Phong trào Cần Vương ở Thanh Hóa cuối thế kỉ XIX
Chia sẻ bởi Nguyễn Thành Tuấn |
Ngày 05/10/2018 |
72
Chia sẻ tài liệu: Phong trào Cần Vương ở Thanh Hóa cuối thế kỉ XIX thuộc Bài giảng khác
Nội dung tài liệu:
ỨNG DỤNG CÔNG NGHỆ THÔNG TIN VÀ PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC THEO HỢP ĐỒNG TRONG DẠY HỌC TÍCH CỰC LỊCH SỬ ĐỊA PHƯƠNG LỚP 8
Giáo viên : Lê Thị Luyến- Tổ KH Xã hội
Trường THCS Lê Quang Trường- Hoằng Tiến
BÀI: “THANH HÓA TRONG PHONG TRÀO
CẦN VƯƠNG CUỐI THẾ KỈ XIX”
Vua Hàm Nghi
Tôn Thất Thuyết
Chiếu ra ngày 13/7/1885
HƯỚNG DẪN THỰC HIỆN
* Các nhiệm vụ 2, 3, 8, 9 là nhiệm vụ bắt buộc mà nhóm nào cũng phải làm
* Các nhiệm vụ 1, 4, 5, 6, 7 là nhiệm vụ tự chọn mà các nhóm có thể chọn
để thực hiện theo ý thích
*LƯU Ý :
- Mỗi nhóm chọn 2 nhiệm vụ tự chọn để thực hiện
- Nhóm nào chọn nhiệm vụ 4 thì không chọn nhiệm vụ 7
- Nhóm nào chọn nhiệm vụ 5 thì không chọn nhiệm vụ 6
* Thời gian thực hiện tất cả các nhiệm vụ và trưng bày sản phẩm là 13 phút
* Sau khi thực hiện xong mỗi nhiệm vụ, cần ghi thời gian thực hiện nhiệm vụ
vào cột thứ 7 của bản hợp đồng.
* Sau khi tìm hiểu đáp án của GV, các nhóm tự đánh giá vào cột thứ 8
- Làm đúng, không vượt thời gian cho phép: Loại giỏi
- Làm sai ít, đảm bảo thời gian : Loại khá
- Làm sai một nửa, vượt thời gian : Loại TB
- Làm sai nhiều, vượt thời gian : Loại yếu
CHÚC CÁC EM THÀNH CÔNG
Nga
Sơn
Nông
Cống
Thường
Xuân
Tĩnh
Gia
Như
Thanh
Yên
Định
Hoằng
Hóa
Quảng
Xương
Hà
Trung
THANH
HÓA
Như
Xuân
Vĩnh Lộc
Mường Lát
Quan Hóa
Quan Sơn
Bá Thước
Đông
Sơn
Thiệu Hóa
Lang Chánh
Triệu Sơn
Bỉm Sơn
Thọ Xuân
Cẩm Thủy
Ngọc Lặc
Thạch
Thành
Hậu Lộc
Sầm
Sơn
Trần Xuân Soạn
Nguyễn Quý Yên
Nguyễn Phương
Lê Ngọc Toản
Cầm Bá Thước
Các thủ lĩnh đầu tiên của phong trào
Cần Vương ở Thanh Hóa :
Các địa phương tham gia trong buổi đầu
phong trào Cần Vương ở Thanh Hóa :
Tỉnh lị Thanh Hóa, Quảng Xương, Hoằng Hóa, Nông Cống,
Vĩnh Lộc, Hà Trung, Nga Sơn, Tĩnh Gia, ...
6. Hà Văn Mao
7. Tống Duy Tân
8. Phạm Bành
9. Hoàng Bật Đạt
10. Tôn Thất Hàm
NHIỆM VỤ 1
Nga
Sơn
Nông
Cống
Thường
Xuân
Tĩnh
Gia
Như
Thanh
Yên
Định
Hoằng
Hóa
Quảng
Xương
Hà
Trung
NGHỆ AN
THANH
HÓA
Hoằng
Hóa
CHÚ GIẢI
Các địa phương
tham gia trong
buổi đầu
phong trào
Cần Vương
Đánh thành Thanh Hóa ngày 12/3/1886
THANH
HÓA
LƯỢC ĐỒ THANH HÓA TRONG BUỔI ĐẦU PHONG TRÀO CẦN VƯƠNG
Như
Xuân
Vĩnh Lộc
Mường Lát
Quan Hóa
Quan Sơn
Bá Thước
Đông
Sơn
Thiệu Hóa
Lang Chánh
Triệu Sơn
Bỉm Sơn
Thọ Xuân
Cẩm Thủy
Ngọc Lặc
Thạch
Thành
Hậu Lộc
Sầm
Sơn
Chân dung Trần Xuân Soạn trên tem Việt Nam
TRẦN XUÂN SOẠN, NGƯỜI PHỤ TRÁCH PHONG TRÀO
CẦN VƯƠNG Ở THANH HÓA
NHIỆM VỤ 2
=
Nga
Sơn
Nông
Cống
Thường
Xuân
Tĩnh
Gia
Như
Thanh
Yên
Định
Hoằng
Hóa
Quảng
Xương
Hà
Trung
NGHỆ AN
THANH
HÓA
Như
Xuân
Vĩnh Lộc
Mường Lát
Quan Hóa
Quan Sơn
Bá Thước
Đông
Sơn
Thiệu Hóa
Lang Chánh
Triệu Sơn
Bỉm Sơn
Thọ Xuân
Cẩm Thủy
Ngọc Lặc
Thạch
Thành
Hậu Lộc
Sầm
Sơn
Lược đồ các trung tâm
Cần Vương ở Thanh Hóa
NHIỆM VỤ 3
Các cuộc khởi nghĩa
lớn nhất
Phong trào đấu tranh
ở miền núi,
các căn cứ phụ trợ
HÀ
TRUNG
BA ĐÌNH
NGA VINH
NGA THẮNG
NGA TRƯỜNG
Vị trí căn cứ Ba Đình trên bản đồ huyện Nga Sơn
Khởi nghĩa Ba Đình (1886-1887) là cuộc khởi nghĩa tiêu biểu nhất trong phong trào Cần Vương ở Thanh Hóa. Lãnh đạo cuộc khởi nghĩa là Phạm Bành, Đinh Công Tráng, Hoàng Bật Đạt...Căn cứ được xây dựng trên địa phận 3 làng Thượng Thọ, Mậu Thịnh, Mỹ Khê ( thuộc xã Ba Đình, Nga Sơn). Đây là công sự phòng thủ quy mô nhất Việt Nam thời kì cuối thế kỉ XIX với nhiều loại vũ khí mới và các căn cứ hỗ trợ ở các địa phương lân cận.
