phi, cá mè Vinh;
nuôi thâm canh cá tra, cá ba sa, cá trê, cá lóc bông bằng bè trên sông và trong các ao nuôi ven sông rạch bãi bồi;
nuôi tôm, cá đăng quầng vào mùa lũ với các loại cá linh, cá rô, các loại tôm nước ngọt, nuôi lươn mùa lũ
các mô hình nuôi thủy sản nước ngọt
Tập trung ở một số tỉnh Cà Mau, Bạc Liêu, Sóc Trăng, Trà Vinh, Bến Tre, Tiền Giang
Các mô hình nuôi trồng khác nhau như:
nuôi tôm sinh thái,
nuôi tôm tự nhiên,
nuôi tôm quảng canh,
quảng canh cải tiến,
nuôi tôm bán thâm canh,
nuôi tôm thâm canh,
nuôi tôm công nghiệp,
nuôi tôm luân canh lúa - tôm,
luân canh lúa - cá.
mô hình nuôi thủy sản nước lợ - mặn
Hiện trạng qui hoạch phát triển các trang trại NTTS

Các loại hình kinh tế trang trại diễn ra và phát triển đa số mang tính chất tự phát, chưa theo quy hoạch phát triển theo định hướng; chưa mang tính khoa học và ứng dụng công nghệ trong sản xuất để đảm bảo số lượng, chất lượng, giảm thiểu ô nhiễm môi do các hoạt động sản xuất gây ra. Điều này ảnh hưởng sâu sắc đến qui mô và chất lượng các hệ sinh thái trong khu vực.
Việc mở rộng nhiều loại hình trang trại NTTS không theo quy hoạch tại các tỉnh ĐBSCL như loại hình nuôi tôm, cá. Việc đào ao nuôi thủy sản làm suy giảm môi trường sinh thái ngập mặn ven biển, suy giảm chất lượng nước sông, kênh rạch trong khu vực, lan truyền và phát tán mầm bệnh, dịch bệnh.
Vấn đề chất lượng sản phẩm thủy sản

Thức ăn dùng để nuôi các loài thủy sản là lượng thức ăn giàu đạm, khi chúng không được sử dụng hết và sẽ thải trực tiếp ra môi trường bên ngoài như các hệ thống sông chính làm cho chất lượng nước sông ngày càng bị ô nhiễm.
Ngoài ra, do nhu cầu lợi nhuận về kinh tế, các chủ nuôi trồng thủy sản thường sử dụng thuốc kháng sinh, các chất hóa học để giảm thiểu thiệt hại cho các loài thủy sản, tăng năng suất. Và đó là lý do để dẫn đến lượng tồn dư những chất hóa học, vi sinh vật và ảnh hưởng đến môi trường trong khu vực.
Dịch bệnh cá nuôi, ô nhiễm môi trường do chất thải hữu cơ, hóa chất sử dụng trong quá trình nuôi, chất thải nuôi thủy sản đã và đang tiếp tục tác động mạnh mẽ gây tác hại đến phát triển kinh tế và môi trường trong khu vực.
Chất thải từ các trang trại ao hầm
Chất thải trong nuôi trồng thủy sản chủ yếu là bùn thải chứa phân của các loài thủy sản tôm, các nguồn thức ăn dư thừa thối rữa bị phân hủy, các chất tồn dư của các loại vật tư sử dụng trong nuôi trồng như hóa chất, vôi và các loại khoáng chất khác, lưu huỳnh lắng đọng, các chất độc hại có trong đất phèn.
Lượng bùn thải và chất thải NTTS ở ĐBSCL khoảng 456 triệu m3/năm. Theo một số kết quả khảo sát và nghiên cứu trước đây cho thấy rằng nguồn bùn thải trong khu vực nuôi thủy sản (chủ yếu là nuôi tôm) có thể dày từ 10 - 30 cm hàng năm (khoảng 20m3/ha/năm) trong các loại hình nuôi công nghiệp, thâm canh, bán thâm canh, quảng canh.
Chất thải từ các trang trại nuôi bè
Chất lượng nước tại những vùng tập trung nuôi cá bè như thị xã Châu Đốc, Tân Châu, Tiền Giang, Hậu Giang. ngày càng xấu một phần do việc nuôi cá trên sông không đảm bảo được vấn đề nguồn thức ăn dư thừa nên cá nuôi dễ phát sinh những bệnh.
Đối với những vùng hình thành nuôi cá bè từ các trang trại hay các hộ nông dân vẫn chưa đảm bảo được quá trình kiểm tra một cách nghiêm túc và vẫn còn phổ biến trong việc sử dụng kháng sinh vì mục đích chạy theo lợi nhuận.

