NUÔI KỲ NHÔNG

Chia sẻ bởi Võ Phương Thảo | Ngày 23/10/2018 | 38

Chia sẻ tài liệu: NUÔI KỲ NHÔNG thuộc Bài giảng khác

Nội dung tài liệu:

BÁO CÁO CHUYÊN ĐỀ NUÔI KỲ NHÔNG
Leiolepis belliana Gray
Kỹ thuật nuôi Kỳ Nhông


Giáo viên hướng dẫn:
Võ Văn Toàn
Võ Minh Thứ

Các thành viên thực hiện


Hà Xuân Nam
Lê Đặng Công Toại
Nguyễn Thị Thu
Võ Công Mỹ
Sơ lược về Kỳ Nhông
Tên gọi: Tên Việt Nam gọi là nhông, nhông có nhiều giống, nhông vùng đất gọi là nhông cát benly.
Nhông cát (Leiolepis belliana Gray) tên khác là dông cát, nhông biển, nhông cát sử nữ sinh... là một loài bò sát giống thằn lằn. Thân hơi dẹt, chân mảnh, lưng nhẵn bóng, có vảy nhỏ, bụng màu nhạt có vảy lớn hơn. Đuôi dài, thuôn nhọn. Da có màu sắc biến đổi tùy lúc. Nhông cát có loại to gọi là nhông thềm và loại nhỏ bằng ngón tay là nhông que. Nhông con được gọi là nhông cắc ké. Nhông cát chỉ có ở các tỉnh miền Trung và là đặc sản từ Quảng Trị đến Bình Thuận. Loài này sống ở những cồn cát dọc bờ.
 
Vóc dáng:

Giống nhông này có đặc điểm là có các đốm nhỏ trên lưng không liền nhau để tạo ra một mạng lưới hoặc những đường dọc và dọc theo hông có các vệt lớn màu đen, cam

Tập tính sinh hoạt và môi trường sống:

Loài bò sát rất đẹp này thường ra khỏi hang để sưởi ấm vào buổi sáng để điều hoà nhiệt độ cơ thể (chúng thuộc loài máu lạnh), tìm thức ăn và gây ấn tượng đối với các con cái xung quanh cả ngày, rồi rút vô hang vào xế chiều, đóng cửa hang lại bằng cát.
Kỳ nhông sống và làm tổ trên đất cát, từ khi còn nhỏ cho tới khi thành phẩm khoảng 8-10 tháng. Kỳ nhông ăn lá cây, rau quả, nụ hoa quả và chồi cây, ngoài ra chúng còn ăn trứng bọ cánh cứng, bướm và các côn trùng khác như sâu, giun. . . uống nước it, phân không đáng kể, môi trường sống tự nhiên không có dịch bệnh, ít tốn công chăm sóc. Đặc biệt, chúng leo trèo rất giỏi và có thể nhảy xa cả mét từ cành cây này sang cây khác.
Thức ăn:

Thức ăn cửa kỳ nhông chủ yếu là thực vật, lá cây, rau, quả, nụ hoa quả và chồi cây, ngoài ra chúng còn ăn lông bọ cánh cứng, bướm và các côn trùng khác như sâu, giun . . .

Sinh trưởng, phát triển và sinh sản:

Kỳ nhông đến tuổi trưởng thành thì bắt đầu đẻ trứng. Con cái đẻ 3- 8 trứng trong hang vào mùa nóng và khô; sau các cơn mưa lớn đầu mùa, nhông con nở ra, có sọc và đuôi màu đỏ nhạt. Nhông con mới nở sống chung hang với mẹ trong nhiều tháng trước khi tự đào hang riêng ở gần đó.
Trong chăn nuôi nhân tạo, trứng kỳ nhông sau khi đẻ ra phải có đủ độ ẩm mới nở ra con. Thực tế cho thấy, trứng đẻ dưới đất thì  nở ra con, còn những trứng đẻ ở trên sàn thì chết khô do thiếu ẩm.
Giá trị và thị trường:

Kỳ nhông nói riêng và côn trùng nói chung như bọ xít, bọ cạp, bọ hung, sâu đục thân, kiến, dế mèn... là những loại côn trùng phổ biến trên các loại cây trồng, chỉ cần nghe tên thôi cũng làm cho nhiều người "ghê sợ". Thế nhưng, trong những nghiên cứu mới đây, các nhà khoa học đã phát hiện ra rằng côn trùng có rất nhiều tác dụng bổ ích đối với con người, đặc biệt có thể sử dụng chúng như những món ăn thuộc hàng "đặc sản" với những tác dụng như "cải lão hoàn đồng"...
Tương tự, một số loài khác cũng có thể chế biến thành những món ăn ngon như món dế mèn pha áu trừng, sâu chít ngâm rượu, bột vỏ xác ve sầu, bọ hung hại rễ cây nướng. Đặc biệt nhất là món trứng kiến với tác dụng "cái lão hoàn đồng" (giữ da đẹp, người trẻ lâu). Từ trứng kiến có thể chế biến thành các món ăn độc đáo như xôi trứng kiến, bánh kim cương, mướp đắng xào trứng kiến...
Giá trị và thị trường:

ở Việt Nam, đến nay các nhà khoa học đã tìm ra và xác định được ít nhất 19 loài côn trùng có thể dùng làm thực phẩm và thuốc chữa bệnh, đặc biệt là loài bọ cạp. Theo PGS -TS. Lê Xuân Huệ - Viện Sinh thái và Tài nguyên sinh vật: "Nếu chế biến nọc bọ cạp thành dạng bột hoặc đem ngâm với rượu sẽ có tác dụng trị được rất nhiều bệnh, đặc biệt là các bệnh liên quan tới thần kinh, bán thân bất toại (vì trong nọc của bọ cạp có các chất chống độc). Ngoài việc bào chế thành thuốc, cũng có thể ngâm bọ cạp với cồn, thêm một ít dầu nóng có thể chữa các bệnh sưng tấy, trẹo xương, viêm khớp, các vết bầm tím do ngã, bỏng nước sôi... (tương đương với mật gấu), nhưng giá rẻ hơn nhiều hoặc ngâm với rượu tạo ra một loại rượu bổ quý hiếm...
Hiện nay, thịt kỳ nhông đang là món "đặc sản" được các nhà hàng, quán nhậu tiêu thụ rất mạnh.  Một con kỳ nhông thành phẩm nặng khoảng 100g bán giá 8.000 đồng, khi chế biến thành món ăn có thể bán hơn 30.000 đồng. Chế biến cũng tương tự như rắn, bỏ đầu, ruột và các bàn chân là được. Thịt kỳ nhông trắng, ăn có mùi thơm như thịt thỏ nhưng xương giòn hơn.
Tầm quan trọng của Kỳ Nhông
Là một nghề mới đầy triển vọng
Lợi ích kinh tế cao
Giá trị dinh dưỡng cao
Ứng dụng trong y học
Giống:

Phong trào nuôi kỳ nhông phát triển mạnh cũng đặt ra vấn đề cung cấp giống cho hộ nuôi. Nếu mua từ Bình Thuận, giá 1 kg giống loại 60 con /kg là 100.000 đồng. Các hộ nuôi hiện thường mua của những người đi bắt kỳ nhông tại bán đảo Cam Lập giá 50.000 đ/kg. Tuy nhiên, loại này bắt trong tự nhiên nên không thuần nhất, có con đã lớn, con còn nhỏ, trung bình 1 kg kỳ nhông chỉ khoảng 30 con. Muốn mua lại phải dặn trước và chờ, 1 ngày người đi bắt chỉ có thể cung cấp 5-10 kg nên nếu thả 100 kg giống phải thả nhiều lần mất cả tháng. Kỳ nhông có khả năng sinh sản trong điều kiện nuôi nhốt nên thường các hộ chỉ thả giống ban đầu, còn sau đó tự gây giống để duy trì và phát triển đàn.
Thức ăn:

Thức ăn chủ yếu của kỳ nhông là thực vật, lá cây, rau, quả, nụ hoa quả và chồi cây, ngoài ra chúng còn ăn trứng bọ cánh cứng, bướm và các côn trùng khác như sâu, giun...
Nguồn thức ăn "bình dân" này rất dễ kiếm, dễ đáp ứng. Điều này, tạo ra công ăn việc làm cho một số hộ gia đình, đồng thời phòng tránh được sâu rầy phá hoại mùa màng...
Chuồng nuôi, hồ nuôi
Việc làm chuồng cho kỳ nhông nói riêng và côn trùng nói chung không hề đơn giản, mỗi loại thú đều có cách thiết kế riêng nhưng tựu trung lại là chuồng phải luôn có cây xanh, ánh nắng, hồ nước, cát… như môi trường tự nhiên.
Hồ nuôi kỳ nhông được xây tường rào xung quanh cao 1,2m, bên trên có viền tô láng khoảng 30cm để kỳ nhông không bò ra ngoài. Đáy hồ được lót gạch, để chừa khe hở giữa các viên gạch từ 3-6cm cho nước rút, bên trên đổ cát dày 0,6- 0, 7m cho kỳ nhông làm tổ. Có thể trồng cây hoặc dựng chòi nhỏ bên trong tạo bóng mát nhưng phải cách tường rào hơn 1m để phòng chống kỳ nhông nhảy ra ngoài.
Chăm sóc nuôi dưỡng:

Chăm sóc nuôi dưỡng kỳ nhông rát đơn giản, chủ yếu canh giữ là chính, buổi sáng ra chợ xin hoặc mua rau, quả... về bỏ vào chuồng cho chúng ăn và phun nước tạo ẩm đất cát là xong.
Kỳ nhông sống và làm tổ trên đất cát, từ khi còn nhỏ cho tới khi  thành phẩm khoảng 8-10 tháng. Kỳ nhông ăn lá cây, rau, quả, nụ hoa quả và chồi cây, ngoài ra chúng còn ăn trứng bọ cánh cứng, bướm và các côn trùng khác như sâu, giun... uống nước ít, phân không đáng kể, môi trường sống tự nhiên không có dịch bệnh, ít tốn công chăm sóc.
Nuôi kỳ nhông đơn giản, ít vốn, ít dịch bệnh, mang lại hiệu quả kinh tế cao và an toàn dịch bệnh, trong khi công lao động không cần nhiều, thị trường đang hút hàng...
Phòng trị bệnh:
Kỳ nhông là loài bò sát có sức đề kháng rất tốt. Tuy nhiên cần lưu ý thường xuyên vệ sinh chuồng trại sạch sẽ, thức ăn phải khô ráo không bị ẩm ướt.
Thu hoạch:
Lứa đầu từ khi thả giống tới lúc thu hoạch khoảng 6-7 tháng, trọng lượng đạt 0,5kg/con trở lên. Giá bán sỉ hiện nay khoảng 240.000đ – 250.000đ/kg.
Các món ăn từ Nhông
  Hầu hết ở các bãi biển Quảng Ngãi ai cũng biết các món ăn được chế biến từ thịt nhông là những món rất ngon, lạ, hấp dẫn và là những món không thể thiếu trên bàn của dân "sành" nhậu.


Các món ăn
Nhông nướng chà là
Các món ăn
Nhông nướng
Các món ăn
Nem nhông
Các món ăn
Cháo nhông
Ảnh minh họa
NHONG CAT
* Một số tài liệu cũ có thể bị lỗi font khi hiển thị do dùng bộ mã không phải Unikey ...

Người chia sẻ: Võ Phương Thảo
Dung lượng: | Lượt tài: 0
Loại file:
Nguồn : Chưa rõ
(Tài liệu chưa được thẩm định)