Ban đầu, nghĩa quân mở các trận đánh nhỏ tiêu diệt sinh lực địch, làm tê liệt đường giao thông của chúng. Tháng 12/1886, nghĩa quân đã đập tan cuộc tấn công lần 1 vào căn cứ do Metzingơ và Đôt cầm đầu
Ngày 6 tháng Giêng năm 1887, tiếp tục đánh bại cuộc tấn công lần 2 của quân Pháp do Brixơ chỉ huy
Ngày 15 tháng Giêng năm 1887, quân Pháp cắt đứt liên lạc của nghĩa quân với bên ngoài, đốt căn cứ bằng xăng. Đêm 20 tháng Giêng, Ba Đình thất thủ. Nhóm nghĩa quân cuối cùng rút lên căn cứ Mã Cao. Tại đây, nghĩa quân tiếp tục xây dựng thành lũy và chiến đấu quyết liệt với quân Pháp, song trước thế giặc mạnh, nghĩa quân tiếp tục rút lui. Đinh Công Tráng bị phản bội và hi sinh trên đường vào Nghệ An tháng 10/1887
Thời kì đầu của phong trào Cần Vương ở Thanh Hóa kết thúc
Tên Ba Đình được dùng để đặt cho quảng trường lớn ở TP Hà Nội, nơi vào ngày 2/ 9/ 1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đọc bản Tuyên ngôn độc lập, khai sinh nước Việt Nam dân chủ cộng hòa.
NHIỆM VỤ 5
Sơ đồ
công sự
phòng thủ
Ba Đình (thuộc địa phận 3 làng Thượng Thọ, Mậu Thịnh, Mỹ Khê, xã Ba Đình,
Nga Sơn, Thanh Hóa)
Nghĩa quân cuộc khởi nghĩa Ba Đình bị bắt
Phụ nữ nông dân bị bắt trong khởi nghĩa Ba Đình
Một góc căn cứ Ba Đình ngày nay
Vị trí căn cứ khởi nghĩa Hùng Lĩnh
trên bản đồ huyện Vĩnh Lộc
VĨNH HÙNG
VĨNH MINH
VĨNH THỊNH
VĨNH TÂN
Khởi nghĩa Hùng Lĩnh (1887-1895) do Tống Duy Tân, Cao Điển lãnh đạo. Căn cứ của cuộc khởi nghĩa đóng tại các làng Bồng Trung, Bồng Thượng, Bồng Hạ, Đa Bút ( Vĩnh Lộc)
Khác với các thủ lĩnh của khởi nghĩa Ba Đình, Tống Duy Tân không xây dựng thành lũy kiên cố mà lợi dụng địa hình, địa vật tự nhiên sẵn có để phòng thủ, thực hiện chiến tranh du kích. Kỉ luật của nghĩa quân hết sức nghiêm khắc.
Ban đầu, nghĩa quân chiến đấu chống các cuộc càn quét của địch, đánh thành Thanh Hóa, làm phân tán lực lượng của địch, không cho chúng thực hiện ý đồ lập chính quyền tay sai
Tống Duy Tân đã liên hệ và có phối hợp chiến đấu với thủ lĩnh phong trào hai miền Trung, Bắc ( các tỉnh Hà Tây, Bắc Giang, Nghệ An, Hà Tĩnh)
Những thắng lợi vang dội của nghĩa quân Hùng Lĩnh là trận Vân Đồn (Triệu Sơn), trận Đa Bút, trận Vạn Lại (Thọ Xuân), trận đánh huyện lị Nông Cống, phục kích ở Yên Thái, bao vây đồn Thị Long ( Nông Cống ).
Do sự phản bội của Cao Ngọc Lễ, Tống Duy Tân bị bắt và bị chém đầu tại tỉnh lị Thanh Hóa. Cao Điển cũng bị bắt tại Bắc Giang và bị kết án tử hình
Với 8 năm tồn tại, hoạt động trên một địa bàn rộng lớn trong tỉnh, phối hợp chiến đấu với nghĩa quân trong và ngoài tỉnh cùng sự tiến bộ trong tổ chức và kỉ luật, khởi nghĩa Hùng Lĩnh xứng đáng là bước phát triển mới trong phong trào yêu nước chống Pháp ở Thanh Hóa cuối thế kỉ XIX
NHIỆM VỤ 6
Tống Duy Tân
trong phẩm phục
tiến sĩ tân khoa
năm 1875
Đền thờ
Cầm Bá Thước
(Thường Xuân )
Nằm cách trung tâm thành phố Thanh Hóa chừng 60 km về phía tây, đền thờ danh nhân Cầm Bá Thước tọa lạc trên một dải đất cao thuộc địa bàn xã Xuân Mỹ, huyện Thường Xuân, Thanh Hóa. Nơi đây trong tương lai không xa khi công trình thủy lợi, thủy điện Cửa Đạt hoàn chỉnh sẽ tạo thành một quẩn thế danh lam thắng cảnh tuyệt đẹp, không chỉ đáp ứng nhu cầu tâm linh mà cả du lịch sinh thái đối với người dân và du khách thập phương.
