Nước Anh sau 1945
Chia sẻ bởi Nguyễn Tiến Dũng |
Ngày 27/04/2019 |
60
Chia sẻ tài liệu: Nước Anh sau 1945 thuộc Bài giảng khác
Nội dung tài liệu:
NƯỚC ANH TỪ SAU 1945
1. Thời kỳ 1945 – 1973
a. Kinh tế
b. Chính trị - xã hội
2. Thời kỳ từ sau 1973
a. Kinh tế
b. Chính trị - xã hội
1. Thời kỳ 1945 - 1973
a. Kinh tế
Sau Chiến tranh thế giới lần thứ hai nước Anh bị suy yếu nặng nề cả về kinh tế lẫn chính trị. Năm 1948, Anh phải dựa vào “viện trợ” của Mỹ, thông qua kế hoạch Macsan để phục hồi sản xuất. Vì thế, Anh phải để cho tư bản Mỹ đầu tư, mở các xí nghiệp ngay trên đất Anh:
Hãng Ford của Mỹ vào những năm 70 của thế kỷ XX kiểm soát gần 50% ngành sản xuất ô tô của Anh.
Anh thường xuyên phải nhờ vả sự giúp đỡ của các ngân hàng Mỹ và trở thành con nợ của Mỹ. Vì thế, một nửa số xí nghiệp hiện đại của Anh trong các ngành ô tô, hóa chất, kỹ thuật điện tử… là thuộc về các tổ chức độc quyền Mỹ.
Nền kinh tế Anh thường được mệnh danh là “con bệnh của châu Âu”. Vai trò của kinh tế Anh ngày càng suy yếu trong hệ thống tư bản thế giới. Trong những năm đầu sau chiến tranh, Anh chỉ thua Mỹ trong lĩnh vực công nghiệp, nhưng từ đầu thập kỷ 60 nó đã tụt xuống vị trí thứ ba và đến năm 1969 lại xuống hàng thứ tư, sau Mỹ, Nhật Bản, CHLB Đức.
1. Thời kỳ 1945 - 1973
Nguyên nhân của tình trạng trên là do:
Sự phát triển mạnh mẽ của phong trào cách mạng thế giới, nhất là phong trào giải phóng dân tộc, đã làm cho hệ thống thuộc địa của Anh (chiếm 35 triệu km2, lớn gấp 143 lần diện tích nước Anh, 500 triệu dân - lớn gấp 12 lần dân số Anh) bị tan rã.
Với cuộc cách mạng khoa học - kỹ thuật, sau chiến tranh trang bị kỹ thuật của Anh đã trở nên lạc hậu. Trong lúc đó, nền kinh tế Anh bị tàn phá nặng nề sau chiến tranh nên không có điều kiện cạnh tranh và phát triển kịp bước tiến của cuộc cách mạng khoa học - kỹ thuật.
Tư bản Anh chạy theo lợi nhuận cao nên chú trọng đầu tư ra nước ngoài, ít đầu tư vào công nghiệp trong nước.
Chính sách quân sự hóa theo đuôi Mỹ làm ảnh hưởng đến sự phát triển kinh tế. Nước Anh chi cho quốc phòng đứng thứ hai trong các nước TBCN, chỉ sau Mỹ.
1. Thời kỳ 1945 - 1973
Mặc dù còn nhiều hạn chế, khó khăn nhưng nước Anh vẫn là một cường quốc tư bản.
Năm 1950, nền sản xuất nước Anh được phục hồi lại mức trước chiến tranh và sau đó phát triển khá nhanh chóng (nhưng thua kém tốc độ phát triển của CHLB Đức, CH Pháp và Italia).
Nước Anh vẫn tập trung phát triển những ngành kinh tế truyền thống của mình:
Xuất khẩu tư bản sang các nước trong khối Liên hiệp Anh để cho vay lấy lãi nặng hoặc mở mang các xí nghiệp, đồn điền nhằm vơ vét nguyên liệu, bóc lột nhân công rẻ mạt. Về xuất khẩu tư bản, Anh đứng thứ hai thế giới, sau Mỹ.
