Nước Mĩ sau 1945

Chia sẻ bởi Nguyễn Tiến Dũng | Ngày 27/04/2019 | 79

Chia sẻ tài liệu: Nước Mĩ sau 1945 thuộc Bài giảng khác

Nội dung tài liệu:

NƯỚC MỸ TỪ SAU 1945
1. Giai đoạn 1945 - 1973
a. Kinh tế, khoa học - kỹ thuật
b. Chính trị - xã hội
2. Giai đoạn 1973 – nay
a. Kinh tế, khoa học kỹ thuật
b. Chính trị - xã hội
1. Giai đoạn 1945 – 1973
a. Kinh tế - khoa học kỹ thuật.
Sù ph¸t triÓn kinh tÕ - tµi chÝnh.
Sau ChiÕn tranh thÕ giíi lÇn thø hai, MÜ trë thµnh c­êng quèc kinh tÕ cña thÕ giíi.
VÒ tµi chÝnh.
ChiÕn tranh thÕ giíi lÇn thø hai ®· mang l¹i cho MÜ 114 tØ ®«la lîi nhuËn nhê bu«n b¸n vò khÝ, gióp MÜ trë thµnh trung t©m tµi chÝnh cña c¸c n­íc t­ b¶n chñ nghÜa.
Sau chiÕn tranh, MÜ lµ n­íc chñ nî duy nhÊt trªn thÕ giíi, cã khèi l­îng vµng dù tr÷ lín nhÊt thÕ giíi, chiÕm gÇn 3/4 khèi l­îng vµng cña thÕ giíi t­ b¶n (n¨m 1949: gÇn 25 tØ ®«la).
VÒ kinh tÕ, n­íc MÜ cã mét nÒn c«ng nghiÖp vµ n«ng nghiÖp ph¸t triÓn cao.
1. Giai đoạn 1945 – 1973
Sản lượng công nghiệp Mĩ chiếm hơn 1/2 tổng sản lượng công nghiệp của thế giới tư bản (năm 1948:56%), mức tăng bình quân hằng năm là 24%(so với năm những năm 1935 - 1939).
Sản lượng nông nghiệp gấp 2 lần sản lượng của Anh, Pháp CHLB Đức, Italia và Nhật Bản cộng lại (1949), mức tăng bình quân hằng năm là 27% (so với năm những năm 1935 - 1939)
Tổng sản phẩm quốc dân năm 1950 đạt 340 tỉ đôla, năm 1968 đạt 833 tỉ đôla. Nước Mĩ nắm 1/2 số tàu thuyền đi biển của thế giới.
Đặc điểm của sự phát triển kinh tế Mĩ.
Đây là một nền kinh tế "quân sự hóa cao độ", phát triển nhờ vào chiến tranh: công nghiệp chiến tranh chiếm 20% tổng sản lượng công nghiệp.
1. Giai đoạn 1945 – 1973
Kinh tế Mĩ không khắc phục được mâu thuẫn cơ bản của nền kinh tế tư bản chủ nghĩa, đó là mâu thuẫn giữa khả năng sản xuất to lớn nhằm chạy theo lợi nhuận và khả năng tiêu thụ bị hạn chế do đời sống nhân dân không phát triển tương xứng với sự phát triển của sản xuất.
Kinh tế Mĩ phát triển không ổn định, trải qua nhiều cuộc suy thoái, khủng hoảng: 1945 - 1946; 1953 - 1954; 1957 - 1958; 1960 - 1961; 1964 - 1965; 1969 - 1970, 1971, 1973...
Kinh tế Mĩ ngày càng chịu sự cạnh tranh gay gắt của Tây Âu và Nhật Bản. D?a v? uu th? c?a M? m?t d?n: Nam 1974, d? tr? v�ng c?a M? ch? cũn 11,6 t? USD, cụng nghi?p nam 1973 ch? cũn 39,8% s?n lu?ng cụng nghi?p c?a to�n th? gi?i...
Sự phát triển của khoa học - kỹ thuật.
Mĩ là nước đạt được nhiều thành tựu to lớn nhất trong lĩnh vực phát triển khoa học - kĩ thuật.
Mĩ là nước đã khởi đầu cuộc cách mạng khoa học - kỹ thuật lần thứ hai của toàn nhân loại.