Hiện trạng ô nhiễm môi trường nước

Kết quả phân tích nước sông gần khu vực nuôi cá bè ĐBSCL

Chất lượng môi trường đất

Các hệ sinh thái trong phát triển nuôi trồng thủy sản bị biến đổi gây suy thoái đến môi trường đất.
Khi đất bị đào đắp ao nuôi trồng thủy sản, đào kinh rạch cấp và thoát nước, vệ sinh ao nuôi sau mùa thu hoạch đã làm cho tầng phèn tiềm tàng bị tác động bởi quá trình oxy hóa diễn ra quá trình lan truyền phèn rất mãnh liệt, làm giảm độ pH trong môi trường nước, ảnh hưởng đến ô nhiễm môi trường và dịch bệnh cho thủy sản nuôi trồng vùng lân cận.
Chất thải ao nuôi công nghiệp (20m3/ha/năm) có thể chứa đến trên 45% Nitrogen và 22% là các chất hữu cơ Thức ăn dư thừa thối rữa bị phân hủy thành khác các thành phần độc hại như H2S, NH3...
Các chất tồn dư sử dụng: hóa chất và thuốc kháng sinh, vôi và các loại khoáng chất Diatomit, Dolomit, lưu huỳnh lắng đọng,
Bùn phù sa lắng đọng dưới đáy các ao nuôi trồng thủy sản với chiều dày từ 0,1 - 0,3m chứa các chất độc hại có trong đất phèn Fe2+, Fe3+, Al3+, SO42-,.
Nguồn bùn thải
Kết quả quan trắc đất ĐBSCL Viện thổ nhưỡng nông hóa
Tóm lại
Khu vực nghiên cứu đang phải đối mặt với nhiều vấn đề phát sinh cùng với quá trình tăng trưởng và phát triển kinh tế trong vùng.
Đặc biệt vấn đề môi trường nuôi trồng thủy sản đã trở thành vấn đề nhạy cảm trong việc phát triển bền vững cho vùng.
Việc nuôi trồng thủy sản nước mặn, nước lợ và cả nước ngọt đang diễn ra nhiều diễn biến chất lượng môi trường bất lợi cho các hình thức trong nuôi trồng thủy sản của các chủ trang trại nói chung.
Tóm lại
Dịch bệnh phát sinh và lây lan trong các hệ thống canh tác nuôi tôm, cá và những loài thủy sản khác làm suy thoái môi trường nước, đất với các chất lan truyền chất nhiễm phèn, chất hữu cơ độc hại môi trường phát sinh.
Ngoài ra, việc nuôi các nước ngọt cũng đã gây ra ô nhiễm do nuôi với mật độ cao, nguồn thức ăn dư thừa và chất thải nuôi trồng thủy sản ảnh hưởng đến nước sông rạch cũng như đe dọa đến nguồn lợi nuôi trồng thủy sản trong khu vực.

Phát triển nuôi trồng thủy sản theo hướng bền vững
Việc phát triển trang trại nuôi trồng thủy sản canh tác bền vững phải đảm bảo 3 mục tiêu sau:
Xây dựng mô hình nuôi trồng thủy sản phải có hiệu quả về kinh tế.
Phát triển theo một quy hoạch, hài hòa giữa các mặt trong xã hội, nâng cao mức sống, trình độ chủ trang trại và người lao động.
Đảm bảo cải thiện môi trường môi sinh, không làm tổn hại đến môi trường xung quanh (môi trường nước, đất, không khí), không làm ảnh hưởng đến sinh hoạt của cộng đồng, đảm bảo phát triển vững chắc và lâu dài trong tương lai.
Các mô hình tiên tiến
Mô hình nuôi tốt GAP - Good Aquaculture Practice
Mô hình nuôi có trách nhiệm RAP - Responsible Aquaculture Practice
Qui trình nuôi có nhãn hàng hoá CoC - Code of Product
Mô hình nuôi tốt nhất theo tiêu chuẩn BAP - Best Aquaculture Practice
Mô hình nuôi sạch (Clean Farming -Trung quốc)
Mô hình nuôi hữu cơ (Organic Farming)
Nuôi trồng thủy sản hữu cơ
organic farming

Khái niệm nuôi hữu cơ
Nuôi trồng thủy sản hữu cơ thông qua phương pháp hệ thống, đồng thời kết hợp các biện pháp kỹ thuật vật lý, sinh vật... chủ yếu dựa vào dinh dưỡng hiệu quả cao, lợi dụng tuần hoàn và quản lý môi trường một cách nghiêm ngặt để duy trì sức sản xuất của hệ thống nuôi trồng, mang lại hiệu quả cho sản xuất đồng thời bảo vệ môi trường.

