PP dạy học theo dự án
Chia sẻ bởi Nguyễn Thị Thanh Nhàn |
Ngày 23/10/2018 |
39
Chia sẻ tài liệu: PP dạy học theo dự án thuộc Sinh học 6
Nội dung tài liệu:
PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC THEO DỰ ÁN
PHẦN I: LÍ DO
Bài 1: Một số nhược điểm của HS chậm khắc phục
Một số nhược điểm của học sinh chậm được khắc phục:
Các nhược điểm này tuy không ảnh hưởng đến kết quả học tập hiện tại của học sinh nhưng sẽ rất khó khăn khi học sinh trưởng thành, tham gia lao động, nhất là lao động trí óc.
Học sinh trong khu vực đã làm quen với phương pháp học tập theo dự án. Học sinh làm ra sản phẩm trong quá trình thâm nhập thực tế, bảo vệ ý tưởng và công khai trên internet.
Đây là một sản phẩm do nhóm học sinh trung học cơ sở Malaysia thực hiện. Sản phẩm đơn giản nhưng thể hiện một phương pháp làm việc nghiêm túc và có trách nhiệm.
Học sinh phổ hông trên thế giới rất ham học hỏi, nghiên cứu. Các em đế với các hội thi nghiên cứu khoa học dành cho học sinh phổ thông để học nghiên cứu, tập nghiên cứu và công bố sản phẩm nghiên cứu.
Bài 3: Xã hội đang trông chờ HS
Với những đức tính này, học sinh dễ dàng hội nhập với bất cứ môi trường nào để phát triển và hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ.
Dạy học theo dự án là một mô hình dạy học lấy học sinh làm trung tâm. Phương pháp này phát triển kiến thức và các kỹ năng liên quan thông qua những nhiệm vụ mang tính mở, khuyến khích học sinh tìm tòi, hiện thực hoá những kiến thức đã học trong quá trình thực hiện và tạo ra những sản phẩm của chính mình. Dự án làm cho học sinh thấy rõ hơn ý nghĩa thực tế của lượng kiến thức mà các em cần phải học, từ đó xây dựng cảm hứng học tập cho các em.
Ở mức độ cơ bản nhất, dự án có thể được sử dụng như một công cụ để giáo viên tổ chức cho học sinh ôn tập kiến thức một chương, một phần trong chương trình học.
Dự án thường gắn liền với thực tế.
Học sinh làm việc theo nhóm và thường đóng một vai gì đó khi thực hiện dự án.
Dự án phải có sản phẩm.
Một số dự án đã được thực hiện :
BỘ MÔN LỚP TÊN BÀI DẠY TÊN DỰ ÁN
Phương pháp PBL nhằm mục đích đầu tiên là giúp cho học sinh nắm được kiến thức bài học ở mức độ cao: biết phân tích nội dung, vận dụng và tổng hợp kiến thức của bộ môn và nắm bắt kiến thức liên môn (nếu có thể).
Hai kỹ năng quan trọng mà phương pháp PBL mong muốn học sinh rèn luyện thành công đó là: Kỹ năng tổng hợp và kỹ năng làm việc theo nhóm.
Thông qua một dự án, học sinh sẽ có dịp làm việc theo nhóm dài hơi hơn, phát triển dần kỹ năng làm việc theo nhóm của học sinh. Đây là một kỹ năng hết sức cần thiết để học sinh học tiếp hoặc tham gia hoạt động xã hội
Phương pháp PBL cũng mong muốn học sinh hình thành kỹ năng sử dụng công nghệ thông tin. Học sinh sẽ tận dụng tài nguyên trên internet và các thiết bị lưu trữ thông tin để có những nguốn tri thức hữu ích, sử dụng chúng một cách hiệu quả và tập dần thói quen chia sẻ thông tin trên mạng toàn cầu
Phương pháp PBL sẽ tập dần cho học sinh làm ra sản phẩm của chính các em, sản phẩm này đã được học sinh rèn luyện từ phương pháp 1:1, tuy nhiên phương pháp 1:1 chỉ hình thành các sản phẩm nhỏ, qui mô cũng vừa phải. sản phẩm từ phương pháp PBL là sản phẩm đủ dài hơi để học sinh ngấm dần giá trị của lao động trí tuệ mà học sinh đã tạo ra từ quá trình hợp tác, lao động nghiêm túc và có hiệu quả :
Việc tổ chức cho học sinh phổ biến sản phẩm của mình cho công đống có nhiều tác dụng tích cực.