1. Giai đoạn 1945 – 1973
Mĩ là một trong những nước đi đầu trong việc sáng tạo ra những công cụ sản xuất mới (như: máy tính, máy tự động, hệ thống máy tự động...), những vật liệu mới, tạo ra những cuộc cách mạng trong giao thông v?n t?i, thông tin liên lạc, trong khoa học chinh phục vũ trụ...
Nam 1945, M? ti?n h�nh ch? t?o v� th? th? nghi?m th�nh cụng bom nguyờn t?. Ng�y 20-2-1962, Johnn Glenn tr? th�nh nh� vu tr? d?u tiờn c?a M? bay v�o vu tr?. Ti?p dú, Ng�y 20 - 7- 1969, Neil A. Amstrong v� Edwin Aldrin dó thỏm hi?m m?t trang t? con t�u vu tr? Apollo, du?c d?t tờn l� Eagle.
Nguyên nhân phát triển.
V? kinh t?.
Điều kiện tự nhiên thuận lợi, d?t dai r?ng, phỡ nhiờu, t�i nguyờn phong phỳ.
Điều kiện lịch sử:Mĩ không bị chiến tranh tàn phá mà ngược lại còn thu lợi rất nhiều nhờ các cuộc chiến tranh, chẳng hạn như việc buôn bán vũ khí, các phương tiện chiến tranh, công nghiệp chiến tranh... Mĩ được hưởng lợi nhiều từ trật tự Ianta, nhờ vậy có thị trường rộng lớn.
1. Giai đoạn 1945 – 1973
Mĩ là quê hương của cuộc cách mạng khoa học - kỹ thuật lầ thứ hai của nhân loại. Đây là điều kiện quan trọng nhất cho sự phát triển kinh tế. Ngược lại, sự phát triển kinh tế là điều kiện để khoa học kỹ thuật phát triển, đây là lĩnh vực đầu tư cần số vốn lớn nhất và chậm có lãi.
Đặc biệt, trước và trong Chiến tranh thế giới lần thứ hai, nhiều nhà khoa học hàng đầu của thế giới đã sang Mĩ sinh sống.
Trình độ tập trung sản xuất và tư bản ở Mĩ rất cao. So v?i tru?c chi?n tranh cỏc cụng ty d?c quy?n c?a M? cú qui mụ l?n v� ph?c t?p hon nhi?u. Vớ d?: Cụng ty General Motor cú doanh thu 27 t? USD v?i s? cụng nhõn viờn ch?c l� 70 v?n ngu?i, cú co s? ? 42 nu?c trờn th? gi?i.
1. Giai đoạn 1945 – 1973
Về khoa học - kỹ thuật.
Nhờ có nguồn vốn lớn đầu tư vào lĩnh vực khoa học - kỹ thuật, bởi vì đây là lĩnh vực cần nhiều vốn đầu tư, lãi cao nhưng vòng quay vốn chậm.
Môi trường thuận lợi cho phát triển khoa học - kỹ thuật: cơ sở vật chất, phòng thí nghiệm, chính sách, pháp luật…
Trong Chiến tranh thế giới lần thứ hai, rất nhiều nhà khoa học lỗi lạc trên thế giới đã chạy sang Mỹ, vì ở đây có điều kiện hòa bình và những phương tiện đầy đủ nhất để làm việc.
1. Giai đoạn 1945 – 1973
b. Chính trị - xã hội.
Đặc điểm của nền chính trị Mỹ.
Sau Chiến tranh, sự tập trung sản xuất và TB ở Mỹ rất cao. Có khoảng 10 tập đoàn tài chính lớn khống chế toàn bộ nền kinh tế, tài chính của Mỹ (Morgan, Rockfeller…). Vì thế, ở Mỹ đã hình thành nên liên minh chặt chẽ giữa giới công nghiệp và giới quân sự, giữa trùm tư bản lũng đoạn với Lầu năm góc và Chính phủ Mỹ nói chung. Điều này đã quyết định chính sách hiếu chiến và xâm lược của Mỹ, nó chứng tỏ rằng CNTB Mỹ là CNTB lũng đoạn nhà nước.