Lễ hội Căm Mương, xã Mường Kỉ, Văn Nho, Bá Thước
Lễ hội Căm Mương, xã Mường Kỉ, Văn Nho, Bá Thước
ĐẶC ĐIỂM,
VỊ TRÍ, Ý NGHĨA LỊCH SỬ
CỦA PHONG TRÀO YÊU NƯỚC
CHỐNG PHÁP Ở THANH HÓA
CUỐI THẾ KỈ XIX
V? TR
Nêu cao
chủ
nghĩa
anh hùng,
là niềm
cổ vũ
lớn lao
cho lớp
người
sau
tiếp tục
đấu tranh
ĐẶC ĐIỂM
Bùng nổ
sớm,kéo
dài liên
tục và
bền bỉ
Diễn ra
trên diện
rộng, quy
mô ngày
càng lớn
từ đồng
bằng, trung
du lên
miền núi
Thể hiện
tinh thần
yêu nước
mạnh mẽ,
ý chí
kiên
cường,
sức mạnh
đoàn kết
hùng hậu
của nhân
dân
tỉnh ta
Thể
hiện
tinh
thần
yêu
nước
nồng
nàn,
sẵn sàng
hi sinh
vì độc lập
dân tộc
Ý NGHĨA LỊCH SỬ
TRUNG
TÂM
*Dựa chắc
vào nhân
dân, khai
thác tối đa
điểm mạnh
của
địa hình,
địa vật,
con người
*Phương thức
đấu tranh
phong phú,
nhất là
xây dựng
làng xã
chiến đấu
Lãnh
đạo
là sĩ phu,
văn thân,
thổ ty,
lang đạo,
nông dân,
những
người
có uy
tín và
khả năng
tập hợp
lực lượng
Thất bại do
Phân tán,
hiếu bộ
chỉ huy
thống nhất
tập trung
cao độ
- Phương pháp
chưa
đúng đắn,
khoa học
-Vũ khí thô sơ
- Nghĩa quân
chưa được
rèn luyện
chu đáo
Đánh
mạnh,
làm
chậm
quá
trình
“bình
định”
của
thực
dân
Pháp
NHIỆM VỤ 8
Trần Xuân Soạn là người làng Thọ Hạc (nay là phường Đông Thọ, thành phố Thanh Hóa)
Xuất thân trong một gia đình nông dân nghèo, tòng quân thay cho con một phú hào trong làng để lấy tiền nuôi gia đình. Trong thời gian đi lính, do có công lớn trong việc tiễu phỉ ở đất Bắc nên được thăng chức đề đốc.
Sau khi vua Kiến Phúc mất, ngày 2 tháng 8 năm 1884, vua Hàm Nghi nối ngôi, Trần Xuân Soạn được điều về Huế để cùng phái kháng chiến lo phòng giữ kinh thành.
Đêm 4 rạng ngày 5 tháng 7 năm 1885, ông cùng phái chủ chiến do Tôn Thất Thuyết và Nguyễn Văn Tường đứng đầu, lệnh cho binh sĩ đồng loạt nã đại bác vào tòa Khâm Sứ và đồn Mang Cá, là hai địa điểm đóng quân của quân Pháp. Thất bại, Tôn Thất Thuyết phò vua Hàm Nghi chạy ra sơn phòng Quảng Trị, ban dụ Cần Vương; còn Trần Xuân Soạn cùng Phạm Bành, Đinh Công Tráng đi xây dựng cứ điểm Ba Đình (Thanh Hoá), tiếp tục chỉ đạo cuộc kháng chiến. Theo sự phân công, ông đóng quân ở phủ Quảng Hóa để hỗ trợ cho căn cứ Ba Đình, và giữ mối hiện hệ giữa Ba Đình và Mã Cao.
Đầu năm 1887, Ba Đình và Mã Cao thất thủ ông rút quân lên Điền Lư, châu Quan Hoá (nay là huyện Bá Thước) xây dựng lại lực lượng.
Thấy Trần Xuân Soạn cứng cỏi quá, quân Pháp đào mồ lấy cốt cha ông thiêu hủy ở giữa đường, cốt để lung lạc ông ra hàng, nhưng không thành công. Ít lâu sau, ông sang Long Châu (Quảng Tây, Trung Quốc) gặp Tôn Thất Thuyết để bàn chuyện xin viện trợ và tổ chức lại lực lượng, nhưng rồi bị mắc kẹt luôn ở bên đó .
Ở Long Châu, được sự giúp đỡ của một số sĩ phu Hoa Nam, ông đã tổ chức được mấy toán quân, và nhiều lần về hoạt động ở biên giới .
Năm Quý Hợi (1923), Trần Xuân Soạn mất tại Long Châu, thọ 74 tuổi.
TRẦN XUÂN SOẠN, NGƯỜI PHỤ TRÁCH PHONG TRÀO
CẦN VƯƠNG Ở THANH HÓA
Căn cứ Ba Đình cách huyện lỵ Nga Sơn 4 km, tây bắc giáp huyện Hà Trung, được xây dựng trên địa bàn ba làng Thượng Thọ, Mậu Thịnh và Mỹ Khê.