Tính ưu việt của nuôi trồng thủy sản hữu cơ

Trước hết là cho ăn ít, cải tiến phương thức cho ăn và thành phần thức ăn là cách làm rất hiệu quả đối với việc giảm bớt lượng dư thừa chất dinh dưỡng và hạn chế lượng xả thải vào môi trường.
Trong hệ thống này chỉ sử dụng thức ăn hữu cơ và có biện pháp quản lý thích hợp giúp sinh vật hấp thụ các chất dinh dưỡng rộng và cân bằng hơn.
Nuôi sinh thái là nhân tố quan trọng phòng ngừa việc bùng phát dịch bệnh sinh vật thủy sinh có tác dụng bảo vệ sinh vật và hệ sinh thái.
Việc không sử dụng hóa chất, thuốc kháng sinh và sản phẩm công nghệ gen đã nâng cao chất lượng sản phẩm. Sản phẩm nuôi trồng sinh thái ít có nguy cơ bị ô nhiễm hóa chất và công nghệ gen.
Hướng giải quyết
Một trong các vấn đề thách thức trong nuôi trồng thủy sản sinh thái là nhu cầu thức ăn, và xử lý động vật thủy sinh khi mang bệnh. Trước tình tình trên, việc xem xét, thử nghiệm và đưa một lọai sản phẩm sinh học áp dụng cho các trang trại nuôi trồng thủy sản vùng lũ ĐBSCL là một hướng đi thiết thực, tạo được sự cân bằng giữa năng suất nuôi trồng, vệ sinh an toàn thực phẩm và môi trường được cải thiện.
Dịch trùn quế - chế phẩm sinh học
Dịch trùn quế được xem như là một thức ăn bổ xung dưới dạng nước cho các loài thủy hải sản với kháng thể thiết yếu nhất có thể thay thế hoàn toàn các loại như dầu mực, thức ăn bổ xung, vitamin...và ngay cả kháng sinh khi cần thiết.
Dịch trùn sử dụng để xử lý nước trong ao nuôi tôm cũng đạt những kết quả ban đầu: mùi và màu nước trong ao nuôi tôm giảm.
Thành phần dinh dưỡng của dịch trùn quế
Bột trùn quế - thức ăn giàu dinh dưỡng
Bột trùn là một loại thực phẩm giàu năng lượng vì nó chứa: Protein chiếm 65,8%; chất béo 8.7%; calcium 0,4%; phospho 0,9%; chất xơ 0,7%; carbohydrate 7,6% và các khoáng chất.
Dùng bột trùn chế biến thức ăn giúp làm giảm lượng thừa thải thức ăn và việc nuôi đạt năng suất cao.Các loại thức ăn cho thủy sản tôm, cá, ếch từ trùn chế biến thành công.
Dùng trùn quế tươi xay nhuyễn làm thức ăn trong nuôi trồng thủy sản tạo cho tôm có sức kháng thể cao, ít bệnh và tỷ lệ trứng tạo ấu trùng cao.
Hàm lượng chất dinh dưỡng trùn sấy khô
Phân trùn, dịch trùn xử lý nước ao nuôi trồng thủy sản
Các loại enzime có rất nhiều trong trùn quế như proteaza, lipaza, amylaza, cellulaza, chitinaza giúp cho quá trình phân giải chất thải hữu cơ dư thừa trong nuôi trồng thủy sản rất hữu hiệu.
Trong phân trùn có chứa các loại vi sinh vật rất có ích giúp loại trừ những độc tố nấm có hại và vi khuẩn gây bệnh cho thủy sản. Các loại nấm như Aspergillus, Fusarium, Mucor, Cladosporium, Trichoderma với hàm lượng khoảng 8.104CFU/gram trong phân trùn quế.
Nhiều người dân đã sử dụng phân trùn và dịch trùn như một liệu pháp để cải tạo màu nước trong ao nuôi. Kinh nghiệm được truyền lại là nếu sử dụng phân trùn 15-20kg/1000m2 để cải tạo ao nuôi thấy màu nước ao bền hơn so với đối chứng.
Trùn quế Perionyx excavatus trong nuôi trồng thủy sản hữu cơ