Nền dân chủ của Mỹ dựa trên chế độ hai đảng cầm quyền mà thực chất đây là hai đảng của giai cấp tư sản Mỹ, do đó nó chỉ là dân chủ về hình thức.
Trên thực tế, các tổng thống Mỹ đều là người của hai đảng Dân chủ và Cộng hòa: 1945 – 1953, Truman (Dân chủ), 1953 – 1961, Aixenhao (Cộng hòa), 1961 – 1963, Kenơđi (Dân chủ), 1963 – 1969, Giônxơn (Dân chủ), 1969 – 1974, Nixơn (Cộng hòa).
1. Giai đoạn 1945 – 1973
Chính phủ Mỹ luôn tìm cách kìm hãm nhân dân Mỹ thành lập chính đảng thứ ba có thể gây nguy hại cho sự tồn tại của chế độ tư bản. Chẳng hạn như năm 1947, Chính phủ Mỹ thông qua Đạo luật Taft-Hartley (Taft-Hartley Act), cấm công nhân tham gia công đoàn, tiến hành bãi công hoặc các hoạt động mang tính tập thể (Mãi đến những năm 70 công nhân Mỹ vẫn đấu tranh đòi bãi bỏ Đạo luật này).
Chế độ chính trị của Mỹ là chế độ tổng thống. Tổng thống là người do các tập đoàn tài chính và tổ hợp quân sự - công nghiệp cử ra. Tổng thống có quyền hành lớn, nắm cả bộ máy hành pháp và quân sự (Kiêm tổng tư lện quân đội). Các bộ trưởng chỉ là người giúp việc cho Tổng thống. Mỗi tổng thống có chính sách cụ thể khác nhau nhưng đều có điểm chung là bảo vệ quyền lợi cho giai cấp tư sản Mỹ, chống lại cách mạng.
1. Giai đoạn 1945 – 1973
Chính sách thống trị của tư bản Mỹ hết sức phản động:
Dưới thời Truman, chính quyền Mỹ đã đưa ra gần 200 đạo luật, trong đó có Đạo luật Taft-Hartley, nhằm chống sự hoạt động của các công đoàn và phá hoại phong trào bãi công.
Chính phủ Mỹ đã tiến hành cấm đoán cả những phong trào đấu tranh đòi hòa bình, dân chủ. Chính phủ Mỹ đã đàn áp các các phong trào đấu tranh của sinh viên (Kent), thực hiện chính sách kỳ thị chủng tộc, chống người da đen…
Sự phản động trong chính sách thống trị của giới cầm quyền và cuộc chiến tranh Việt Nam đã làm cho xã hội Mỹ lâm vào một cuộc khủng hoảng trầm trọng vào những năm 1960 – 1970. Trước hết là cuộc khủng hoảng về chủng tộc.
Người da đen đã liên tục đấu tranh dưới nhiều hình thức, kể cả đấu tranh vũ trang. Năm 1963, phong trào bùng lên mạnh mẽ, lan rộng tới 125 thành phố, nhất là ở Đitơroi. Chính quyền phải huy động quân đội, xe tăng và máy bay lên thẳng để đàn áp.
1. Giai đoạn 1945 – 1973
Các cuộc đấu tranh của người da đỏ diễn ra trong những năm 1969 – 1973 cũng dẫn đến bạo động vũ trang, như ở Unđứtni tháng 2/1973.
Cũng từ những năm 1965 – 1970, các thành thị luôn sôi động vì những cuộc biểu tình, đấu tranh ngoài đường phố, trong các trường đại học của thanh niên và sinh viên. Người ta gọi đây là “sự nổi loạn của thế hệ trẻ”, “sự khủng hoảng của các thành thị Mỹ”.
Giới cầm quyền Mỹ luôn xảy ra các bê bối chính trị: Vụ ám sát Kenơđi năm 1963, vụ Watergate năm 1974.
“Lối sống Mỹ” khủng hoảng , trên đất Mỹ luôn xảy ra các hành động tội ác và bạo lực. Các vụ giết người, trộm cướp, tống tiền, nạn ma túy, ăn chơi đồi trụy và nhiều tệ nạn khác xảy ra thường xuyên.
1. Giai đoạn 1945 – 1973
Về đối ngoại.