Vào mùa mưa, căn cứ này trông như một hòn đảo nổi giữa cánh đồng nước mênh mông, tách biệt với các làng khác. Căn cứ này gọi là Ba Đình vì mỗi làng có một cái đình, từ làng này có thể nhìn thấy đình của hai làng kia.
Để chuẩn bị chiến đấu lâu dài, Đinh Công Tráng đã cho bao bọc xung quanh căn cứ là lũy tre dày đặc và một hệ thống hào rộng, cắm đầy chông tre. Ở trong là một lớp thành đất cao 3 m, chân rộng 8 đến 10m. Trên mặt thành, nghĩa quân đặt các rọ tre chứa đất nhào rơm xếp vững chắc có những khe hở làm lỗ châu mai sẵn sàng chiến đấu. Thành rộng 400 m, dài 1.200 m. Phía trong thành có hệ thống giao thông hào dùng để vận chuyển lương thực và vận động khi chiến đấu. Ở những nơi xung yếu đều có công sự vững chắc.
Ở mỗi làng xây dựng một đồn đóng quân. Ở Thượng Thọ có đồn Thượng, ở Mậu Thịnh có đồn Trung và ở Mỹ Khê có đồn Hạ. Ba đồn này có thể hỗ trợ tác chiến cho nhau khi bị tấn công, đồng thời cũng có thể chiến đấu độc lập. Có thể nói rằng căn cứ Ba Đình có vị trí tiêu biểu nhất, là một chiến tuyến phòng ngự quy mô nhất thời kỳ Cần Vương cuối thế kỷ 19. Ba Đình còn có các căn cứ hỗ trợ: căn cứ Phi Lai của Tống Duy Tân và Cao Điển, căn cứ Quảng Hóa của Trần Xuân Soạn, căn cứ Mã Cao của Hà Văn Mao.
Từ Ba Đình, nghĩa quân có thể tỏa đi các nơi, kiểm soát các tuyến giao thông quan trọng trong vùng, tổ chức phục kích các đoàn xe vận tải của đối phương đi lại trên con đường Bắc-Nam...Chính vì vậy, mà quân Pháp rất quyết tâm đánh dẹp.
CĂN CỨ BA ĐÌNH
Tống Duy Tân là một nhà khoa bảng lớn, đã từng bỏ ấn từ quan trước thái độ hèn nhát đầu hàng Pháp của triều đình nhà Nguyễn. Về Thanh Hóa ông dạy học và mưu tính việc cứu nước. Khi Tôn Thất Thuyết nắm binh quyền liền đưa ông trở lại triều đình tham gia chính sự. Khi chiếu Cần Vương ban ra, ông được vua Hàm Nghi phong làm Chánh sứ sơn phòng Thanh Hóa.
Khi khởi nghĩa Ba Đình thất bại, để thoát khỏi sự truy lùng của Pháp, Tống Duy Tân lánh đi một thời gian. Sau đó về lại Thanh Hóa tập hợp những người yêu nước cũ còn lại như Cao Điển, Tôn Thất Hàm, Cầm Bá Thước… xây dựng lại lực lượng
Nghĩa quân Hùng Lĩnh được tổ chức rất cơ động, mỗi huyện đều có một cơ lính từ 200 người trở lên và lấy tên huyện để gọi, ví dụ như Tống Thanh cơ (Tống Sơn - Thanh Hóa), Nông Thanh cơ (Nông Cống - Thanh Hóa)… Lãnh đạo nghĩa quân còn chủ động đặt mối liên hệ với nghĩa quân ở một số nơi khác .Trong những năm 1889 - 1891, nghĩa quân Hùng Lĩnh đã chiến thắng nhiều trận, chủ yếu là phục kích đánh địch trên đường hành quân
Tháng 5-1892, nghĩa quân Hùng Lĩnh phối hợp với nghĩa quân sông Đà (do Đốc Ngữ chỉ huy) chiến đấu với quân Pháp do Pennơcanh chỉ huy ở Niên Kỷ và giành thắng lợi lớn.
Sau đó, Pháp tăng cường tấn công càn quét vào căn cứ, Tống Duy Tân lãnh đạo nghĩa quân chiến đấu cầm cự được một thời gian nữa. Đến tháng 9-1892, nhận thấy hết phương duy trì cuộc chiến đấu, Tống Duy Tân cho hội quân lại nói rõ tình hình và tuyên bố giải tán quân sĩ, khuyên mọi người trở về quê quán làm ăn, chờ thời cơ và không được cộng tác với giặc. Tống Duy Tân cùng Cao Điển và một số nghĩa quân còn lại trú quân trong một hang núi thuộc huyện Bá Thước
Ngày 3-10-1892, tên việt gian Cao Ngọc Lễ (vốn là học trò cũ của Tống Duy Tân) chỉ điểm cho quân Pháp bắt Cao Điển và Tống Duy Tân. Trong trận đánh trả dữ dội đó, Cao Điển thoát được ra ngoài. Ngày 4-10-1892, Tống Duy Tân bị địch bắt. Pháp cho đóng cũi nhốt ông chở về thị xã Thanh Hóa để mua chuộc. Trong cũi tù ông vẫn ung dung làm thơ. Thất bại trong âm mưu mua chuộc, thực dân Pháp đưa Tống Duy Tân ra chém tại thị xã Thanh Hóa ngày 15-10-1892.
Người dân Thanh Hóa có câu
Vô địa khả mai Cao Ngọc Lễ
Hữu tiền khôn chuộc Tống Duy Tân
Đến đây, cuộc khởi nghĩa Hùng Lĩnh coi như kết thúc.
