Nguyễn Bĩnh Khiêm
Chia sẻ bởi Lê Long |
Ngày 21/10/2018 |
77
Chia sẻ tài liệu: Nguyễn Bĩnh Khiêm thuộc Bài giảng khác
Nội dung tài liệu:
Kính chào các thầy giáo và các bạn!
Môn: Văn học Trung đại
Đề tài: Vấn đề đạo lí và triết lí trong thơ Nôm của Nguyễn Bỉnh Khiêm.
Thực hiện:Nhóm 8
Bài thuyết trình
I.Thời đại và tác giả:
1.Bối cảnh xã hội
Thế kỉ XVII nhà Lê suy yếu dần, xuất hiện nhiều ông vua quỷ,vua lợn như vua Lê Uy Mục (1505-1509), vua Lê Tương Dực (1509-1516)…ham mê tửu sắc, hung tàn bạo ngược.
Năm 1527,Mạc Đăng Dung cướp ngôi nhà Lê. Một số triều thần nhà Lê không chịu theo nhà Mạc, liền đứng lên khởi nghĩa âm mưu khôi phục nhà Lê, vì vậy đất nước bị chia cắt Bắc –Nam
Nhà Lê do Nguyễn Kim chịu trách nhiệm trùng hưng,sau bị Trịnh Kiểm là con rể cướp binh quyền,nhà Trịnh lấy danh nghĩa vua Lê đem quân dánh nhà Mạc ,chiến tranh Trịnh Mạc kéo dài 17 năm cuối cùng nhà Trịnh diệt được nhà Mạc.
Con Nguyễn Kim là Nguyễn Hoàng sợ anh rể là Trịnh Kiểm giết chết, xin vào trấn thủ đất Thuận Hóa, sau tự xưng là chúa Nguyễn. Từ 1627-1673,hai họ Trịnh –Nguyễn giao chiến bốn lần lấy sông Gianh làm ranh giới chia đôi đất nước . Đến khi Nguyễn Huệ dựng cờ khởi nghĩa tiêu diệt hai họ Trinh Nguyễn và lật đổ nhà Lê lập ra nhà Tây Sơn thì chiến tranh mới chấm dứt, thống nhất đất nước nhân dân mới được sống cảnh thanh bình.
2.Tác giả :
Thế kỉ XVI có nhiều tác gia lớn như : Nguyễn Dữ, Nguyễn Hàng, Hà Nhậm Đại, Phùng Khắc Khoan,… Trong số đó nổi bật lên tác gia Nguyễn Bỉnh Khiêm với số lượng tác phẩm đồ sộ.
Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491-1585), tên huý là Văn Đạt, hiệu là Bạch Vân cư sĩ, người tỉnh Hải Dương, ông sinh trong một gia đình nho học bình dân. Thân sinh ông là Nguyễn Văn Định nổi tiếng hay chữ. Thuở nhỏ ông được cha dạy chữ, lớn lên theo học thầy là bảng nhãn Lương Đắc Bằng. Lương Đắc Bằng là người am hiểu lí học âm dương, thấy Nguyễn Bỉnh Khiêm tài năng hơn người nên đã truyền dạy cho.
Vì vậy Nguyễn Bỉnh Khiêm là người am hiểu lí học âm dương, thông hiểu mọi sự thịnh suy ở đời.
Nguyễn Bỉnh Khiêm đã để lại một tập thơ chữ Hán ( Bạch Vân am thi tập) một tập thơ chữ Nôm ( Bạch Vân quốc ngữ thi tập),ngoài ra còn có 3 bài kí (Trung Tân quán bi kí, quá kim hải môn kí, Thạch bích kí ) và một bài phú Trung Tân quán ngụ hứng.
II.Vấn đề đạo lí và triết lí trong thơ Nôm của Nguyễn Bỉnh Khiêm
1.Thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm đậm chất triết lí :
Sống trong thời đại loạn lạc, nên ngay từ khi còn làm quan, Nguyễn Bỉnh Khiêm đã viết nhiều bài thơ phê phán chiến tranh phi nghĩa nhằm xâu xé, tranh giành quyền lực của các tập đoàn phong kiến :
Thái hòa vũ trụ bất Ngu,Chu,
Hỗn chiến giao tranh tiếu lưỡng thù.
(Cảnh tượng xã hội chẳng được thái bình như đời Ngu,đời Chu
Đáng cười thay cho hai kẻ thù đánh lẫn nhau)
Điều đó chứng tỏ Nguyễn Bỉnh Khiêm đã tự vươn mình lên cao hơn so với nhũng nhà nho cùng thời để nhận thấy hiện thực đất nước, để nhìn nhận chiến tranh mà các tập đoàn gây ra là phi nghĩa đi ngược lại với lợi ích của nhân dân.Vì thế mà ông cất tiếng cười nhạo bọn chúng .