Nhiều người sẽ nhận được sản phẩm học sinh, sẽ có nhiều người thụ hưởng thành quả lao động của học sinh và cũng từ đó sẽ có nhiều người đánh giá, góp ý để sản phẩm sẽ hoàn thiên hơn
Nhiều người sẽ có những ý tưởng mới để phát triển ý tưởng của nhóm học sinh thực hiện, từ đó sẽ có nhiều dự án khác hình thành
Nhiều kiến thức mới sẽ được chia sẻ, nhiều thông tin mới được phản hồi và lượng thông tin của dự án được bổ sung, hoàn thiện.
Trong 10 bước của qui trình, việc điều phối của Ban Giám hiệu là hết sức cần thiết.
Dựa trên các bảng đăng ký dự án của GV Hiệu trưởng sẽ điều phối các dự án dựa trên sự phân loại theo lớp- Môn
Yêu cầu
Trong một thời gian không có lớp nào làm 2 dự án
Trong một thời gian không có GV nào triển khai 2 dự án
Trong một thời gian phải có ít nhất một lớp * dự án được thực hiện
Cũng kể đến vai trò của bộ phân kỹ thuật. Bộ phận này chuẩn bị điều kiện báo cáo, điều kiện lưu trữ để học sinh bảo vệ kết quả lao động và phổ biến công đồng
Trong 10 bước của qui trình PBL, bước xây dựng dự án là bước quyết định sự thành bại của phương pháp. Bước này đòi hỏi ở giáo viên một bản lĩnh, một tấm lòng vì học sinh và một thái độ lao động nghiêm túc.
Kinh nghiệm cho biết nhiều đơn vị không có chiến lược triển khai phương pháp PBL khoa học thì sau vài năm tổ chức thực hiện số đề tài sẽ cạn dần và phương pháp PBL sẽ không phát triển được nữa.
Trong chương trình giảng dạy của GV, chọn một chương mà GV nghĩ rằng học sinh của mình có thể tổng hợp được kiến thức chương đó, có nhiều kỹ năng học sinh có thể phát triển, có kiến thức gắn kết với thực tế cuộc sống...Bắt đầu từ ý tưởng xây dựng một " bài tập lớn" để học sinh nghiên cứu sâu bài học, khái thác tốt bài tập, liên hệ tốt thực tế cuộc sống, ...
Giáo viên đã có một ý tưởng mở đầu.
Từ ý tưởng mở đầu nay, giáo viên phát triển thành nhiều ý tưởng khác. Bằng cách đặt một loạt câu hỏi như: Cái gì? Ai? Tại sao? Khi nào ? (Tránh đặt những câu hỏi học sinh có thể trả lời ngắn gọn hoặc có thể tìm được câu trả lời trong sách giáo khoa)
Suy nghĩ xem học sinh sẽ học được gì và phát triển được các kỹ năng nào của các em sau khi giải quyết được câu hỏi, giáo viên có thể sử dụng sơ đồ Ogle để tìm hiểu xem học sinh muốn biết thêm điều gì về chủ đề này. (Xem thêm phụ lục: Sơ đồ Ogle)
Sau khi sử dụng sơ đồ Ogle giáo viên đã hình thành rất nhiều chủ đề khác nhau xuất phát từ ý tưởng ban đầu, mỗi chủ đề có liên quan đến những công việc thực tế trong xã hội và mỗi chủ đề đều đòi hỏi học sinh phải học tập, nghiên cứu và vận dụng các kỹ năng của các em. Giờ là lúc giáo viên sẽ chọn một chủ đề mà giáo viên cảm thấy phù hợp nhất với nhu cầu của học sinh.