Phát triển các ngành công nghiệp than, chế tạo cơ khí, công nghiệp đóng tàu và công nghiệp dệt.
Trong nông nghiệp, chăn nuôi là ngành chủ yếu do có truyền thống lâu đời. Nông nghiệp đã đảm bảo được 60% lương thực và thực phẩm trong nước, riêng thịt đảm bảo được 89%.
1. Thời kỳ 1945 - 1973
b. Chính trị - xã hội
Về chính trị, nước Anh theo chế độ quân chủ lập hiến. Sau Chiến tranh thế giới lần thứ hai, Đảng Bảo thủ và Công Đảng thay nhau nắm chính quyền ở Anh.
1945 - 51 Clement Attlee, người của Công Đảng làm Thủ tướng.
1951 - 55 Sir Winston Churchill, người của Đảng Bảo thủ làm Thủ tướng.
1955 - 57 Sir Anthony Eden, người của Đảng Bảo thủ làm Thủ tướng.
1957 - 63 Harold Macmillan, người của Đảng Bảo thủ làm Thủ tướng.
1963 - 64 Sir Alec Douglas-Home, người của Đảng Bảo thủ làm Thủ tướng.
1964 - 70 Harold Wilson, người của Công Đảng làm Thủ tướng.
1970 - 74 Edward Heath, người của Đảng Bảo thủ làm Thủ tướng.
1. Thời kỳ 1945 - 1973
Cũng như chế độ hai đảng ở Mỹ, Đảng Bảo thủ và Công đảng ở Anh đều nhằm phục vụ quyền lợi của giai cấp tư sản lũng đoạn.
Các chính phủ Công Đảng cầm quyền trong những năm 1945 – 1951 và 1964 – 1970 đã thực hiện các chính sách phản tiến bộ:
Họ tìm cách quốc hữu hóa ngân hàng, công nghiệp than, hơi đốt, đường sắt, hàng không dân dụng, luyện kim, điện lực và vô tuyến nhằm tăng cường CNTB lũng đoạn nhà nước. Tuy nhiên, những biện pháp này cũng chỉ nhằm phục vụ lợi ích của giới chủ, bởi vì các xí nghiệp được mua lại với giá cao hơn giá trị thực. Ví dụ, giới chủ đường sắt được trả 1 tỉ Bảng, lớn gấp 2 lần giá trị thực của ngành đường sắt. Đồng thời, để mị dân, chính phủ Công đảng nâng tiền lương danh nghĩa của công nhân, nhưng lại tăng thuế, tăng giá hàng, hạ giá đồng Bảng, do đó mức sống thực tế bị hạ thấp. Chính phủ còn đàn áp các cuộc bãi công, ra lệnh loại trừ những người cộng sản ra khỏi các cơ quan nhà nước, quân đội, các xí nghiệp.
1. Thời kỳ 1945 - 1973
Về đối ngoại, chính phủ Công đảng buộc phải công nhận nền độc lập của Ấn Độ, Miến Điện, Xri Lanca, nhưng lại chia cắt Ấn Độ và tìm cách duy trì các quyền lợi kinh tế ở đây. Đồng thời, chính phủ Công Đảng đàn áp dã man phong trào giải phóng dân tộc ở Nigiêria, Uganđa, Malaixia, Kênia… Họ còn ủng hộ Mỹ trong nhiều vấn đề: phục hồi chủ nghĩa quân phiệt CHLB Đức, Kế hoạch Macsan, tích cực tham gia thành lập khối NATO, tham gia chiến tranh Triều Tiên, giúp đỡ Hà Lan, Pháp đàn áp phong trào giải phóng dân tộc ở Inđônêxia, Đông Dương, tiến hành giúp Ixrael chống các dân tộc Arập, xâm lược Ai Cập…
Các Chính phủ Đảng Bảo thủ cầm quyền trong những năm 1951 – 1954 và 1970 – 1974. Chính phủ Bảo thủ đã tấn công vào mức sống của những người lao động bằng cách giảm các khoản chi phí cho giáo dục, y tế, bảo hiểm xã hội, nâng giá hơi đốt, điện, vận tải. Về đối ngoại, nước Anh theo đuổi chính sách chống Liên Xô, lệ thuộc vào Mỹ, theo đuổi cuộc chạy đua vũ trang làm cho tình hình thế giới thêm căng thẳng.