Qua phân tích ở trên thấy việc nhân rộng mô hình nuôi trùn bằng chất thải nông nghiệp (bùn ao nuôi thủy sản kết hợp phân chuồng và phế thải nông nghiệp) nhằm sử dụng trùn làm thức ăn nuôi trồng thủy sản, điều chế các chế phẩm sinh học tăng sức đề kháng cho sinh vật, xử lý ô nhiễm ao nuôi là một hướng đi đúng trong phát triển kinh tế trang trại bền vững và thân thiện môi trường cần được tiếp tục nghiên cứu nhân rộng.
Xử lý chất thải nuôi trồng thủy sản
Nghiên cứu và phổ biến các công nghệ xử lý môi trường thích hợp, hiệu quả để giải quyết các vấn đề chất thải
Giải pháp dùng các chế phẩm sinh học để xử lý triệt để các thành phần độc hại
Sử dụng biofilm, các thảm vi sinh vật để hấp thụ các chất dinh dưỡng dư thừa trong thủy vực.
Thu gom xử lý triệt để bùn thải bằng vôi bột kết hợp ủ yếm khí
Trung tâm Công nghệ Hóa-Lý và Kỹ thuật Môi trường – BCA
Chế phẩm xử lý đáy ao – P41
Chế phẩm xử lý nguồn nước dạng khô: P42.
Chế phẩm xử lý nguồn nước dạng lỏng: P43
Chế phẩm khử trùng diệt khuẩn: P44
Chế phẩm xử lý đáy ao – P41
Thành phần và tác dụng:
P41 là sản phẩm chứa các chủng loại vi sinh vật có tác dụng ức chế và kiềm hãm sự phát triển các loại nấm và vi rút gây bệnh cho tôm, làm cho môi trường đất và nước sạch trước khi thả tôm vào hồ nuôi.
P41 còn là thức ăn của các loại phù du, phiêu sinh vật và có khả năng điều tiết độ pH của nước, tạo ra môi trường thuận lợi cho tôm phát triển nhanh, ít bệnh tật.
Ngoài ra P41 còn có tác dụng ổn định màu nước và duy trì sự phát triển bền vững của các giống tảo hữu ích.
Cách dùng:
Sau khi vét bùn, rắc vôi và phơi hồ 7-10 ngày thì rắc chế phẩm P41 lên mặt hồ với tỉ lệ 300-350 kg/ha, rắc vào buổi chiều.
Phun tiếp 600 lít P43 khắp mặt hồ. Để qua đêm và hôm sau cho nước vào hồ với độ cao 90 cm. Mỗi ngày quạt nước 4-5 giờ và cho thêm 10 cm nước từ ao lắng. Sau 3 ngày thì cho tôm vào hồ nuôi.
Sau khi thả tôm được 15, 30 và 45 ngày đều phải rắc chế phẩm P41 với tỉ lệ 60-65 kg.ha.
Chế phẩm xử lý nguồn nước dạng khô: P42