Hãy đặt tên thật hay cho chủ đề của mình.
Giáo viên sẽ xây dựng bộ cau hỏi để định hướng cho quá trình làm việc của học sinh:
Trong phương pháp dạy học theo dự án, người giáo viên đóng vai trò là người hướng dẫn, hỗ trợ học sinh, để làm được điều này, giáo viên cần lưu ý các điểm sau :
Đặt các câu hỏi hướng dẫn và các câu hỏi mở để giúp học sinh khám phá tình huống, giúp học sinh phát triển tư duy phản biện của các em.
Giúp học sinh phản hồi về những kinh nghiệm mà các em đang trải qua, việc phản hồi này sẽ giúp học sinh phát triển các kỹ năng chuyên nghiệp (Schon, 1987), phản hồi cũng giúp học sinh phát triển các kỹ năng giải quyết vấn đề (Kimbell et al.,1991) nâng cao chất lượng học tập (Schmidt, 1983; Coles, 1991). Các kỹ năng phản hồi cũng là một phần của kỹ năng giải quyết vấn đề và kỹ năng cộng tác.
Giám sát tiến trình thực hiện của học sinh, những người thành thạo trong việc giải quyết vấn đề thường xuyên nghĩ đến các quá trình giải quyết vấn đề của họ để bảo đảm rằng họ đang đi đúng hướng và biết rõ mình đang ở đâu (Schoenfeld, 1984).
Khuyến khích học sinh xây dụng một bầu không khí cộng tác thân thiện sao cho tất cả các em đều sẵn sàng chia sẻ kinh nghiệm và ý tưởng mà không cảm thấy lo ngại, vì các em tin tưởng lẫn nhau, tin tưởng chính là yếu tố chủ chốt để phát triển (Covey, 1989).
Theo nguyên tắc làm việc theo nhóm, học sinh sẽ phân công các thành viên:
Các thành viên sẽ thực hiện những việc chính sau:
Tải Biểu đồ Ogle
1. Mô tả biểu đồ KWL
KWL do Donna Ogle giới thiệu năm 1986, vốn là một hình thức tổ chức dạy học hoạt động đọc hiểu. Học sinh bắt đầu bằng việc động não tất cả những gì các em đã biết về chủ đề bài đọc. Thông tin này sẽ được ghi nhận vào cột K của biểu đồ. Sau đó học sinh nêu lên danh sách các câu hỏi về những điều các em muốn biết thêm trong chủ đề này. Những câu hỏi đó sẽ được ghi nhận vào cột W của biểu đồ. Trong quá trình đọc hoặc sau khi đọc xong, các em sẽ tự trả lời cho các câu hỏi ở cột W. Những thông tin này sẽ được ghi nhận vào cột L.
Trích từ Ogle, D.M. (1986). K-W- L: A teaching model that develops active reading of expository text. Reading Teacher, 39, 564-570)
2. Mục đích sử dụng biểu đồ KWL
Biểu đồ KWL phục vụ cho các mục đích sau:
3. Một ví dụ về biểu đồ KWL
Chủ đề bài đọc : Trọng lực
Câu hỏi của học sinh về Newton ở cột W không có câu trả lời trong bài đọc, học sinh sẽ được khuyến khích tìm kiếm câu trả lời từ các tài nguyên khác.
http://www.indiana.edu/~l517/KWL.htm
Xuất phát từ biểu đồ KWL, Ogle bổ sung thêm cột H ở sau cùng, với nội dung khuyến khích học sinh định hướng nghiên cứu. Sau khi học sinh đã hoàn tất nội dung ở cột L, các em có thể muốn tìm hiểu thêm về một thông tin. Các em sẽ nêu biện pháp để tìm thông tin mở rộng. Những biện pháp này sẽ được ghi nhận ở cột H.
