Phẩm bình nhân vật lịch sử (4)
Chia sẻ bởi Trần Thanh Thảo |
Ngày 21/10/2018 |
155
Chia sẻ tài liệu: Phẩm bình nhân vật lịch sử (4) thuộc Bài giảng khác
Nội dung tài liệu:
PHẨM BÌNH NHÂN VẬT LỊCH SỬ
(Trích Đại Việt sử kí toàn thư)
LÊ VĂN HƯU
3. VỀ ĐINH TIÊN HOÀNG
Năm sinh-mất : 924-979
Tên húy : Đinh Bộ Lĩnh (Đinh Hoàn)
Trị vì : 968-979
Triều đại : nhà Đinh
Niên hiệu : Thái Bình
Thuở hàn vi
Đinh Bộ Lĩnh sinh năm 924, nguyên quán động Hoa Lư, châu Đại Hoàng (nay là huyện Hoa Lư, tỉnh Ninh Bình). Cha của ông là Đinh Công Trứ, nha tướng của Dương Đình Nghệ, giữ chức thứ sử Hoan Châu.
Đinh Công Trứ mất sớm, Bộ Lĩnh theo mẹ về quê ở, nương nhờ người chú ruột là Đinh Dự. Từ bé Đinh Bộ Lĩnh đã tỏ ra là người có khả năng chỉ huy, ông cùng các bạn chăn trâu lấy bông lau làm cờ bày trận đánh nhau. Và trong đám bạn đó, có Đinh Điền, Nguyễn Bặc, Lưu Cơ và Trịnh Tú, những người sau này cùng Đinh Bộ Lĩnh tạo nên sự nghiệp.
ĐINH BỘ LĨNH TẬP TRẬN CỜ LAU
Có một giai thoại về Đinh Bộ Lĩnh thuở bé. Một lần Đinh Bộ Lĩnh quyết định cho mổ con trâu của người chú để "khao quân". Ông mang đuôi trâu cắm vào một khe núi. Đến tối Đinh Dự hỏi, Đinh Bộ Lĩnh nói dối trâu vào hang và cửa hang đã bị lấp lại. Đinh Dự tới nơi, rút cái đuôi trâu ra, giận người cháu nói dối nên đuổi đánh. Đinh Bộ Lĩnh bỏ đi mất.
Sách Đại Việt Sử Ký Toàn Thư bản kỉ, quyển 1, có chép:
Trước kia, khi vua Đinh Tiên Hoàng còn hàn vi, thường ra sông Giao Thủy ở Ninh Bình để đánh cá. Có lần kéo lưới, bắt được viên ngọc khuê to, nhưng lại lỡ làm va vào mũi thuyền, khiến bị mẻ mất một góc. Đêm ấy, nhà vua vào ngủ nhờ ở chùa Giao Thủy, để viên ngọc ở dưới đáy giỏ cá. Đang khi nhà vua ngủ say, thấy giỏ cá có ánh sáng lạ phát ra, nhà sư của chùa Giao Thủy bèn gọi Nhà vua dậy để hỏi cho ra duyên cớ. Nhà vua cứ tình thực mà kể, lại còn lấy viên ngọc cho nhà sư xem. Xem xong, nhà sư than rằng: "Ngày sau, anh sẽ phú quý không biết kể thế nào cho hết, nhưng tiếc là phúc đức không được bền lâu..."
Loạn 12 sứ quân
Năm 944 Ngô Quyền mất. Em vợ của Ngô Quyền là Dương Tam Kha tự lập làm vua là Dương Bình Vương. Các nơi không chịu thuần phục, nhiều thủ lĩnh nổi lên cát cứ một vùng thường đem quân đánh chiếm lẫn nhau. Năm 950, Ngô Xương Văn, con thứ hai của Ngô Quyền, lật đổ Dương Tam Kha giành lại ngôi vua. Sau đó Ngô Xương Văn đón anh trai là Ngô Xương Ngập về, Dương Thái Hậu chuẩn tấu cả hai anh em đều làm vua. Đến năm 954, Ngô Xương Ngập bệnh mất.