2. Thời kỳ sau 1973
a. Kinh tế.
Cuối những năm 70 của thế kỷ XX nền kinh tế Anh lâm vào khủng hoảng về cơ cấu. Phải đến những năm 80 kinh tế Anh mới phục hồi được tốc độ phát triển. Năm 1986, Anh đứng hàng thứ 5 trong thế giới TBCN về sản xuất công nghiệp (sau Mỹ, Nhật Bản, Tây Đức, Pháp).
Các ngành công nghiệp chủ đạo của Anh là: chế tạo máy, kỹ thuật điện, máy bay, hóa chất, điện tử, chế tạo ôtô. Năm 1986, Anh sản xuất được 15 triệu tấn thép, 9,7 triệu tấn gang, 123 triệu tấn dầu mỏ, 50 tỉ m3 khí đốt thiên nhiên…
Nông nghiệp Anh đảm bảo được 60% lương thực, thực phẩm cho nhu cầu trong nước, trong đó thịt đảm bảo được 89%. Năm 1986, Anh thu hoạch 24,9 triệu tấn ngũ cốc, đàn gia súc gồm 12,5 triệu gia súc lớn có sừng, 37 triệu cừu, 8 triệu con lợn, 131 triệu gia cầm.
Bước vào đầu thập niên 90 của thế kỷ XX, kinh tế Anh lại lâm vào tình trạng suy thoái, sản xuất trong nước giảm sút: năm 1991, tốc độ tăng trưởng kinh tế ở mức âm (-1,8%).
2. Thời kỳ sau 1973
Bước sang năm 1993, nước Anh thoát khỏi tình trạng suy thoái và phục hồi trở lại. Năm 1992, tốc độ tăng trưởng của Anh đạt gần 2%. Hiện nay, trình độ kinh tế Anh khá cao trong thế giới TBCN. Khoa học, kỹ thuật cũng khá phát triển.
2. Thời kỳ sau 1973
b. Chính trị - xã hội
Từ năm 1973, chính phủ Anh trải qua các đời Thủ tướng sau:
Harold Wilson - người của Công đảng là Thủ tướng Anh 2 nhiệm kỳ 1964 – 1970 và 1974 – 1976.
James Callaghan - người của Công Đảng, làm thủ tướng từ 1976 – 1979.
Năm 1979 Margaret Thatcher trở thành nữ thủ tướng đầu tiên của nước Anh. Bà giữ chức đến năm 1990. Bà là đảng viên Đảng Bảo thủ
John Major - người của Đảng Bảo thủ làm Thủ tướng Anh từ 1990 đến 1997.
Năm 1997 Tony Blair trở thành Thủ tướng Anh.
Các chính phủ Anh đại diện cho quyền lợi của tư bản độc quyền. Tầng lớp giàu có chỉ chiếm 1% dân số nhưng lại nắm trong tay gần 50% tư bản. Tỷ lệ người thất nghiệp ở Anh còn khá cao: 1987: 9,1%; 1993: 10,5%; 2000: 5,3%.
Về đối ngoại, Anh vẫn tiếp tục chính sách đối ngoại phụ thuộc vào Mỹ, chống CNXH, chốn phong trào giải phóng dân tộc và phong trào công nhân quốc tế.