TỐNG DUY TÂN, NGƯỜI LÃNH ĐẠO
KHỞI NGHĨA HÙNG LĨNH
V? NH
Giáo viên : Lê Thị Luyến- Tổ KH Xã hội
Trường THCS Lê Quang Trường- Hoằng Tiến
BÀI: “THANH HÓA TRONG PHONG TRÀO
CẦN VƯƠNG CUỐI THẾ KỈ XIX”
Vua Hàm Nghi
Tôn Thất Thuyết
Chiếu ra ngày 13/7/1885
HƯỚNG DẪN THỰC HIỆN
* Các nhiệm vụ 2, 3, 8, 9 là nhiệm vụ bắt buộc mà nhóm nào cũng phải làm
* Các nhiệm vụ 1, 4, 5, 6, 7 là nhiệm vụ tự chọn mà các nhóm có thể chọn
để thực hiện theo ý thích
*LƯU Ý :
- Mỗi nhóm chọn 2 nhiệm vụ tự chọn để thực hiện
- Nhóm nào chọn nhiệm vụ 4 thì không chọn nhiệm vụ 7
- Nhóm nào chọn nhiệm vụ 5 thì không chọn nhiệm vụ 6
* Thời gian thực hiện tất cả các nhiệm vụ và trưng bày sản phẩm là 13 phút
* Sau khi thực hiện xong mỗi nhiệm vụ, cần ghi thời gian thực hiện nhiệm vụ
vào cột thứ 7 của bản hợp đồng.
* Sau khi tìm hiểu đáp án của GV, các nhóm tự đánh giá vào cột thứ 8
- Làm đúng, không vượt thời gian cho phép: Loại giỏi
- Làm sai ít, đảm bảo thời gian : Loại khá
- Làm sai một nửa, vượt thời gian : Loại TB
- Làm sai nhiều, vượt thời gian : Loại yếu
CHÚC CÁC EM THÀNH CÔNG
Nga
Sơn
Nông
Cống
Thường
Xuân
Tĩnh
Gia
Như
Thanh
Yên
Định
Hoằng
Hóa
Quảng
Xương
Hà
Trung
THANH
HÓA
Như
Xuân
Vĩnh Lộc
Mường Lát
Quan Hóa
Quan Sơn
Bá Thước
Đông
Sơn
Thiệu Hóa
Lang Chánh
Triệu Sơn
Bỉm Sơn
Thọ Xuân
Cẩm Thủy
Ngọc Lặc
Thạch
Thành
Hậu Lộc
Sầm
Sơn
Trần Xuân Soạn
Nguyễn Quý Yên
Nguyễn Phương
Lê Ngọc Toản
Cầm Bá Thước
Các thủ lĩnh đầu tiên của phong trào
Cần Vương ở Thanh Hóa :
Các địa phương tham gia trong buổi đầu
phong trào Cần Vương ở Thanh Hóa :
Tỉnh lị Thanh Hóa, Quảng Xương, Hoằng Hóa, Nông Cống,
Vĩnh Lộc, Hà Trung, Nga Sơn, Tĩnh Gia, ...
6. Hà Văn Mao
7. Tống Duy Tân
8. Phạm Bành
9. Hoàng Bật Đạt
10. Tôn Thất Hàm
NHIỆM VỤ 1
Nga
Sơn
Nông
Cống
Thường
Xuân
Tĩnh
Gia
Như
Thanh
Yên
Định
Hoằng
Hóa
Quảng
Xương
Hà
Trung
NGHỆ AN
THANH
HÓA
Hoằng
Hóa
CHÚ GIẢI
Các địa phương
tham gia trong
buổi đầu
phong trào
Cần Vương
Đánh thành Thanh Hóa ngày 12/3/1886
THANH
HÓA
LƯỢC ĐỒ THANH HÓA TRONG BUỔI ĐẦU PHONG TRÀO CẦN VƯƠNG
Như
Xuân
Vĩnh Lộc
Mường Lát
Quan Hóa
Quan Sơn
Bá Thước
Đông
Sơn
Thiệu Hóa
Lang Chánh
Triệu Sơn
Bỉm Sơn
Thọ Xuân
Cẩm Thủy
Ngọc Lặc
Thạch
Thành
Hậu Lộc
Sầm
Sơn
Chân dung Trần Xuân Soạn trên tem Việt Nam
TRẦN XUÂN SOẠN, NGƯỜI PHỤ TRÁCH PHONG TRÀO
CẦN VƯƠNG Ở THANH HÓA
NHIỆM VỤ 2
=
Nga
Sơn
Nông
Cống
Thường
Xuân
Tĩnh
Gia
Như
Thanh
Yên
Định
Hoằng
Hóa
Quảng
Xương
Hà
Trung
NGHỆ AN
THANH
HÓA
Như
Xuân
Vĩnh Lộc
Mường Lát
Quan Hóa
Quan Sơn
Bá Thước
Đông
Sơn
Thiệu Hóa
Lang Chánh
Triệu Sơn
Bỉm Sơn
Thọ Xuân
Cẩm Thủy
Ngọc Lặc
Thạch
Thành
Hậu Lộc
Sầm
Sơn
Lược đồ các trung tâm
Cần Vương ở Thanh Hóa
NHIỆM VỤ 3
Các cuộc khởi nghĩa
lớn nhất
Phong trào đấu tranh
ở miền núi,
các căn cứ phụ trợ
HÀ
TRUNG
BA ĐÌNH
NGA VINH
NGA THẮNG
NGA TRƯỜNG
Vị trí căn cứ Ba Đình trên bản đồ huyện Nga Sơn
Khởi nghĩa Ba Đình (1886-1887) là cuộc khởi nghĩa tiêu biểu nhất trong phong trào Cần Vương ở Thanh Hóa. Lãnh đạo cuộc khởi nghĩa là Phạm Bành, Đinh Công Tráng, Hoàng Bật Đạt...Căn cứ được xây dựng trên địa phận 3 làng Thượng Thọ, Mậu Thịnh, Mỹ Khê ( thuộc xã Ba Đình, Nga Sơn). Đây là công sự phòng thủ quy mô nhất Việt Nam thời kì cuối thế kỉ XIX với nhiều loại vũ khí mới và các căn cứ hỗ trợ ở các địa phương lân cận.