Năm 965, Ngô Xương Văn đi đánh thôn Đường và Nguyễn ở Thái Bình bị phục binh bắn chết. Con của Ngô Xương Ngập là Ngô Xương Xí nối nghiệp, quá suy yếu phải về đóng giữ đất Bình Kiều. Từ năm 966, hình thành 12 sứ quân, sử gọi là loạn 12 sứ quân:
Ngô Xương Xí giữ Bình Kiều - Khoái Châu, Hưng Yên (có sách nói Bình Kiều ở Triệu Sơn, Thanh Hoá. Ngay cả Đào Duy Anh, trong cuốn Đất nước Việt Nam qua các đời, chỉ trong 2 trang sách liền kề cũng chú thích Bình Kiều ở hai nơi khác nhau như trên)
Đỗ Cảnh Thạc, giữ Đỗ Động Giang - Thanh Oai, Hà Tây
Trần Lãm, giữ Bố Hải Khẩu - Kỳ Bố, Thái Bình
Kiều Công Hãn, giữ Phong Châu - Bạch Hạc, Phú Thọ
Nguyễn Khoan, giữ Tam Đái - Vĩnh Tường, Sơn Tây
Ngô Nhật Khánh, giữ Đường Lâm - Phú Thọ, Sơn Tây
Lý Khuê, giữ Siêu Loại - Thuận Thành, Bắc Ninh
Nguyễn Thủ Tiệp, giữ Tiên Du - Bắc Ninh
Lã Đường, giữ Tế Giang - Văn Giang, Hưng Yên
Nguyễn Siêu, giữ Tây Phù Liệt - Thanh Trì, Hà Nội
Kiều Thuận, giữ Hồi Hồ - Cẩm Khê, Sơn Tây
Phạm Bạch Hổ, giữ Đằng Châu - Hưng Yên
Đinh Bộ Lĩnh cũng tập hợp dân chúng ở vùng Hoa Lư. Nhưng sau đó, do bất hòa với người chú, ông cùng con trai là Đinh Liễn bỏ đi. Đinh Bộ Lĩnh đầu quân trong đạo binh của sứ quân Trần Minh Công tức Trần Lãm ở Bố Hải Khẩu. Đinh Bộ Lĩnh cưới Trần Nương và trở thành con rể của Trần Minh Công. Sau khi Trần Minh Công mất, Đinh Bộ Lĩnh thay quyền, đưa quân về Hoa Lư, chiêu mộ binh lính, chống nhà Ngô và các sứ quân khác.
Chỉ trong vài năm, Đinh Bộ Lĩnh lần lượt đánh thắng 11 sứ quân khác, được xưng tụng là Vạn Thắng vương. Căn cứ vào chính sử và các nguồn tài liệu của các nhà nghiên cứu, điển hình là Nguyễn Danh Phiệt (sách "Nhà Đinh dẹp loạn và dựng nước"), Đinh Bộ Lĩnh không đánh dẹp tất cả các sứ quân:
Sứ quân Phạm Bạch Hổ tự nguyện về quy phục
Các sứ quân Ngô Xương Xí và Ngô Nhật Khánh đầu hàng
Các sứ quân Nguyễn Siêu, Nguyễn Thủ Tiệp, Kiều Công Hãn, Lã Đường, Kiều Thuận, Đỗ Cảnh Thạc chống cự và bị giết
Các sứ quân Nguyễn Khoan, Lý Khuê được xác định là lực lượng tự tan rã, không rõ kết cục của chủ tướng. Chiến tranh kết thúc năm 968.
Năm Mậu Thìn 968, Đinh Bộ Lĩnh lên ngôi Hoàng đế, tự xưng là Đại Thắng Minh Hoàng đế, đặt quốc hiệu là Đại Cồ Việt, đóng đô ở Hoa Lư.
Đinh Tiên Hoàng xây cung điện, chế triều nghi, định phẩm hàm quan văn, quan võ, phong cho Nguyễn Bặc là Đinh Quốc công, Lê Hoàn làm Thập Đạo tướng quân và phong cho con là Đinh Liễn là Nam Việt vương.
Từ năm Canh Ngọ 970, bắt đầu đặt hiệu năm là Thái Bình. Đinh Tiên Hoàng truyền cho đúc tiền đồng, là tiền tệ xưa nhất ở Việt Nam, gọi là tiền đồng Thái Bình. Về chính trị trong nước có phần quá thiên về sử dụng hình phạt nghiêm khắc.