Một ví dụ về biểu đồ K-W-L-H
Chủ đề : Khủng long
PHẦN I: LÍ DO
Bài 1: Một số nhược điểm của HS chậm khắc phục
Một số nhược điểm của học sinh chậm được khắc phục:
Các nhược điểm này tuy không ảnh hưởng đến kết quả học tập hiện tại của học sinh nhưng sẽ rất khó khăn khi học sinh trưởng thành, tham gia lao động, nhất là lao động trí óc.
Học sinh trong khu vực đã làm quen với phương pháp học tập theo dự án. Học sinh làm ra sản phẩm trong quá trình thâm nhập thực tế, bảo vệ ý tưởng và công khai trên internet.
Đây là một sản phẩm do nhóm học sinh trung học cơ sở Malaysia thực hiện. Sản phẩm đơn giản nhưng thể hiện một phương pháp làm việc nghiêm túc và có trách nhiệm.
Học sinh phổ hông trên thế giới rất ham học hỏi, nghiên cứu. Các em đế với các hội thi nghiên cứu khoa học dành cho học sinh phổ thông để học nghiên cứu, tập nghiên cứu và công bố sản phẩm nghiên cứu.
Bài 3: Xã hội đang trông chờ HS
Với những đức tính này, học sinh dễ dàng hội nhập với bất cứ môi trường nào để phát triển và hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ.
Dạy học theo dự án là một mô hình dạy học lấy học sinh làm trung tâm. Phương pháp này phát triển kiến thức và các kỹ năng liên quan thông qua những nhiệm vụ mang tính mở, khuyến khích học sinh tìm tòi, hiện thực hoá những kiến thức đã học trong quá trình thực hiện và tạo ra những sản phẩm của chính mình. Dự án làm cho học sinh thấy rõ hơn ý nghĩa thực tế của lượng kiến thức mà các em cần phải học, từ đó xây dựng cảm hứng học tập cho các em.
Ở mức độ cơ bản nhất, dự án có thể được sử dụng như một công cụ để giáo viên tổ chức cho học sinh ôn tập kiến thức một chương, một phần trong chương trình học.
Dự án thường gắn liền với thực tế.
Học sinh làm việc theo nhóm và thường đóng một vai gì đó khi thực hiện dự án.
Dự án phải có sản phẩm.
Một số dự án đã được thực hiện :
BỘ MÔN LỚP TÊN BÀI DẠY TÊN DỰ ÁN
Phương pháp PBL nhằm mục đích đầu tiên là giúp cho học sinh nắm được kiến thức bài học ở mức độ cao: biết phân tích nội dung, vận dụng và tổng hợp kiến thức của bộ môn và nắm bắt kiến thức liên môn (nếu có thể).
Hai kỹ năng quan trọng mà phương pháp PBL mong muốn học sinh rèn luyện thành công đó là: Kỹ năng tổng hợp và kỹ năng làm việc theo nhóm.
Thông qua một dự án, học sinh sẽ có dịp làm việc theo nhóm dài hơi hơn, phát triển dần kỹ năng làm việc theo nhóm của học sinh. Đây là một kỹ năng hết sức cần thiết để học sinh học tiếp hoặc tham gia hoạt động xã hội
Phương pháp PBL cũng mong muốn học sinh hình thành kỹ năng sử dụng công nghệ thông tin. Học sinh sẽ tận dụng tài nguyên trên internet và các thiết bị lưu trữ thông tin để có những nguốn tri thức hữu ích, sử dụng chúng một cách hiệu quả và tập dần thói quen chia sẻ thông tin trên mạng toàn cầu
Phương pháp PBL sẽ tập dần cho học sinh làm ra sản phẩm của chính các em, sản phẩm này đã được học sinh rèn luyện từ phương pháp 1:1, tuy nhiên phương pháp 1:1 chỉ hình thành các sản phẩm nhỏ, qui mô cũng vừa phải. sản phẩm từ phương pháp PBL là sản phẩm đủ dài hơi để học sinh ngấm dần giá trị của lao động trí tuệ mà học sinh đã tạo ra từ quá trình hợp tác, lao động nghiêm túc và có hiệu quả :
Việc tổ chức cho học sinh phổ biến sản phẩm của mình cho công đống có nhiều tác dụng tích cực.