Ban đầu, nghĩa quân mở các trận đánh nhỏ tiêu diệt sinh lực địch, làm tê liệt đường giao thông của chúng. Tháng 12/1886, nghĩa quân đã đập tan cuộc tấn công lần 1 vào căn cứ do Metzingơ và Đôt cầm đầu
Ngày 6 tháng Giêng năm 1887, tiếp tục đánh bại cuộc tấn công lần 2 của quân Pháp do Brixơ chỉ huy
Ngày 15 tháng Giêng năm 1887, quân Pháp cắt đứt liên lạc của nghĩa quân với bên ngoài, đốt căn cứ bằng xăng. Đêm 20 tháng Giêng, Ba Đình thất thủ. Nhóm nghĩa quân cuối cùng rút lên căn cứ Mã Cao. Tại đây, nghĩa quân tiếp tục xây dựng thành lũy và chiến đấu quyết liệt với quân Pháp, song trước thế giặc mạnh, nghĩa quân tiếp tục rút lui. Đinh Công Tráng bị phản bội và hi sinh trên đường vào Nghệ An tháng 10/1887
Thời kì đầu của phong trào Cần Vương ở Thanh Hóa kết thúc
Tên Ba Đình được dùng để đặt cho quảng trường lớn ở TP Hà Nội, nơi vào ngày 2/ 9/ 1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đọc bản Tuyên ngôn độc lập, khai sinh nước Việt Nam dân chủ cộng hòa.
NHIỆM VỤ 5
Sơ đồ
công sự
phòng thủ
Ba Đình (thuộc địa phận 3 làng Thượng Thọ, Mậu Thịnh, Mỹ Khê, xã Ba Đình,
Nga Sơn, Thanh Hóa)
Nghĩa quân cuộc khởi nghĩa Ba Đình bị bắt
Phụ nữ nông dân bị bắt trong khởi nghĩa Ba Đình
Một góc căn cứ Ba Đình ngày nay
Vị trí căn cứ khởi nghĩa Hùng Lĩnh
trên bản đồ huyện Vĩnh Lộc
VĨNH HÙNG
VĨNH MINH
VĨNH THỊNH
VĨNH TÂN
Khởi nghĩa Hùng Lĩnh (1887-1895) do Tống Duy Tân, Cao Điển lãnh đạo. Căn cứ của cuộc khởi nghĩa đóng tại các làng Bồng Trung, Bồng Thượng, Bồng Hạ, Đa Bút ( Vĩnh Lộc)
Khác với các thủ lĩnh của khởi nghĩa Ba Đình, Tống Duy Tân không xây dựng thành lũy kiên cố mà lợi dụng địa hình, địa vật tự nhiên sẵn có để phòng thủ, thực hiện chiến tranh du kích. Kỉ luật của nghĩa quân hết sức nghiêm khắc.
Ban đầu, nghĩa quân chiến đấu chống các cuộc càn quét của địch, đánh thành Thanh Hóa, làm phân tán lực lượng của địch, không cho chúng thực hiện ý đồ lập chính quyền tay sai
Tống Duy Tân đã liên hệ và có phối hợp chiến đấu với thủ lĩnh phong trào hai miền Trung, Bắc ( các tỉnh Hà Tây, Bắc Giang, Nghệ An, Hà Tĩnh)
Những thắng lợi vang dội của nghĩa quân Hùng Lĩnh là trận Vân Đồn (Triệu Sơn), trận Đa Bút, trận Vạn Lại (Thọ Xuân), trận đánh huyện lị Nông Cống, phục kích ở Yên Thái, bao vây đồn Thị Long ( Nông Cống ).
Do sự phản bội của Cao Ngọc Lễ, Tống Duy Tân bị bắt và bị chém đầu tại tỉnh lị Thanh Hóa. Cao Điển cũng bị bắt tại Bắc Giang và bị kết án tử hình
Với 8 năm tồn tại, hoạt động trên một địa bàn rộng lớn trong tỉnh, phối hợp chiến đấu với nghĩa quân trong và ngoài tỉnh cùng sự tiến bộ trong tổ chức và kỉ luật, khởi nghĩa Hùng Lĩnh xứng đáng là bước phát triển mới trong phong trào yêu nước chống Pháp ở Thanh Hóa cuối thế kỉ XIX
NHIỆM VỤ 6
Tống Duy Tân
trong phẩm phục
tiến sĩ tân khoa
năm 1875
Đền thờ
Cầm Bá Thước
(Thường Xuân )
Nằm cách trung tâm thành phố Thanh Hóa chừng 60 km về phía tây, đền thờ danh nhân Cầm Bá Thước tọa lạc trên một dải đất cao thuộc địa bàn xã Xuân Mỹ, huyện Thường Xuân, Thanh Hóa. Nơi đây trong tương lai không xa khi công trình thủy lợi, thủy điện Cửa Đạt hoàn chỉnh sẽ tạo thành một quẩn thế danh lam thắng cảnh tuyệt đẹp, không chỉ đáp ứng nhu cầu tâm linh mà cả du lịch sinh thái đối với người dân và du khách thập phương.