Về ngoại giao, để tránh cuộc đụng độ, năm Nhâm Thân 972[5], Đinh Tiên Hoàng sai con là Đinh Liễn sang cống nhà Tống Trung Quốc. Vua nhà Tống sai sứ sang phong cho Tiên Hoàng làm Giao Chỉ quận vương và phong cho Nam Việt vương Đinh Liễn làm Tĩnh Hải quân Tiết độ sứ An Nam đô hộ. Từ đó Đại Cồ Việt giữ lệ sang triều cống phương Bắc.
Về quân sự, Đinh Tiên Hoàng phân ra đạo, quân, lữ, tốt, ngũ. Mỗi một đạo có 10 quân, 1 quân 10 lữ, 1 lữ 10 tốt, 1 tốt 10 ngũ, 1 ngũ 10 người. Như vậy quân đội nhà Đinh khi đó có 10 đạo, là khoảng 1 triệu người. Tuy nhiên con số này không đúng với thực tế.
Đinh Tiên Hoàng có con trưởng là Đinh Liễn, những ông lại lập con út Hạng Lang làm Thái tử. Vì vậy đầu năm 979 Đinh Liễn tức giận sai người giết Hạng Lang.
Theo sử sách cũ, năm Kỷ Mão 979, một viên quan là Đỗ Thích, mơ thấy sao rơi vào miệng, tưởng là điềm báo được làm vua nên đã giết chết cả Đinh Tiên Hoàng và Đinh Liễn. Đinh Tiên Hoàng làm vua được 11 năm, thọ 56 tuổi.
Nhà sử học Lê Văn Hưu viết trong Đại Việt sử ký toàn thư: "Tiên Hoàng nhờ có tài năng sáng suốt hơn người, dũng cảm mưu lược nhất đời, đương lúc nước Việt ta không có chủ, các hùng trưởng cát cứ, một phen cất quân mà mười hai sứ phục hết. Vua mở nước dựng đô, đổi xưng Hoàng Đế, đặt trăm quan, lập sáu quân, chế độ gần đầy đủ, có lẽ ý Trời vì nước Việt ta mà sinh bậc thánh triết..."
(Trích Đại Việt sử kí toàn thư)
LÊ VĂN HƯU
3. VỀ ĐINH TIÊN HOÀNG
Năm sinh-mất : 924-979
Tên húy : Đinh Bộ Lĩnh (Đinh Hoàn)
Trị vì : 968-979
Triều đại : nhà Đinh
Niên hiệu : Thái Bình
Thuở hàn vi
Đinh Bộ Lĩnh sinh năm 924, nguyên quán động Hoa Lư, châu Đại Hoàng (nay là huyện Hoa Lư, tỉnh Ninh Bình). Cha của ông là Đinh Công Trứ, nha tướng của Dương Đình Nghệ, giữ chức thứ sử Hoan Châu.
Đinh Công Trứ mất sớm, Bộ Lĩnh theo mẹ về quê ở, nương nhờ người chú ruột là Đinh Dự. Từ bé Đinh Bộ Lĩnh đã tỏ ra là người có khả năng chỉ huy, ông cùng các bạn chăn trâu lấy bông lau làm cờ bày trận đánh nhau. Và trong đám bạn đó, có Đinh Điền, Nguyễn Bặc, Lưu Cơ và Trịnh Tú, những người sau này cùng Đinh Bộ Lĩnh tạo nên sự nghiệp.
ĐINH BỘ LĨNH TẬP TRẬN CỜ LAU
Có một giai thoại về Đinh Bộ Lĩnh thuở bé. Một lần Đinh Bộ Lĩnh quyết định cho mổ con trâu của người chú để "khao quân". Ông mang đuôi trâu cắm vào một khe núi. Đến tối Đinh Dự hỏi, Đinh Bộ Lĩnh nói dối trâu vào hang và cửa hang đã bị lấp lại. Đinh Dự tới nơi, rút cái đuôi trâu ra, giận người cháu nói dối nên đuổi đánh. Đinh Bộ Lĩnh bỏ đi mất.