Sau Chiến tranh thế giới lần thứ hai, Mỹ tự cho mình là nước có “sứ mệnh” bảo vệ “thế giới tự do”, chống CNCS. Mỹ đã đề ra các chiến lược toàn cầu nhằm:
Ngăn chặn, đẩy lùi, tiến tới tiêu diệt hệ thống XHCN thế giới;
Đàn áp phong trào giải phóng dân tộc, phong trào hòa bình, dân chủ thế giới;
Nô dịch các nước TB đồng minh, tập hợp các lực lượng phản động quốc tế.
Để đạt mục tiêu trên, chính sách của Mỹ là dùng thực lực, âm mưu dựa vào sức mạnh để khuất phục các dân tộc khác.
Mỹ phát động "Chiến tranh lạnh“, ráo riết chạy đua vũ trang, phát triển lực lượng hạt nhân, lập các khối quân sự và ký kết với nhiều nước các hiệp ướnc quân sự tay đôi để triển khai quân đội khắp nơi trên thế giới.
1. Giai đoạn 1945 – 1973
Mỹ tìm cách can thiệp thô bạo vào công việc nội bộ của các nước, tổ chức các cuộc đảo chính ở khắp nơi, dựng nên các chính quyền bù nhìn tay sai. Mỹ đã dùng các chính sách để thực hiện CNTD mới ở nhiều nơi, đặc biệt là các cuộc thí nghiệm ở Đông Dương.
Từ 1945 – 1973, giới cầm quyền Mỹ đã thực hiện nhiều chiến lược phản cách mạng:
Từ 1945 – 1952: Học thuyết Truman;
Từ 1952 – 1960: Học thuyết Truman – Aixenhao;
Từ 1960 – 1969: Học thuyết Kenơđi;
Từ 1969 – 1973: Học thuyết Nixơn.
Mặc dù các học thuyết khác nhau về biện pháp nhưng mục tiêu và bản chất đều giống nhau: phục vụ cho chiến lược toàn cầu phản cách mạng của Mỹ.
2. Giai đoạn 1973 – nay
a. Kinh tế, khoa học - kỹ thuật.
Về kinh tế:
Năm 1973, Mỹ lâm vào khủng hoảng kinh tế do cuộc khủng hoảng năng lượng mang lại. Tuy nhiên, nước Mỹ đã nhanh chóng vượt qua cuộc khủng hoảng này bằng các biện pháp cải cách mạnh mẽ về cơ cấu kinh tế và sự áp dụng các thành tựu của cuộc cách mạng khoa học - kỹ thuật.
Mỹ tiếp tục suy yếu về vị trí kinh tế trong thế giới TBCN.
Từ đỉnh cao trong những năm 1945 – 1950, khi kinh tế Mỹ chiếm 40% tổng sản phẩm kinh tế thế giới, đến cuối những năm 80 chỉ còn 23%. Xét về tổng sản phẩm quốc dân (GNP) Mỹ vẫn đứng đầu thế giới nhưng về thu nhập bình quân đầu người (22.049 USD) lại đứng sau một số nước: Thụy Sĩ, Nhật Bản, Nauy, Phần Lan, Lucxembua.
Từ chỗ là chủ nợ, Mỹ trở thành con nợ lớn nhất trong những năm 80: 1986 nợ 236 tỷ USD, 1989 nợ 2.857,4 tỷ USD.
2. Giai đoạn 1973 – nay
Cơ cấu kinh tế của Mỹ có những thay đổi nhanh chóng:
Các ngành nông - lâm - ngư nghiệp ngày càng giữ vị trí thứ yếu trong nền kinh tế: 1988: 4,2%; 1989: 2,3%; 1991: 2,0%, mặc dù nông nghiệp Mỹ vẫn đứng đầu thế giới.
Công nghiệp Mỹ không còn giữ vị trí chủ đạo trong nền kinh tế.
Ngành dịch vụ, khu vực trung gian không ngừng tăng lên nhanh chóng.
Sự thay đổi trên đây là kết quả của quá trình phát triển kinh tế của Mỹ nhờ khắc phục và vượt qua khủng hoảng kinh tế trong những năm 1970.
Sự thay đổi mạnh mẽ về kinh tế dẫn đến sự biến đổi trong xã hội cũng nhanh chóng.