Lễ hội Căm Mương, xã Mường Kỉ, Văn Nho, Bá Thước
Lễ hội Căm Mương, xã Mường Kỉ, Văn Nho, Bá Thước
ĐẶC ĐIỂM,
VỊ TRÍ, Ý NGHĨA LỊCH SỬ
CỦA PHONG TRÀO YÊU NƯỚC
CHỐNG PHÁP Ở THANH HÓA
CUỐI THẾ KỈ XIX
V? TR
Nêu cao
chủ
nghĩa
anh hùng,
là niềm
cổ vũ
lớn lao
cho lớp
người
sau
tiếp tục
đấu tranh
ĐẶC ĐIỂM
Bùng nổ
sớm,kéo
dài liên
tục và
bền bỉ
Diễn ra
trên diện
rộng, quy
mô ngày
càng lớn
từ đồng
bằng, trung
du lên
miền núi
Thể hiện
tinh thần
yêu nước
mạnh mẽ,
ý chí
kiên
cường,
sức mạnh
đoàn kết
hùng hậu
của nhân
dân
tỉnh ta
Thể
hiện
tinh
thần
yêu
nước
nồng
nàn,
sẵn sàng
hi sinh
vì độc lập
dân tộc
Ý NGHĨA LỊCH SỬ
TRUNG
TÂM
*Dựa chắc
vào nhân
dân, khai
thác tối đa
điểm mạnh
của
địa hình,
địa vật,
con người
*Phương thức
đấu tranh
phong phú,
nhất là
xây dựng
làng xã
chiến đấu
Lãnh
đạo
là sĩ phu,
văn thân,
thổ ty,
lang đạo,
nông dân,
những
người
có uy
tín và
khả năng
tập hợp
lực lượng
Thất bại do
Phân tán,
hiếu bộ
chỉ huy
thống nhất
tập trung
cao độ
- Phương pháp
chưa
đúng đắn,
khoa học
-Vũ khí thô sơ
- Nghĩa quân
chưa được
rèn luyện
chu đáo
Đánh
mạnh,
làm
chậm
quá
trình
“bình
định”
của
thực
dân
Pháp
NHIỆM VỤ 8
Trần Xuân Soạn là người làng Thọ Hạc (nay là phường Đông Thọ, thành phố Thanh Hóa)
Xuất thân trong một gia đình nông dân nghèo, tòng quân thay cho con một phú hào trong làng để lấy tiền nuôi gia đình. Trong thời gian đi lính, do có công lớn trong việc tiễu phỉ ở đất Bắc nên được thăng chức đề đốc.
Sau khi vua Kiến Phúc mất, ngày 2 tháng 8 năm 1884, vua Hàm Nghi nối ngôi, Trần Xuân Soạn được điều về Huế để cùng phái kháng chiến lo phòng giữ kinh thành.
Đêm 4 rạng ngày 5 tháng 7 năm 1885, ông cùng phái chủ chiến do Tôn Thất Thuyết và Nguyễn Văn Tường đứng đầu, lệnh cho binh sĩ đồng loạt nã đại bác vào tòa Khâm Sứ và đồn Mang Cá, là hai địa điểm đóng quân của quân Pháp. Thất bại, Tôn Thất Thuyết phò vua Hàm Nghi chạy ra sơn phòng Quảng Trị, ban dụ Cần Vương; còn Trần Xuân Soạn cùng Phạm Bành, Đinh Công Tráng đi xây dựng cứ điểm Ba Đình (Thanh Hoá), tiếp tục chỉ đạo cuộc kháng chiến. Theo sự phân công, ông đóng quân ở phủ Quảng Hóa để hỗ trợ cho căn cứ Ba Đình, và giữ mối hiện hệ giữa Ba Đình và Mã Cao.
Đầu năm 1887, Ba Đình và Mã Cao thất thủ ông rút quân lên Điền Lư, châu Quan Hoá (nay là huyện Bá Thước) xây dựng lại lực lượng.
Thấy Trần Xuân Soạn cứng cỏi quá, quân Pháp đào mồ lấy cốt cha ông thiêu hủy ở giữa đường, cốt để lung lạc ông ra hàng, nhưng không thành công. Ít lâu sau, ông sang Long Châu (Quảng Tây, Trung Quốc) gặp Tôn Thất Thuyết để bàn chuyện xin viện trợ và tổ chức lại lực lượng, nhưng rồi bị mắc kẹt luôn ở bên đó .
Ở Long Châu, được sự giúp đỡ của một số sĩ phu Hoa Nam, ông đã tổ chức được mấy toán quân, và nhiều lần về hoạt động ở biên giới .
Năm Quý Hợi (1923), Trần Xuân Soạn mất tại Long Châu, thọ 74 tuổi.
TRẦN XUÂN SOẠN, NGƯỜI PHỤ TRÁCH PHONG TRÀO
CẦN VƯƠNG Ở THANH HÓA
Căn cứ Ba Đình cách huyện lỵ Nga Sơn 4 km, tây bắc giáp huyện Hà Trung, được xây dựng trên địa bàn ba làng Thượng Thọ, Mậu Thịnh và Mỹ Khê.
Vào mùa mưa, căn cứ này trông như một hòn đảo nổi giữa cánh đồng nước mênh mông, tách biệt với các làng khác. Căn cứ này gọi là Ba Đình vì mỗi làng có một cái đình, từ làng này có thể nhìn thấy đình của hai làng kia.
