Phuong phap day hoc van

Chia sẻ bởi Nguyễn Thị Ngọc Thẩm | Ngày 06/05/2019 | 51

Chia sẻ tài liệu: phuong phap day hoc van thuộc Học vần 1

Nội dung tài liệu:

Nhóm 7:
Xin chào
cô và các bạn
PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC VẦN
HOAT ĐỘNG 1
1.Mục tiêu của phân môn học vần
-Môn tiếng việt có mục tiêu quan trọng là rèn cho học sinh bốn kĩ năng lời nói:đọc ,viết ,nghe,nói.Mục tiêu này được cụ thể hóa thành mục tiêu của các phân môn.Riêng ở phân môn học vần trong bốn kĩ năng trên thì đọc và viết được ưu tiên.Qúa trình đọc,viết chữ phải thông qua âm,do vậy giữa chữ và âm có mối quan hệ chặt chẽ dạy chữ trên cơ sở dạy âm, dạy âm trên cơ sơ dạy chữ.
● Bởi vậy,nội dung và chương trình ,sách giáo khoa cũng như phương pháp dạy học tiếng việt lớp 1 phải thỏa mãn yêu cầu giúp HS với hệ thống tín hiệu mới là chữ víêt để các em có thể sử dụng hệ thống tín hiệu này một cách có hiệu quả trong giao tiếp và học tập.

Mục tiêu dạy học Chữ được thể hiện ở những nội dung chính sau:
a.Sách cung cấp vừa đủ lượng con chữ để thể hiện các đơn vị âm thanh và cách ghép các con chữ này thành các tiếng có thực trong tiếng việt văn hóa.Vd:sau khi đã học các chữ e,b và các dấu thanh,cách ghép chúng thành những văn tự lớn hơn HS có khả năng thể hiện các tiếng be,bè,bé bẹ gằng chữ viết.

b.Hệ thống chữ được đưa vào bài học theo đặc điểm và nguyên tắt đi từ chữ cấu tạo đơn giản đến phức tạp.Vd :chữ k giới thiệu sau chữ h,chữ kh được giới thiệu sau chữ k.
C.Những khác biệt thể hiện trên chữ viết điều được lấy làm căn cứ để xây dựng bài học.Vd:dạy vần ung và ưng trong một bài nhưng vần ung được dạy trước vần ưng…và qua việc nhận diện tiếng, HS hiểu được âm và chữ thể hiện đồng thời cũng học được các âm hay các tiếng đó.Vd:chữ s được học qua tiếng sẻ HS nhận diện được tiếng sẻ và hiểu được cách viết chữ s cùng với cách phát âm.
2. Phân môn học vần có những nhiệm vụ chủ yếu sau
2.1 Rèn các kĩ năng đọc,nghe,nói,viết cho học sinh lớp 1
Học vần là môn khởi đầu giúp HS chiếm lĩnh chữ viết một công cụ mới để giao tiếp ,học tập-giúp HS nhận thức đầy đủ hơn thế giời xung quanh mình.
Bằng việc rèn cho HS cả 4 kĩ năng đọc,nghe,nói ,viết phân môn học vần góp phần nâng cao học trình độ cho HS.
2.2 Thông qua dạy chữ gắn với kĩ năng lời nói,phân môn học vần còn có một số nhiệm vụ khác như:Phát triển vốn từ cho HS,tập cho các em nói viết đúng mẫu các câu ngắn,bồi dưỡng lòng ham thit thơ văn ,mở rộng vốn hiểu biết về tự nhiên XH và giáo dục đạo đức, tư cách tình cảm,tâm hồn cho các em.
Vd:qua bai học vần ăc, âc .HS có thể rèn luyện đựơc các kĩ năng đọc ,nói ,nghe,viết.Bên ccạnh đó,khá nhiều em còn mở rộng vốn qua các từ ngữ chim ngói,ruộng bậc thang mà trước đó các em chưa từng biết.Ngoài ra vốn hiểu biết về thiên nhiên cũng được mở rộng qua bai chim goi và ruộng bậc thang.
HOẠT ĐỘNG 2
1.Nguyên tắc phát triển lời nói trong phân môn học vần có những yêu cầu chủ yếu sau:
1.1 Phải xem xét các đơn vị ngôn ngữ trong hoạt động hành chức:âm/vần được thể hiện trong tiếng,tiếng trong từ,từ trong câu
1.2 Việc lựa chọn và sắp xếp nội dung dạy học phải lấy giao tiếp làm đích.
Các bai được sắp xếp trật tự từ dễ đến khó ,từ đơn giản đến phức tạp.Vd:trong 31 bai đầu của tiếng việt 1 đều là những bài làm quen với chữ cái,dấu thanh va bai dạy vần có 1 âm,còn từ bài 32 về sau là những bài dạy vần có nhiều âm…
1.3 Phải tổ chức hoạt động nói năng cho HS để dạy học tiếng việt ,sử dụng giao tiếp như một phương pháp dạy học chủ đạo ở tiểu học.Giáo viên cần tổ chức giờ học cho HS có thể thực hành nhiều để rèn luyện 4 kĩ năng đọc,nghe,nói ,viết.