Nhiều người sẽ nhận được sản phẩm học sinh, sẽ có nhiều người thụ hưởng thành quả lao động của học sinh và cũng từ đó sẽ có nhiều người đánh giá, góp ý để sản phẩm sẽ hoàn thiên hơn
Nhiều người sẽ có những ý tưởng mới để phát triển ý tưởng của nhóm học sinh thực hiện, từ đó sẽ có nhiều dự án khác hình thành
Nhiều kiến thức mới sẽ được chia sẻ, nhiều thông tin mới được phản hồi và lượng thông tin của dự án được bổ sung, hoàn thiện.
Trong 10 bước của qui trình, việc điều phối của Ban Giám hiệu là hết sức cần thiết.
Dựa trên các bảng đăng ký dự án của GV Hiệu trưởng sẽ điều phối các dự án dựa trên sự phân loại theo lớp- Môn
Yêu cầu
Trong một thời gian không có lớp nào làm 2 dự án
Trong một thời gian không có GV nào triển khai 2 dự án
Trong một thời gian phải có ít nhất một lớp * dự án được thực hiện
Cũng kể đến vai trò của bộ phân kỹ thuật. Bộ phận này chuẩn bị điều kiện báo cáo, điều kiện lưu trữ để học sinh bảo vệ kết quả lao động và phổ biến công đồng
Trong 10 bước của qui trình PBL, bước xây dựng dự án là bước quyết định sự thành bại của phương pháp. Bước này đòi hỏi ở giáo viên một bản lĩnh, một tấm lòng vì học sinh và một thái độ lao động nghiêm túc.
Kinh nghiệm cho biết nhiều đơn vị không có chiến lược triển khai phương pháp PBL khoa học thì sau vài năm tổ chức thực hiện số đề tài sẽ cạn dần và phương pháp PBL sẽ không phát triển được nữa.
Trong chương trình giảng dạy của GV, chọn một chương mà GV nghĩ rằng học sinh của mình có thể tổng hợp được kiến thức chương đó, có nhiều kỹ năng học sinh có thể phát triển, có kiến thức gắn kết với thực tế cuộc sống...Bắt đầu từ ý tưởng xây dựng một " bài tập lớn" để học sinh nghiên cứu sâu bài học, khái thác tốt bài tập, liên hệ tốt thực tế cuộc sống, ...
Giáo viên đã có một ý tưởng mở đầu.
Từ ý tưởng mở đầu nay, giáo viên phát triển thành nhiều ý tưởng khác. Bằng cách đặt một loạt câu hỏi như: Cái gì? Ai? Tại sao? Khi nào ? (Tránh đặt những câu hỏi học sinh có thể trả lời ngắn gọn hoặc có thể tìm được câu trả lời trong sách giáo khoa)
Suy nghĩ xem học sinh sẽ học được gì và phát triển được các kỹ năng nào của các em sau khi giải quyết được câu hỏi, giáo viên có thể sử dụng sơ đồ Ogle để tìm hiểu xem học sinh muốn biết thêm điều gì về chủ đề này. (Xem thêm phụ lục: Sơ đồ Ogle)
Sau khi sử dụng sơ đồ Ogle giáo viên đã hình thành rất nhiều chủ đề khác nhau xuất phát từ ý tưởng ban đầu, mỗi chủ đề có liên quan đến những công việc thực tế trong xã hội và mỗi chủ đề đều đòi hỏi học sinh phải học tập, nghiên cứu và vận dụng các kỹ năng của các em. Giờ là lúc giáo viên sẽ chọn một chủ đề mà giáo viên cảm thấy phù hợp nhất với nhu cầu của học sinh.
Hãy đặt tên thật hay cho chủ đề của mình.