Tác dụng:
P42 là chế phẩm dạng bột, chứa các vi sinh vật kỵ khí cùng với một nguồn thức ăn giàu dinh dưỡng cho tảo và phiêu sinh vật. Dưới tác dụng của các VSV sự phân hủy cacbonhydrat, các hợp chất hữu cơ chứa trong phân tôm và thức ăn thừa của tôm xảy ra nhanh chóng, triệt để. Đồng thời các VSV này cũng sản sinh ra các axít amin, Vitamin nhóm B, hormon giúp tôm phát triển. Ngoài ra các VSV này còn tạo ra những chất chống vi khuẩn như axít lactic ngăn chặn sự phát triển của nấm bệnh và virus có hại như bệnh phát sáng, đứt râu, sứt đuôi…
Cách pha chế:
Chuẩn bị dụng dịch: 3 lít nước sạch + 0,5 lít chất xúc tác sinh học.
Chuẩn bị hỗn hợp khô: cứ 1 kg P42 trộn đều với độ ẩm cần đạt là 50 – 60%
(kiểm tra bằng cách nắm nhẹ, hỗn hợp thành cục, nhưng khi đụng vào thì vỡ ra).
Ủ kỵ khí (trong xô nhựa đậy kín) trong 48 giờ sau đó đem dùng.
Hòa vào nước tạt đều trên mặt hồ vào buổi sáng: máy khuấy hoạt động liên tục
Sau khi thả tôm được 10 ngày mới dùng P42. Mỗi tuần dùng một lần, mỗi lần 2
kg/ha (20 kg cám gạo)
Chế phẩm xử lý nguồn nước dạng lỏng: P43
Tác dụng: chế phẩm P43 dạng lỏng. Các chủng VSV chứa trong P43 sẽ ức chế sự phát triển của các loại nấm gây bệnh cho tôm trong nước, tạo sự ổn định pH, giảm hàm lượng NH3, H2S và các khí độc khác.
Cách dùng: phun 600 lít/ha để xử lý đáy hồ cùng với P41. Sau khi thả tôm được 7 ngày thì cứ 1 tuần phun hoặc tạt lên mặt hồ một lần vào buổi chiều. Liều lượng sử dụng: 300 lít/ha/lần. (Hàng tuần vào thứ hai dùng P42 và thứ sáu dùng P43).
Chế phẩm khử trùng diệt khuẩn: P44
Tác dụng: P44 dạng lỏng, có màu nâu vàng, được tổng hợp bằng phương pháp lên men kỵ khí một số loài thảo mộc với các chủng VSV hữu ích. Tôm thường mắc các bệnh như bệnh đốm đen, bệnh phát sáng, bệnh đóng rong, bệnh đen mang, bệnh thân đỏ, hoặc các bệnh viêm khác do loại Vibrio hoặc Escherichia coli gây ra. Chế phẩm P44 có khả năng làm biến mất các bệnh này bằng cách trộn vào thức ăn hoặc phun vào hồ nuôi. P44 còn có chức năng làm giảm hàm lượng amoniac trong nước và diệt tảo trong trường hợp tảo quá nhiều làm cho tôm không lột xác được.
Cách dùng: khi xuất hiện bệnh của tôm, trộn P44 với thức ăn thương phẩm theo tỉ lệ 0,5 lít/10 kg thức ăn. Ủ trong 4-5 giờ, sau đó cho tôm ăn.
Khi hàm lượng amoniac hoặc lượng tảo quá lớn, dùng P44 phun vào hồ với tỉ lệ 30 lít/ha, tuần phun 1 lần. Trong điều kiện bình thường thì cứ 15 ngày phun 1 lần với hàm lượng 20 lít/ha.
Các giải pháp hỗ trợ
Tăng cường chính sách, hỗ trợ về vốn hỗ trợ các chủ trang trại phát huy tiềm lực và thế mạnh trong vấn đề nuôi thủy sản, đầu tư sản xuất để nâng cao sức cạnh tranh, phát triển mô hình nuôi thủy sản đảm bảo được vấn đề giảm thiểu ô nhiễm môi trường.
Tăng cường kiểm tra, phát hiện và xử lý kịp thời những trường hợp gây ảnh hưởng đến môi trường do việc không tuân thủ đúng biện pháp kỹ thuật vệ sinh trong công tác nuôi trồng thủy sản của chủ trang trại. Đối với khu vực nuôi trồng, các chủ trang trại cần phải thiết kế hệ thống ao xử lý nước thải cho ao trước khi xả chúng vào môi trường nước.
Kết luận và kiến nghị

Đối với Nhà nước và chính quyền địa phương phải có chính sách quy hoạch hợp lý vùng nuôi thủy sản trên vùng nước mặn, lợ và nước ngọt hợp lý tại những địa điểm phù hợp với môi trường, sử dụng tài nguyên đất và nước hiệu quả và theo cách thức bảo tồn được đa dạng sinh học, nơi cư trú và các chức năng của hệ sinh thái nhạy cảm về mặt sinh học và đảm bảo tính bền vững. Với việc quy hoạch vùng nuôi thủy sản nếu quy hoạch không phù hợp sẽ gây nên vấn đề suy thoái môi trường.
Việc xem xét, thử nghiệm và đưa nuôi trồng thủy sản hữu cơ vào sử dụng trong các trang trại nuôi trồng thủy sản vùng lũ ĐBSCL là một hướng đi thiết thực, tạo được sự cân bằng giữa năng suất nuôi trồng, vệ sinh an toàn thực phẩm và môi trường được cải thiện.

Kết luận và kiến nghị

Đánh giá khả năng phù hợp thực hiện việc nuôi trồng thủy sản hữu cơ qua các bước:
Lựa chọn loại chế phẩm phù hợp cho các trang trại nuôi trồng thủy sản vùng lũ ĐBSCL.
Nghiên cứu tần suất và phương pháp sử dụng ở các mô hình nuôi trồng thủy sản cụ thể.
Nghiên cứu chỉ tiêu an toàn thực phẩm và chất lượng môi trường nước khi sử dụng chế phẩm sinh học trong ao nuôi.
Đánh giá nguồn gốc và ảnh hưởng của thức ăn hữu cơ.
* Một số tài liệu cũ có thể bị lỗi font khi hiển thị do dùng bộ mã không phải Unikey ...

Người chia sẻ: Thaiyuong Nguyen
Dung lượng: | Lượt tài: 0
Loại file:
Nguồn : Chưa rõ
(Tài liệu chưa được thẩm định)