Bản đồ UK
Bản đồ Liên hiệp Vương quốc Anh (UK)
Cơ cấu lao động ở Anh
Source: International Labour Organization; The World Bank
1. Thời kỳ 1945 – 1973
a. Kinh tế
b. Chính trị - xã hội
2. Thời kỳ từ sau 1973
a. Kinh tế
b. Chính trị - xã hội
1. Thời kỳ 1945 - 1973
a. Kinh tế
Sau Chiến tranh thế giới lần thứ hai nước Anh bị suy yếu nặng nề cả về kinh tế lẫn chính trị. Năm 1948, Anh phải dựa vào “viện trợ” của Mỹ, thông qua kế hoạch Macsan để phục hồi sản xuất. Vì thế, Anh phải để cho tư bản Mỹ đầu tư, mở các xí nghiệp ngay trên đất Anh:
Hãng Ford của Mỹ vào những năm 70 của thế kỷ XX kiểm soát gần 50% ngành sản xuất ô tô của Anh.
Anh thường xuyên phải nhờ vả sự giúp đỡ của các ngân hàng Mỹ và trở thành con nợ của Mỹ. Vì thế, một nửa số xí nghiệp hiện đại của Anh trong các ngành ô tô, hóa chất, kỹ thuật điện tử… là thuộc về các tổ chức độc quyền Mỹ.
Nền kinh tế Anh thường được mệnh danh là “con bệnh của châu Âu”. Vai trò của kinh tế Anh ngày càng suy yếu trong hệ thống tư bản thế giới. Trong những năm đầu sau chiến tranh, Anh chỉ thua Mỹ trong lĩnh vực công nghiệp, nhưng từ đầu thập kỷ 60 nó đã tụt xuống vị trí thứ ba và đến năm 1969 lại xuống hàng thứ tư, sau Mỹ, Nhật Bản, CHLB Đức.
1. Thời kỳ 1945 - 1973
Nguyên nhân của tình trạng trên là do:
Sự phát triển mạnh mẽ của phong trào cách mạng thế giới, nhất là phong trào giải phóng dân tộc, đã làm cho hệ thống thuộc địa của Anh (chiếm 35 triệu km2, lớn gấp 143 lần diện tích nước Anh, 500 triệu dân - lớn gấp 12 lần dân số Anh) bị tan rã.
Với cuộc cách mạng khoa học - kỹ thuật, sau chiến tranh trang bị kỹ thuật của Anh đã trở nên lạc hậu. Trong lúc đó, nền kinh tế Anh bị tàn phá nặng nề sau chiến tranh nên không có điều kiện cạnh tranh và phát triển kịp bước tiến của cuộc cách mạng khoa học - kỹ thuật.
Tư bản Anh chạy theo lợi nhuận cao nên chú trọng đầu tư ra nước ngoài, ít đầu tư vào công nghiệp trong nước.
Chính sách quân sự hóa theo đuôi Mỹ làm ảnh hưởng đến sự phát triển kinh tế. Nước Anh chi cho quốc phòng đứng thứ hai trong các nước TBCN, chỉ sau Mỹ.
1. Thời kỳ 1945 - 1973
Mặc dù còn nhiều hạn chế, khó khăn nhưng nước Anh vẫn là một cường quốc tư bản.
Năm 1950, nền sản xuất nước Anh được phục hồi lại mức trước chiến tranh và sau đó phát triển khá nhanh chóng (nhưng thua kém tốc độ phát triển của CHLB Đức, CH Pháp và Italia).
Nước Anh vẫn tập trung phát triển những ngành kinh tế truyền thống của mình:
Xuất khẩu tư bản sang các nước trong khối Liên hiệp Anh để cho vay lấy lãi nặng hoặc mở mang các xí nghiệp, đồn điền nhằm vơ vét nguyên liệu, bóc lột nhân công rẻ mạt. Về xuất khẩu tư bản, Anh đứng thứ hai thế giới, sau Mỹ.
Phát triển các ngành công nghiệp than, chế tạo cơ khí, công nghiệp đóng tàu và công nghiệp dệt.