2. Giai đoạn 1973 – nay
Về khoa học - kỹ thuật.
Cho đến 1988, Mỹ vẫn thống trị thị trường máy thông tin và máy tính cỡ lớn của thế giới: Mỹ 65%, Nhật Bản 26%, Tây Âu 9%; về máy tính cá nhân: Mỹ 64%, Nhật Bản 16%, Tây Âu 12%. Tuy nhiên, Mỹ đang bị Nhật Bản và các nước NIC cạnh tranh quyết liệt trong lĩnh vực này. Về tỉ lệ xuất khẩu các mặt hàng kỹ thuật cao như: máy bay, hóa chất công nghiệp, động cơ, thiết bị văn phòng… Mỹ vẫn đứng đầu thế giới. Tuy nhiên, tỉ lệ trong lĩnh vự này đã giảm sút, từ chỗ chiếm 27% thị trường thế giới (1970) xuống còn 21% (1986).
Lĩnh vực khoa học - kỹ thuật của Mỹ vẫn đứng đầu thế giới. Trong nghiên cứu khoa học cơ bản, đầu tư của Mỹ lớn nhất thế giới. Cuối những năm 80, Mỹ chi bình quân 135 tỉ USD/năm cho công tác nghiên cứu khoa học - kỹ thuật, chiếm 2,8% tổng sản phẩm quốc dân, tương đương 1/3 tổng chi phí của toàn thế giới về lĩnh vực này.
2. Giai đoạn 1973 – nay
b. Chính trị - xã hội.
Từ 1974, nhất là sau 1975, chính trị Mỹ lâm vào khủng hoảng với “Hội chứng sau Việt Nam”. Đến cuộc chiến tranh Vùng Vịnh 1991 Mỹ mới lấy lại niềm tin sức mạnh của mình.
Từ 1974, sau vụ Watergate, phó Tổng thống G. Ford lên cầm quyền. Đến 11/1976, J. Carter (Đảng Dân chủ) trúng cử. Cả Ford và Carter đều thực hiện chính sách đối ngoại của Nixon về căn bản.
1981, R. Reagan (Đảng Cộng hòa) lên cầm quyền và phát động trở lại cuộc chạy đua vũ trang nhằm phá thế cân bằng quân sự với Liên Xô, làm cho tình hình thế giới trở nên căng thẳng, phức tạp.
1988, G. Bush (Đảng Cộng hòa) lên làm Tổng thống. Bằng “Diễn biến hòa bình”, Bush đã chấm dứt "Chiến tranh lạnh" với Liên Xô và thúc đẩy sự sụp đổ của CNXH ở Đông Âu và Liên Xô. Đồng thời tăng cường vai trò của Mỹ ở Trung Cận Đông (1991 tiến hành chiến tranh Vùng Vịnh).
2. Giai đoạn 1973 – nay
1993, B. Clinton (Đảng Dân chủ ) lên cầm quyền, nước Mỹ tiếp tục khẳng định vị thế cường quốc số một của mình bằng các cuộc tấn công quân sự vào Nam Tư, Kosovo. Trong thời gian này kinh tế - xã hội Mỹ có bước phát triển ổn định.
2001, G.W. Bush (Đảng Cộng hòa) trúng cử, tiếp tục thực hiện những chính sách đối đầu với thế giới nhằm thiết lập một trật tự thế giới một cực, do Mỹ chi phối. Do đó nền kinh tế Mỹ có chững lại.
Nền chính trị Mỹ vẫn gặp nhiều vụ bê bối lớn: Vụ Monica Lewinsky (1998 – 1999), vụ Eron và gần đây là những vụ tai tiếng trong việc Mỹ phát động chiến tranh Iraq, vụ ngược đãi tù binh ở Iraq.
Chính sách đối ngoại của Mỹ vẫn dựa vào “sức mạnh Mỹ”: đưa quân vào Panama (1989), vào Haiiti (1994), can thiệp vào tất cả các khu vực trên thế giới.
* Một số tài liệu cũ có thể bị lỗi font khi hiển thị do dùng bộ mã không phải Unikey ...

Người chia sẻ: Nguyễn Tiến Dũng
Dung lượng: | Lượt tài: 1
Loại file:
Nguồn : Chưa rõ
(Tài liệu chưa được thẩm định)