2.Nguyên tắc phát triển tư duy trong phân môn học vần có những yêu cầu chủ yếu sau:
2.1 Phải chú ý rèn luyện các thao tác tư duy và bồi dưỡng các năng lực phẩm chất tư duy cho HS như tư so sánh, đối chiếu ,phân tích ,tổng hợp…

2.2 Phải làm cho HS thông hiểu ý nghĩa các đơn vị ngôn ngữ,nắm nội dung cần nói, viết và tạo điều kiện để các em thể hiện những vần đề đó bằng phương tiện ngôn ngữ.
●Trong chương trình học vần không phải mọi từ đìều quen thuộc với mọi đối tượng HS.Vd:HS miền nam có thể không hiểu ý nghĩa của từ phá cổ .HS thành phố không hiểu biết nhiều về chim ngói va ruộng bậc thang…cho nên giáo viên phải hiểu nội dung của những từ ngữ này thì các em mới có thể hoàn thành tốt nhiệm vụ học dùng biện pháp thích hợp để giúp HS tập.Các bài luyện nói theo chủ đề phải có nội dung gần gũi,hệ thống câu hỏi của giáo viên cũng cần dể hiểu phù hợp với đối tượng.
3.Nguyên tắc tính đến đặc điểm của học sinh trong phân môn học vần có hai yêu cầu chủ yếu :
3.1 Cần nắm vững những đặc điểm tâm lí, lứa tuổi của học sinh lớp 1. ở giai đọan 6 – 7 tuổi, khả năng tập trung chú ý của các em chưa cao, tư duy cụ thể là chủ yếu, khả năng tổng hợp khái quát chưa cao.
Vì thế trong giờ học vần cần thay đổi linh hoạt hình thức họat động trí tuệ xen kẻ khỏang giải lao vài ba phút giữa tiết học : hát, chơi các trò chơi học tập để đảm bảo yêu cầu học mà chơi, chơi mà học. Bài dạy phải quán triệt tinh thần “từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng” nhằm phát huy tính tích cực cho trẻ.
3.2 Cần lưu ý tính vừa sức trong dạy học vần, tìm hiểu trình độ tiếng Việt của học sinh, phân thành các nhóm để giao nhiệm vụ cho phù hợp với các em.
Không nên giao nhiệm vụ quá dễ khiến học sinh thấy chán,cũng không nên giao nhiệm vụ quá khó tránh làm giảm hứng thú học tập của học sinh.
Nên tìm hiểu sơ bộ về mối quan giữa tiếng việt và tiếng mẹ đẻ của học sinh. Với học sinh sử dụng tiếng mẹ đẻ là tiếng việt, cần tận dụng những kinh nghiệm lời nói của các em vào việc học đọc, viết tiếng việt. Nếu các em sử dụng tiếng mẹ đẻ là ngôn ngữ khác ( học tiếng Việt với tư cách là ngôn ngữ thứ hai) thì cần so sánh tiếng mẹ đẻ của các em với tiếng Việt
Tìm điểm tương đồng và khác biệt để tận dụng những ưu điểm cho sự gần gũi và hại chế những khó khăn do sự khác biệt giữa hai ngôn ngữ gây ra. Đối với HS ở từng vùng, phương ngữ, thổ ngữ cũng cần phải điều tra nhằm biết những đặc điểm phát âm của địa phương các em có gây khó khăn gì cho việc học tiếng Việt, để lựa chọn nội dung và PPDH thích hợp đối với từng đối tượng.