Chính vì chứng kiến cảnh xâu xé quyền lực giưã các tập đoàn phong kiến nên Nguyễn Bỉnh Khiêm chán nản từ quê về ở ẩn. Sống ở am Bạch Vân, giữa chốn thanh bình,ông có thời gian để ngẫm nghĩ về thế sự, nhân tình và phát hiện ra những quy luật vận động bên trong của đời sống. Vận dụng vốn hiểu biết về âm dương,bát quái, ngũ hành ông phát hiện ra quy luật vận động nội tại của sự sống :
Tái nhất âm hề phục nhất dương,
Tuần hoàn vãng phục lí chi thường
(Trở lại một âm thì có một dương ẩn phục
Tuần hoàn đắp đổi nhau vốn là lẽ thường )
Ông nhìn thấy vũ trụ rộng lớn có sự tồn tại và hài hòa giữa âm và dương, từ đó phát hiện ra quy luật “ tuần hoàn đắp đổi nhau vốn là lẽ thường “. Chính vì thế ông nghiệm sinh lẽ đời dưới con mắt một triết nhân:
Vinh nhục một cơ hằng đắp đổi,
Ăt là từng thấy một hai phen.
(Thơ Nôm, bài39)
Hay:
Thế sự tuần hoàn đắp đổi,
Từng xem thua được một hai phen.
(Thơ Nôm, bài 44)
Vinh-nhục, thắng thua bù trừ lẫn nhau, đó là lẽ thường.Nhận thấy cái lẽ thường ấy mà Nguyễn Bỉnh Khiêm mới đứng cao và xem xét mọi vật để nghiệm về nó, phát hiện ra quy luật bên trong nó.
Khi suy ngẫm về cuộc đời ông phát hiện ra những sự đổi thay to lớn của thời cuộc, thấy được sự đảo lộn của các giá trị truyền thống :
Thế gian biến đổi vũng nên đồi,
Mặn, lạt, chua, cay, lẫn ngọt bùi.
Còn bạc, còn tiền còn đệ tử,
Hết cơm, hết rượu, hết ông tôi.
(Thơ Nôm, bài 71)
Nguyễn Bỉnh Khiêm nhận ra tất cả những giá trị đạo đức trước kia không còn nữa, mà chỉ còn lại đồng tiền với quyền lực vạn năng chi phối tất cả :”Còn bạc, còn tiền, còn đệ tử. Hết cơm, hết rượu, hết ông tôi.” Trước sự thay đổi, xáo trộn như thế, Nguyễn Bỉnh Khiêm còn biết làm gì hơn là cất tiếng than:
Ở thế mới hay người bạc ác,
Gìau thì tìm đến khó thì lui
(Thơ Nôm, bài 71)
Tiếng than ấy chứa đựng cả nỗi đau đời, nỗi bất lực của một nhà nho thanh bạch. Sự bất lực ấy còn thể hiện rõ nét hơn trong bài thơ sau:
Đời nay nhân nghĩa tựa vàng mười,
Có của thì hơn hết mọi lời.
Trước đến tay không, nào thốt hỏi
Sau vào gánh nặng, lại vui cười.
Anh anh, chú chú,cười hơ hải,
Rượu rượu, chè chè,thết tả tơi.
Người của, lấy cân ta tự nhắc ,
Mới hay rằng của nặng hơn người.
(Thơ Nôm, bài 74)
Nhà thơ giật mình thảng thôt khi hay rằng :” của nặng hơn người”. Cái giật mình thang thốt của nhà thơ là dấu hiệu đánh dấu sự thay đổi quá lớn của cuộc đời, sự suy đồi đạo đức của xã hội.Câu kết luận mang theo cái giật mình ấy chứa đựng cả một nỗi đau đời của nhà nho thanh sạch Nguyễn Bỉnh Khiêm.
Để có cái nhìn triết lí ấy, nhà thơ phải đứng trên tư cách một triết nhân để ngẫm nghĩ tìm ra quy luật cuộc đời và thấy được sự thay đổi nội tại của nó. Từ cái nhìn ấy ông mới lên tiếng phê phán những con ngừơi hám danh lợi, bán rẻ anh em, bè bạn :
“Thớt có tanh tao ruồi đậu đến,
Anh không mật kiến mỡ bò chi”
Hay:
Nhị kết, hoa thơm, ong đến đỗ
Mỡ bùi, mật ngọt, kiến nào đi”
Không những thế Nguyễn Bỉnh Khiêm còn khinh miệt và lên án đồng tiền :
“Cơm áo bỗng xui người hóa quỷ,
Oản xôi dễ khiến bụt nên ma”
Và :
“Nghe thôi thinh thỉnh lại đồng tiền “.