Trong nông nghiệp, chăn nuôi là ngành chủ yếu do có truyền thống lâu đời. Nông nghiệp đã đảm bảo được 60% lương thực và thực phẩm trong nước, riêng thịt đảm bảo được 89%.
1. Thời kỳ 1945 - 1973
b. Chính trị - xã hội
Về chính trị, nước Anh theo chế độ quân chủ lập hiến. Sau Chiến tranh thế giới lần thứ hai, Đảng Bảo thủ và Công Đảng thay nhau nắm chính quyền ở Anh.
1945 - 51 Clement Attlee, người của Công Đảng làm Thủ tướng.
1951 - 55 Sir Winston Churchill, người của Đảng Bảo thủ làm Thủ tướng.
1955 - 57 Sir Anthony Eden, người của Đảng Bảo thủ làm Thủ tướng.
1957 - 63 Harold Macmillan, người của Đảng Bảo thủ làm Thủ tướng.
1963 - 64 Sir Alec Douglas-Home, người của Đảng Bảo thủ làm Thủ tướng.
1964 - 70 Harold Wilson, người của Công Đảng làm Thủ tướng.
1970 - 74 Edward Heath, người của Đảng Bảo thủ làm Thủ tướng.
1. Thời kỳ 1945 - 1973
Cũng như chế độ hai đảng ở Mỹ, Đảng Bảo thủ và Công đảng ở Anh đều nhằm phục vụ quyền lợi của giai cấp tư sản lũng đoạn.
Các chính phủ Công Đảng cầm quyền trong những năm 1945 – 1951 và 1964 – 1970 đã thực hiện các chính sách phản tiến bộ:
Họ tìm cách quốc hữu hóa ngân hàng, công nghiệp than, hơi đốt, đường sắt, hàng không dân dụng, luyện kim, điện lực và vô tuyến nhằm tăng cường CNTB lũng đoạn nhà nước. Tuy nhiên, những biện pháp này cũng chỉ nhằm phục vụ lợi ích của giới chủ, bởi vì các xí nghiệp được mua lại với giá cao hơn giá trị thực. Ví dụ, giới chủ đường sắt được trả 1 tỉ Bảng, lớn gấp 2 lần giá trị thực của ngành đường sắt. Đồng thời, để mị dân, chính phủ Công đảng nâng tiền lương danh nghĩa của công nhân, nhưng lại tăng thuế, tăng giá hàng, hạ giá đồng Bảng, do đó mức sống thực tế bị hạ thấp. Chính phủ còn đàn áp các cuộc bãi công, ra lệnh loại trừ những người cộng sản ra khỏi các cơ quan nhà nước, quân đội, các xí nghiệp.
1. Thời kỳ 1945 - 1973
Về đối ngoại, chính phủ Công đảng buộc phải công nhận nền độc lập của Ấn Độ, Miến Điện, Xri Lanca, nhưng lại chia cắt Ấn Độ và tìm cách duy trì các quyền lợi kinh tế ở đây. Đồng thời, chính phủ Công Đảng đàn áp dã man phong trào giải phóng dân tộc ở Nigiêria, Uganđa, Malaixia, Kênia… Họ còn ủng hộ Mỹ trong nhiều vấn đề: phục hồi chủ nghĩa quân phiệt CHLB Đức, Kế hoạch Macsan, tích cực tham gia thành lập khối NATO, tham gia chiến tranh Triều Tiên, giúp đỡ Hà Lan, Pháp đàn áp phong trào giải phóng dân tộc ở Inđônêxia, Đông Dương, tiến hành giúp Ixrael chống các dân tộc Arập, xâm lược Ai Cập…
Các Chính phủ Đảng Bảo thủ cầm quyền trong những năm 1951 – 1954 và 1970 – 1974. Chính phủ Bảo thủ đã tấn công vào mức sống của những người lao động bằng cách giảm các khoản chi phí cho giáo dục, y tế, bảo hiểm xã hội, nâng giá hơi đốt, điện, vận tải. Về đối ngoại, nước Anh theo đuổi chính sách chống Liên Xô, lệ thuộc vào Mỹ, theo đuổi cuộc chạy đua vũ trang làm cho tình hình thế giới thêm căng thẳng.