Giáo viên sẽ xây dựng bộ cau hỏi để định hướng cho quá trình làm việc của học sinh:
Trong phương pháp dạy học theo dự án, người giáo viên đóng vai trò là người hướng dẫn, hỗ trợ học sinh, để làm được điều này, giáo viên cần lưu ý các điểm sau :
Đặt các câu hỏi hướng dẫn và các câu hỏi mở để giúp học sinh khám phá tình huống, giúp học sinh phát triển tư duy phản biện của các em.
Giúp học sinh phản hồi về những kinh nghiệm mà các em đang trải qua, việc phản hồi này sẽ giúp học sinh phát triển các kỹ năng chuyên nghiệp (Schon, 1987), phản hồi cũng giúp học sinh phát triển các kỹ năng giải quyết vấn đề (Kimbell et al.,1991) nâng cao chất lượng học tập (Schmidt, 1983; Coles, 1991). Các kỹ năng phản hồi cũng là một phần của kỹ năng giải quyết vấn đề và kỹ năng cộng tác.
Giám sát tiến trình thực hiện của học sinh, những người thành thạo trong việc giải quyết vấn đề thường xuyên nghĩ đến các quá trình giải quyết vấn đề của họ để bảo đảm rằng họ đang đi đúng hướng và biết rõ mình đang ở đâu (Schoenfeld, 1984).
Khuyến khích học sinh xây dụng một bầu không khí cộng tác thân thiện sao cho tất cả các em đều sẵn sàng chia sẻ kinh nghiệm và ý tưởng mà không cảm thấy lo ngại, vì các em tin tưởng lẫn nhau, tin tưởng chính là yếu tố chủ chốt để phát triển (Covey, 1989).
Theo nguyên tắc làm việc theo nhóm, học sinh sẽ phân công các thành viên:
Các thành viên sẽ thực hiện những việc chính sau:
Tải Biểu đồ Ogle
1. Mô tả biểu đồ KWL
KWL do Donna Ogle giới thiệu năm 1986, vốn là một hình thức tổ chức dạy học hoạt động đọc hiểu. Học sinh bắt đầu bằng việc động não tất cả những gì các em đã biết về chủ đề bài đọc. Thông tin này sẽ được ghi nhận vào cột K của biểu đồ. Sau đó học sinh nêu lên danh sách các câu hỏi về những điều các em muốn biết thêm trong chủ đề này. Những câu hỏi đó sẽ được ghi nhận vào cột W của biểu đồ. Trong quá trình đọc hoặc sau khi đọc xong, các em sẽ tự trả lời cho các câu hỏi ở cột W. Những thông tin này sẽ được ghi nhận vào cột L.
Trích từ Ogle, D.M. (1986). K-W- L: A teaching model that develops active reading of expository text. Reading Teacher, 39, 564-570)
2. Mục đích sử dụng biểu đồ KWL
Biểu đồ KWL phục vụ cho các mục đích sau:
3. Một ví dụ về biểu đồ KWL
Chủ đề bài đọc : Trọng lực
Câu hỏi của học sinh về Newton ở cột W không có câu trả lời trong bài đọc, học sinh sẽ được khuyến khích tìm kiếm câu trả lời từ các tài nguyên khác.
http://www.indiana.edu/~l517/KWL.htm
Xuất phát từ biểu đồ KWL, Ogle bổ sung thêm cột H ở sau cùng, với nội dung khuyến khích học sinh định hướng nghiên cứu. Sau khi học sinh đã hoàn tất nội dung ở cột L, các em có thể muốn tìm hiểu thêm về một thông tin. Các em sẽ nêu biện pháp để tìm thông tin mở rộng. Những biện pháp này sẽ được ghi nhận ở cột H.
Một ví dụ về biểu đồ K-W-L-H
Chủ đề : Khủng long
* Một số tài liệu cũ có thể bị lỗi font khi hiển thị do dùng bộ mã không phải Unikey ...
Người chia sẻ: Nguyễn Thị Thanh Nhàn
Dung lượng: |
Lượt tài: 0
Loại file:
Nguồn : Chưa rõ
(Tài liệu chưa được thẩm định)