Bên cạnh đó ông còn lên án bọn quan tham lam mượn màu đạo :
“Aỉ Tần, non Thục đường nghèo hẻm,
Cửa Khổng, làng Nhan đạo khó khăn”
(Thơ Nôm, bài 29)
Có được cái nhìn chân thực như vậy lạ kết quả của việc trải nghiệm quan trường trong tám năm cuả Nguyễn Bỉnh Khiêm. Thế sự đổi thay, quan trường trở thành chiến trận, cái đạo Nho gia bây giờ sao khó tìm đến thế. Lời than của ông nghe chua xót và bất lực xiết bao.
Tóm lại thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm đậm chất triết lí, bởi đó là sự chiêm nghiệm của ông trong bao nhiêu năm quan sát cuộc đời. Ông khái quát những hiện tượng mà mình quan sát được và phát biểu nó dưới dạng chân lí, vì thế thơ ông mang tính triết lí rất cao. Đọc thơ ông ta phát hiện được một Nguyễn Bỉnh Khiêm- nhà thơ, một Nguyễn Bỉnh Khiêm – triết nhân.
2.Thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm đậm chất đạo lí
Thế kỉ XVI là giai đoạn loạn lạc nhất trong lich sử nước ta, các tập đoàn phong kiến ra sức tranh giành quyền lực nên chiến tranh xảy ra liên miên. Sống trong bối cảnh như vậy, Nguyễn Bỉnh Khiêm đã tận mắt chứng kiến được cảnh loạn lạc của đất nước, thấy được bản chất vô nghĩa của các cuộc chiến đó và hoàn cảnh sống khổ cực của nhân dân :
“Xuyên huyết sơn bài tùy xứ hữu,
Uyên ngư tùng tước vị thùy khu”
Khắp nơi chỗ nào cũng máu chảy thành sông, xương chất thành núi,
Không biết chúng vì ai mà đuổi cá đến tận vực sâu,đuổi chim vào bụi rậm như thế).
Hay trong bài thơ “Thương loạn”Nguyễn Bỉnh Khiêm đã viết :
“Cư ốc chiết vi tân,
Canh ngư đồ nhi thực.
Nhương đoạt phi kỉ hóa,
Hấp dụ phi kỉ sắc.
Kiến hãm trùng đồ thán,
Sở quá sinh kinh cức.
Tiều tụy tư vi thậm,”
Ngụ ý:
(Nhà ở đem bẻ làm củi,
Trâu cày đem mổ thịt ăn,
Cướp của người,
Hiếp đáp và dụ dỗ vợ người,
Chỉ trông thấy cảnh lầm than,
Nơi nào qua là gai bụi,
Tiều tụy đến thế là cùng)
Cảnh giặc hoành hành ,dân tình loạn lạc khiến nhà thơ đau xót mà kêu lên “ Tiều tụy tư vi thậm”.
Nêu ra cảnh khổ cực của dân Nguyễn Bỉnh Khiêm đã phê phán,vạch mặt bản chất phi nghĩa của các cuộc chiến tranh thời bấy giờ.Ông đặt ra câu hỏi mang tính chất phiếm chỉ:” Không biết chúng vì ai”? nhưng trong câu hỏi ấy ngầm lên án bọn vua quan tham tàn thời bấy giờ.
Vì tận mắt chứng kiến và chia sẻ cuộc sống lầm than cuả dân nên Nguyễn Bỉnh Khiêm có cái nhìn hướng về nhân dân,có tư tưởng thân dân.Ông thông cảm với nhân dân,tha thiết mong mau chấm dứt chiến tranh loạn lạc để nhân dân có cuộc sống yên ổn:
“Loạn lạc can qua hận mãn tiền,
Nhân dân bôn thoát dục cầu tuyền.
Điên liên huề bãota vô địa,
Ai hộ căn liên hạnh hữu thiên.
(Hữu cảm)
(Ngán nỗi can qua mãi thế ư!
Nhân dân mong được chốn an cư.
Kéo nhau lũ lượt đi tìm ẩn,
Cứu kẻ phiêu lưu có chỗ nhờ.)
Hay:
“Tặc đình cữu hãm mẫn ngô nhân,
Chửng cứu thùy năng thể chí nhân.