Sách Đại Việt Sử Ký Toàn Thư bản kỉ, quyển 1, có chép:
Trước kia, khi vua Đinh Tiên Hoàng còn hàn vi, thường ra sông Giao Thủy ở Ninh Bình để đánh cá. Có lần kéo lưới, bắt được viên ngọc khuê to, nhưng lại lỡ làm va vào mũi thuyền, khiến bị mẻ mất một góc. Đêm ấy, nhà vua vào ngủ nhờ ở chùa Giao Thủy, để viên ngọc ở dưới đáy giỏ cá. Đang khi nhà vua ngủ say, thấy giỏ cá có ánh sáng lạ phát ra, nhà sư của chùa Giao Thủy bèn gọi Nhà vua dậy để hỏi cho ra duyên cớ. Nhà vua cứ tình thực mà kể, lại còn lấy viên ngọc cho nhà sư xem. Xem xong, nhà sư than rằng: "Ngày sau, anh sẽ phú quý không biết kể thế nào cho hết, nhưng tiếc là phúc đức không được bền lâu..."
Loạn 12 sứ quân
Năm 944 Ngô Quyền mất. Em vợ của Ngô Quyền là Dương Tam Kha tự lập làm vua là Dương Bình Vương. Các nơi không chịu thuần phục, nhiều thủ lĩnh nổi lên cát cứ một vùng thường đem quân đánh chiếm lẫn nhau. Năm 950, Ngô Xương Văn, con thứ hai của Ngô Quyền, lật đổ Dương Tam Kha giành lại ngôi vua. Sau đó Ngô Xương Văn đón anh trai là Ngô Xương Ngập về, Dương Thái Hậu chuẩn tấu cả hai anh em đều làm vua. Đến năm 954, Ngô Xương Ngập bệnh mất.
Năm 965, Ngô Xương Văn đi đánh thôn Đường và Nguyễn ở Thái Bình bị phục binh bắn chết. Con của Ngô Xương Ngập là Ngô Xương Xí nối nghiệp, quá suy yếu phải về đóng giữ đất Bình Kiều. Từ năm 966, hình thành 12 sứ quân, sử gọi là loạn 12 sứ quân:
Ngô Xương Xí giữ Bình Kiều - Khoái Châu, Hưng Yên (có sách nói Bình Kiều ở Triệu Sơn, Thanh Hoá. Ngay cả Đào Duy Anh, trong cuốn Đất nước Việt Nam qua các đời, chỉ trong 2 trang sách liền kề cũng chú thích Bình Kiều ở hai nơi khác nhau như trên)
Đỗ Cảnh Thạc, giữ Đỗ Động Giang - Thanh Oai, Hà Tây
Trần Lãm, giữ Bố Hải Khẩu - Kỳ Bố, Thái Bình
Kiều Công Hãn, giữ Phong Châu - Bạch Hạc, Phú Thọ
Nguyễn Khoan, giữ Tam Đái - Vĩnh Tường, Sơn Tây
Ngô Nhật Khánh, giữ Đường Lâm - Phú Thọ, Sơn Tây
Lý Khuê, giữ Siêu Loại - Thuận Thành, Bắc Ninh
Nguyễn Thủ Tiệp, giữ Tiên Du - Bắc Ninh
Lã Đường, giữ Tế Giang - Văn Giang, Hưng Yên
Nguyễn Siêu, giữ Tây Phù Liệt - Thanh Trì, Hà Nội
Kiều Thuận, giữ Hồi Hồ - Cẩm Khê, Sơn Tây
Phạm Bạch Hổ, giữ Đằng Châu - Hưng Yên
Đinh Bộ Lĩnh cũng tập hợp dân chúng ở vùng Hoa Lư. Nhưng sau đó, do bất hòa với người chú, ông cùng con trai là Đinh Liễn bỏ đi. Đinh Bộ Lĩnh đầu quân trong đạo binh của sứ quân Trần Minh Công tức Trần Lãm ở Bố Hải Khẩu. Đinh Bộ Lĩnh cưới Trần Nương và trở thành con rể của Trần Minh Công. Sau khi Trần Minh Công mất, Đinh Bộ Lĩnh thay quyền, đưa quân về Hoa Lư, chiêu mộ binh lính, chống nhà Ngô và các sứ quân khác.