Để chuẩn bị chiến đấu lâu dài, Đinh Công Tráng đã cho bao bọc xung quanh căn cứ là lũy tre dày đặc và một hệ thống hào rộng, cắm đầy chông tre. Ở trong là một lớp thành đất cao 3 m, chân rộng 8 đến 10m. Trên mặt thành, nghĩa quân đặt các rọ tre chứa đất nhào rơm xếp vững chắc có những khe hở làm lỗ châu mai sẵn sàng chiến đấu. Thành rộng 400 m, dài 1.200 m. Phía trong thành có hệ thống giao thông hào dùng để vận chuyển lương thực và vận động khi chiến đấu. Ở những nơi xung yếu đều có công sự vững chắc.
Ở mỗi làng xây dựng một đồn đóng quân. Ở Thượng Thọ có đồn Thượng, ở Mậu Thịnh có đồn Trung và ở Mỹ Khê có đồn Hạ. Ba đồn này có thể hỗ trợ tác chiến cho nhau khi bị tấn công, đồng thời cũng có thể chiến đấu độc lập. Có thể nói rằng căn cứ Ba Đình có vị trí tiêu biểu nhất, là một chiến tuyến phòng ngự quy mô nhất thời kỳ Cần Vương cuối thế kỷ 19. Ba Đình còn có các căn cứ hỗ trợ: căn cứ Phi Lai của Tống Duy Tân và Cao Điển, căn cứ Quảng Hóa của Trần Xuân Soạn, căn cứ Mã Cao của Hà Văn Mao.
Từ Ba Đình, nghĩa quân có thể tỏa đi các nơi, kiểm soát các tuyến giao thông quan trọng trong vùng, tổ chức phục kích các đoàn xe vận tải của đối phương đi lại trên con đường Bắc-Nam...Chính vì vậy, mà quân Pháp rất quyết tâm đánh dẹp.
CĂN CỨ BA ĐÌNH
Tống Duy Tân là một nhà khoa bảng lớn, đã từng bỏ ấn từ quan trước thái độ hèn nhát đầu hàng Pháp của triều đình nhà Nguyễn. Về Thanh Hóa ông dạy học và mưu tính việc cứu nước. Khi Tôn Thất Thuyết nắm binh quyền liền đưa ông trở lại triều đình tham gia chính sự. Khi chiếu Cần Vương ban ra, ông được vua Hàm Nghi phong làm Chánh sứ sơn phòng Thanh Hóa.
Khi khởi nghĩa Ba Đình thất bại, để thoát khỏi sự truy lùng của Pháp, Tống Duy Tân lánh đi một thời gian. Sau đó về lại Thanh Hóa tập hợp những người yêu nước cũ còn lại như Cao Điển, Tôn Thất Hàm, Cầm Bá Thước… xây dựng lại lực lượng
Nghĩa quân Hùng Lĩnh được tổ chức rất cơ động, mỗi huyện đều có một cơ lính từ 200 người trở lên và lấy tên huyện để gọi, ví dụ như Tống Thanh cơ (Tống Sơn - Thanh Hóa), Nông Thanh cơ (Nông Cống - Thanh Hóa)… Lãnh đạo nghĩa quân còn chủ động đặt mối liên hệ với nghĩa quân ở một số nơi khác .Trong những năm 1889 - 1891, nghĩa quân Hùng Lĩnh đã chiến thắng nhiều trận, chủ yếu là phục kích đánh địch trên đường hành quân
Tháng 5-1892, nghĩa quân Hùng Lĩnh phối hợp với nghĩa quân sông Đà (do Đốc Ngữ chỉ huy) chiến đấu với quân Pháp do Pennơcanh chỉ huy ở Niên Kỷ và giành thắng lợi lớn.
Sau đó, Pháp tăng cường tấn công càn quét vào căn cứ, Tống Duy Tân lãnh đạo nghĩa quân chiến đấu cầm cự được một thời gian nữa. Đến tháng 9-1892, nhận thấy hết phương duy trì cuộc chiến đấu, Tống Duy Tân cho hội quân lại nói rõ tình hình và tuyên bố giải tán quân sĩ, khuyên mọi người trở về quê quán làm ăn, chờ thời cơ và không được cộng tác với giặc. Tống Duy Tân cùng Cao Điển và một số nghĩa quân còn lại trú quân trong một hang núi thuộc huyện Bá Thước
Ngày 3-10-1892, tên việt gian Cao Ngọc Lễ (vốn là học trò cũ của Tống Duy Tân) chỉ điểm cho quân Pháp bắt Cao Điển và Tống Duy Tân. Trong trận đánh trả dữ dội đó, Cao Điển thoát được ra ngoài. Ngày 4-10-1892, Tống Duy Tân bị địch bắt. Pháp cho đóng cũi nhốt ông chở về thị xã Thanh Hóa để mua chuộc. Trong cũi tù ông vẫn ung dung làm thơ. Thất bại trong âm mưu mua chuộc, thực dân Pháp đưa Tống Duy Tân ra chém tại thị xã Thanh Hóa ngày 15-10-1892.
Người dân Thanh Hóa có câu
Vô địa khả mai Cao Ngọc Lễ
Hữu tiền khôn chuộc Tống Duy Tân
Đến đây, cuộc khởi nghĩa Hùng Lĩnh coi như kết thúc.
TỐNG DUY TÂN, NGƯỜI LÃNH ĐẠO
KHỞI NGHĨA HÙNG LĨNH
V? NH
* Một số tài liệu cũ có thể bị lỗi font khi hiển thị do dùng bộ mã không phải Unikey ...
Người chia sẻ: Nguyễn Thành Tuấn
Dung lượng: 925,00KB|
Lượt tài: 1
Loại file: ppt
Nguồn : Chưa rõ
(Tài liệu chưa được thẩm định)