(Cảm hứng)
(Thương dân bi hãm trong khu vực giặc chiếm đã lâu,
Ai có thể cứu vớt thể hiện tấm lòng chí nhân)
Ẩn chứa bên trong những dòng thơ ấy không chỉ có tấm lòng thương dân,thái độ lên án chiến tranh mà còn chứa đựng cả nỗi bất lực của tác giả trước thời thế loạn lạc. Đó là nỗi bất chí của một nhà Nho muốn cứu đời mà không thành,phải lui về ở ẩn giữa cuộc đời;
thương dân nhưng lại bất lực của Nguyễn Bỉnh Khiêm.
“Cổ lai quốc dĩ dân vi bản,
Đắc quốc ưng tri tại đắc dân.”
(Từ xưa đến nay nước lấy dân làm gốc,
Được nước nên biết là ở chỗ được lòng dân.)
Tư tưởng thân dân của ông rất gần với Nguyễn Trãi xưa kia:
“Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân”
(Bình ngô đại cáo)
Tuy nhiên,cũng như các nhà Nho dưới chế độ phong kiến,Nguyễn Bỉnh Khiêm vẫn không thoát ra khỏi tư tưởng trung quân của Nho giáo.Một mặt ông lên án chiến tranh phi nghĩa do các tập đoàn phong kiến gây ra, nhưng mặt khác lại hy vọng vào chế độ phong kiến,mong có được một minh quân để thờ :
“Đã ngoài mọi việc chăng còn ước
Ưóc một tôi hiền chúa thánh minh “
(Thơ Nôm,bài 26)
Dù có tư tưởng tiến bộ, có chí lớn giúp dân,giúp nước,nhưng thời đại loạn lạc nên Nguyễn Bỉnh Khiêm không thể thực hiện được chí lớn của mình.
Bất lực trước thời thế,chán cảnh thành thị xum xoe,Nguyễn Bỉnh Khiêm từ quan về ở ẩn để rồi sớm hôm
“Một mai,một cuốc,một cần câu”
(Nhàn)
Ông vui thú điền viên,sống cuộc đời dân dã.Sau khi về ở ẩn ông dùng ngòi bút của mình để truyền thụ đạo lí,răn dạy cảnh tỉnh người đời.Vì thế thơ ông mang tính đạo lí sâu sắc.
Ngoài ảnh hưởng của Nho giáo,Nguyễn Bỉnh Khiêm còn chịu ảnh hưởng của Phật giáo.Quan niệm chúng sinh bình đẳng,quan niệm luân hồi thấm vào mạch tư tưởng của ông.Thế nên Nguyễn Bỉnh Khiêm thấy được những cảnh trái ngược trong cuộc sống:
Đời nay nhân nghĩa tựa vàng mười,
Có của thì hơn hết mọi lời.
Trước đến tay không nào thốt hỏi,
Sau vào gánh nặng lại vui cười.
Anh anh, chú chú mừng hơ hải,
Rượu rượu chè chè thết tả tơi.”
(Thơ Nôm,bài 86)
Hay:
“Thuở khó dẫu chào chào cũng lảng,
Khi giàu chẳng hỏi ,hỏi thời quen.”
(Thơ Nôm,bài 5)
Chứng kiến cảnh phân biệt giàu nghèo trong xã hội thời bấy giờ,ông đau lòng mà thốt lên:”có của thì hơn hết mọi lời”.Người giàu thì được chào hỏi ,còn người nghèo thì không.Dựng lên cảnh đối lập ấy Nguyễn Bỉnh Khiêm đã đả kích mạnh mẽ vào sự suy vi của đạo đức xã hội bấy giờ.
Cái sự đời bạc bẽo coi trọng tiền bạc, danh phận ấy còn được Nguyễn Bỉnh Khiêm phản ánh sinh động qua nhiều bài thơ khác:
“Gìau: trọng,sang:yêu,khó: chẳng vì.
Nhị kết hoa thơm ong đến đỗ,
Mỡ bùi,mật ngọt kiến nào đi.”
(Thơ Nôm, bài 82)
Hay;
“Đạo nọ nghĩa này trăm tiếng bướm,
Nghe thôi thinh thỉnh lại đồng tiền.”
(Thơ Nôm,bài 5)
Đọc thơ ông ta hình dung ra cái luật sống trên đời,đó là quy luật của đồng tiền,có tiền là có tất cả.Nếm mùi công danh trong tám năm nên Nguyễn Bỉnh Khiêm hiểu rõ chốn quan trường,ông viết:
“Vìdanh cho phải làm danh lụy
Được đạo thì hay đạo có mùi”
(Thơ Nôm,bài 18)
Vì con đường công danh mà lại làm cho danh tiếng mình bị vây bẩn,đạt được cái đạo thánh hiền mới hay đạo ấy không trong sạch.Cái sự oái ăm của sự đời khiến giọng thơ của ông vừa mang tính giễu cợt, lại chua chát bội phần.