2. Thời kỳ sau 1973
a. Kinh tế.
Cuối những năm 70 của thế kỷ XX nền kinh tế Anh lâm vào khủng hoảng về cơ cấu. Phải đến những năm 80 kinh tế Anh mới phục hồi được tốc độ phát triển. Năm 1986, Anh đứng hàng thứ 5 trong thế giới TBCN về sản xuất công nghiệp (sau Mỹ, Nhật Bản, Tây Đức, Pháp).
Các ngành công nghiệp chủ đạo của Anh là: chế tạo máy, kỹ thuật điện, máy bay, hóa chất, điện tử, chế tạo ôtô. Năm 1986, Anh sản xuất được 15 triệu tấn thép, 9,7 triệu tấn gang, 123 triệu tấn dầu mỏ, 50 tỉ m3 khí đốt thiên nhiên…
Nông nghiệp Anh đảm bảo được 60% lương thực, thực phẩm cho nhu cầu trong nước, trong đó thịt đảm bảo được 89%. Năm 1986, Anh thu hoạch 24,9 triệu tấn ngũ cốc, đàn gia súc gồm 12,5 triệu gia súc lớn có sừng, 37 triệu cừu, 8 triệu con lợn, 131 triệu gia cầm.
Bước vào đầu thập niên 90 của thế kỷ XX, kinh tế Anh lại lâm vào tình trạng suy thoái, sản xuất trong nước giảm sút: năm 1991, tốc độ tăng trưởng kinh tế ở mức âm (-1,8%).
2. Thời kỳ sau 1973
Bước sang năm 1993, nước Anh thoát khỏi tình trạng suy thoái và phục hồi trở lại. Năm 1992, tốc độ tăng trưởng của Anh đạt gần 2%. Hiện nay, trình độ kinh tế Anh khá cao trong thế giới TBCN. Khoa học, kỹ thuật cũng khá phát triển.
2. Thời kỳ sau 1973
b. Chính trị - xã hội
Từ năm 1973, chính phủ Anh trải qua các đời Thủ tướng sau:
Harold Wilson - người của Công đảng là Thủ tướng Anh 2 nhiệm kỳ 1964 – 1970 và 1974 – 1976.
James Callaghan - người của Công Đảng, làm thủ tướng từ 1976 – 1979.
Năm 1979 Margaret Thatcher trở thành nữ thủ tướng đầu tiên của nước Anh. Bà giữ chức đến năm 1990. Bà là đảng viên Đảng Bảo thủ
John Major - người của Đảng Bảo thủ làm Thủ tướng Anh từ 1990 đến 1997.
Năm 1997 Tony Blair trở thành Thủ tướng Anh.
Các chính phủ Anh đại diện cho quyền lợi của tư bản độc quyền. Tầng lớp giàu có chỉ chiếm 1% dân số nhưng lại nắm trong tay gần 50% tư bản. Tỷ lệ người thất nghiệp ở Anh còn khá cao: 1987: 9,1%; 1993: 10,5%; 2000: 5,3%.
Về đối ngoại, Anh vẫn tiếp tục chính sách đối ngoại phụ thuộc vào Mỹ, chống CNXH, chốn phong trào giải phóng dân tộc và phong trào công nhân quốc tế.
Bản đồ UK
Bản đồ Liên hiệp Vương quốc Anh (UK)
Cơ cấu lao động ở Anh
Source: International Labour Organization; The World Bank
* Một số tài liệu cũ có thể bị lỗi font khi hiển thị do dùng bộ mã không phải Unikey ...
Người chia sẻ: Nguyễn Tiến Dũng
Dung lượng: |
Lượt tài: 1
Loại file:
Nguồn : Chưa rõ
(Tài liệu chưa được thẩm định)