4. Nguyên tắc trực quan không phải là mới trong dạy học nói chung, dạy học tiếng Việt nói riêng. Tuy nhiên, trong việc dạy học Vần, nguyên tắc này giữ vai trò đặc biệt quan trọng. Bởi vì, do sự chi phối ở những đặc điểm tâm, sinh lý, HS lớp 1 có đặc điểm nhận thức và đặc điểm ngôn ngữ thiên về trực quan, cụ thể. Các kiến thức trù tượng sẽ trở nên dễ hiểu với các em hơn khi được diễn đạt
Một cách trực quan hơn bằng mô hình, bằng tranh vẽ đẹp và nhiều màu sắc ..
Thao tác thực hiện của 1 HS cũng trở nên thành thạo hơn nếu các em được quan sát các mẫu, được sử dụng đồ dùng học tập phù hợp.
Nguyên tắc trực quan yêu cầu :
4.1 phương tiện trực quan phải đa dạng về kiểu loại và phải có tác dụng tích cực trong việc hình thành kiến thức và kĩ năng cho HS.
Phương tiện trực quan trong dạy học Vần có thể là tranh vẽ, mô hình, vật thật, cũng có thể là các phương tiện dạy học rất đặc thù của việc dạy học Vần như bộ ghép chữ thực hành TV, chữ mẫu trong SGK, trong vở tập viết và cả chữ của giáo viên khi chấm bài, viết bảng. Thậm chí giọng đọc mẫu, khuôn miệng của giáo viên khi phát âm mẫu cũng là một loại phương tiện trực quan đặc biệt.
Các phương tiện trực quan phải được thiết kế và sử dụng sao cho chúng hỗ trợ tích cực cho việc dạy âm, dạy chữ. Mô hình, tranh vẽ phải đẹp, có hình dáng và màu sắc gần với vật thật trong thực tế. Dụng cụ thực hành phải có hình thức phù hợp thị hiếu của HS, bền chắc, dễ sử dụng. Chữ viết, giọng đọc của giáo viên phải chuẩn mực … Để đa dạng hóa các phương tiện trực quan, có thể tạo đồ dùng dạy học mới hoặc tận dụng đồ
dùng dạy học của phân môn khác hay của môn học khác vào việc dạy học vần cho phù hợp. Ví dụ có thể lựa chọn những tranh ảnh thích hợp của phân môn Tập đọc hay của môn tự nhiên xã hội vào việc giới thiệu bài, giải nghĩa từ, luyện nói theo chủ đề trong giờ học vần …
4.2. Phải phối hợp các loại phương tiện trực quan một cách linh hoạt, phù hợp với từng nhiệm vụ dạy học cụ
thể trong các phân đoạn cụ thể của tiết học. Cùng 1 loại phương tiện dạy học, thậm chí cùng 1 phương tiện dạy học, có thể sử dụng nhiều bước khác nhau. Ví dụ : Bộ ghép chữ thực hành có thể sử dụng trong tất cả các tiết học vần, các tranh minh họa có thể dùng để giới thiệu bài hoặc dùng để giới thiệu tiếng mới… Vấn đề là phải xác định mục đích sử dụng, từ đó có cách sử dụng các phương tiện dạy
học cho hiệu quả.Việc sử dụng các phương tiện dạy học phải được lên kế hoạch từ trước 1 cách kĩ càng, hoàn toàn không thể ngẫu hứng.
Ở 1 khía cạnh nhất định, có thể coi việc học sinh thực hành theo mẫu cũng là sự thể hiện của nguyên tắc trực quan trong phân môn học vần.
Phần thuyết trình của nhóm 7 đã kết thúc.
Cảm ơn cô và các bạn đã chú ý lắng nghe.
* Một số tài liệu cũ có thể bị lỗi font khi hiển thị do dùng bộ mã không phải Unikey ...

Người chia sẻ: Nguyễn Thị Ngọc Thẩm
Dung lượng: | Lượt tài: 0
Loại file:
Nguồn : Chưa rõ
(Tài liệu chưa được thẩm định)