Chỉ trong vài năm, Đinh Bộ Lĩnh lần lượt đánh thắng 11 sứ quân khác, được xưng tụng là Vạn Thắng vương. Căn cứ vào chính sử và các nguồn tài liệu của các nhà nghiên cứu, điển hình là Nguyễn Danh Phiệt (sách "Nhà Đinh dẹp loạn và dựng nước"), Đinh Bộ Lĩnh không đánh dẹp tất cả các sứ quân:
Sứ quân Phạm Bạch Hổ tự nguyện về quy phục
Các sứ quân Ngô Xương Xí và Ngô Nhật Khánh đầu hàng
Các sứ quân Nguyễn Siêu, Nguyễn Thủ Tiệp, Kiều Công Hãn, Lã Đường, Kiều Thuận, Đỗ Cảnh Thạc chống cự và bị giết
Các sứ quân Nguyễn Khoan, Lý Khuê được xác định là lực lượng tự tan rã, không rõ kết cục của chủ tướng. Chiến tranh kết thúc năm 968.
Năm Mậu Thìn 968, Đinh Bộ Lĩnh lên ngôi Hoàng đế, tự xưng là Đại Thắng Minh Hoàng đế, đặt quốc hiệu là Đại Cồ Việt, đóng đô ở Hoa Lư.
Đinh Tiên Hoàng xây cung điện, chế triều nghi, định phẩm hàm quan văn, quan võ, phong cho Nguyễn Bặc là Đinh Quốc công, Lê Hoàn làm Thập Đạo tướng quân và phong cho con là Đinh Liễn là Nam Việt vương.
Từ năm Canh Ngọ 970, bắt đầu đặt hiệu năm là Thái Bình. Đinh Tiên Hoàng truyền cho đúc tiền đồng, là tiền tệ xưa nhất ở Việt Nam, gọi là tiền đồng Thái Bình. Về chính trị trong nước có phần quá thiên về sử dụng hình phạt nghiêm khắc.
Về ngoại giao, để tránh cuộc đụng độ, năm Nhâm Thân 972[5], Đinh Tiên Hoàng sai con là Đinh Liễn sang cống nhà Tống Trung Quốc. Vua nhà Tống sai sứ sang phong cho Tiên Hoàng làm Giao Chỉ quận vương và phong cho Nam Việt vương Đinh Liễn làm Tĩnh Hải quân Tiết độ sứ An Nam đô hộ. Từ đó Đại Cồ Việt giữ lệ sang triều cống phương Bắc.
Về quân sự, Đinh Tiên Hoàng phân ra đạo, quân, lữ, tốt, ngũ. Mỗi một đạo có 10 quân, 1 quân 10 lữ, 1 lữ 10 tốt, 1 tốt 10 ngũ, 1 ngũ 10 người. Như vậy quân đội nhà Đinh khi đó có 10 đạo, là khoảng 1 triệu người. Tuy nhiên con số này không đúng với thực tế.
Đinh Tiên Hoàng có con trưởng là Đinh Liễn, những ông lại lập con út Hạng Lang làm Thái tử. Vì vậy đầu năm 979 Đinh Liễn tức giận sai người giết Hạng Lang.
Theo sử sách cũ, năm Kỷ Mão 979, một viên quan là Đỗ Thích, mơ thấy sao rơi vào miệng, tưởng là điềm báo được làm vua nên đã giết chết cả Đinh Tiên Hoàng và Đinh Liễn. Đinh Tiên Hoàng làm vua được 11 năm, thọ 56 tuổi.
Nhà sử học Lê Văn Hưu viết trong Đại Việt sử ký toàn thư: "Tiên Hoàng nhờ có tài năng sáng suốt hơn người, dũng cảm mưu lược nhất đời, đương lúc nước Việt ta không có chủ, các hùng trưởng cát cứ, một phen cất quân mà mười hai sứ phục hết. Vua mở nước dựng đô, đổi xưng Hoàng Đế, đặt trăm quan, lập sáu quân, chế độ gần đầy đủ, có lẽ ý Trời vì nước Việt ta mà sinh bậc thánh triết..."
* Một số tài liệu cũ có thể bị lỗi font khi hiển thị do dùng bộ mã không phải Unikey ...
Người chia sẻ: Trần Thanh Thảo
Dung lượng: |
Lượt tài: 4
Loại file:
Nguồn : Chưa rõ
(Tài liệu chưa được thẩm định)