Trong cái mỉa mai ấy là thái độ vạch mặt phê phán những kẻ tham tiền,háo danh coi rẻ anh em,bạn bè:
“Cửa vương nhện nhà vì vắng,
Thớt quyến ruồi ấy bởi tanh.”
(Thơ Nôm,bài 26)
Cái tanh quyến ruồi ấy còn gì khác ngoài đồng tiền và danh vị. Nhìn thực trạng ấy Nguyễn Bỉnh Khiêm chua xót mà thốt lên:
“Người của lấy cân ta thử nhắc
Mới hay rằng của nặng hơn người.”
(Thơ Nôm ,bài 74)
Tác giả đem hai đối tượng “người “ (tình) “của” (tiền), đặt lên bàn cân xem thử ra sao để rồi cái sự thật “của nặng hơn người” làm tác giả đau đớn quá mà nở một nụ cười trào lộng, đó là nụ cười “cười ra nước mắt”.
Với những vần thơ này Nguyễn BỉnhKhiêm là người đầu tiên lên tiếng phê phán đồng tiền trong văn chương trung đại, như nhiều nhà phê bình nhận xét.Để rồi ông đi đến két luận:”Đời nay nhân nghĩa tựa vàng mười”.Câu kết đầy hàm xúc ấy cho thấy sức mạnh ghê gớm của đồng tiền,nó làm đảo lộn tất cả mọi đạo lí.Nguyễn Bỉnh Khiêm chỉ mới thấy được sự trái ngược trong xã hội mà “ chưa thấy được thực chất của những hiện tượng đạo lí suy đồi “(Đinh Gia Khánh)
tuy thế đó cũng đã là điều đáng quý trọng ở thơ ông.Bởi thấy được sự suy vi về đạo đức nên Nguyễn Bỉnh Khiêm đã lên tiếng khuyên nhủ người đời không nên tranh đua lẫn nhau:
“Người dữ thì ta miễn có lành
Làm chi đo đắn nhọc đua tranh”
(Thơ Nôm, bài 29)
Ông còn khuyên nhủ những kẻ cậy tài,cậy danh:
“Làm người hay một họa hay hai
Chớ cậy rằng hay chớ cậy tài.”
(Thơ Nôm,bài 65)
Tài năng danh vọng có đừng nên cậy vào đómà khinh thường người khác. Tiền tài với ông là:”số của lưu thông,cắp nắp làm chi cho nhọc lòng”(Thơ Nôm, bài 74).
Vật chất danh lợi với ông chỉ là hư vô,ông hướng đến cái nhàn tản,nhìn thấy được cái lẽ tự nhiên.
Với Nguyễn Bỉnh Khiêm có là không,không là có,vậy làm gì phải khó nhọc đua tranh!Tư tưởng vô thường của Nguyễn Bỉnh Khiêm lúc bấy giờ không mang màu sắc tiêu cực mà màu sắc tích cực, đó là sự phản đối của ông với xã hội.
Có khi Nguyễn Bỉnh Khiêm chê trách sự gian xảo ở đời bằng cách nói đến sự vụng dại của mình:
“Ta dại ta tìm nơi vắng vẻ,
Người khôn người đến chốn lao xao”
(Thơ Nôm,baì 79)
Thông qua việc so sánh thái độ sống của mình với những người khác,ông nhún mình tự nhận là “dại”,tôn người khác là “khôn”
.Nhưng trong cái nhún mình chịu thiệt của ông còn mang cái khinh mạn những kẻ”khôn” mà ông chịu nhún mình ấy,để năng mình lên cao hơn họ. Phản kháng lại xã hội,ông nêu cao khí tiết của bản thân:
“Trời phú tính ở mình ta
Đạo cả cương thường năm mấy bạ “
(Thơ Nôm,bài 145)
“Từng xem sách cũ một hai pho
Mến đạo thề chăng phụ nghiệp Nho”
(Thơ Nôm,bài 27)
Những vần thơ đạo lý của Nguyễn Bỉnh Khiêm cho ta thấy một nhà Nho mực thước, luôn răn dạy đạo đức mong cuộc đời tốt đẹp hơn.
Tóm lại,thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm đậm chất đạo lí. Đó là cái đạo tam cương ngũ thường của Nho gia, là cái đạo luân hồi của nhà Phật,là cái đạo vô vi của đạo gia.Sự kết hợp ba tư tưởng ấy tạo cho thơ ông màu đạo lý thâm thúy,nhưng chủ yếu thơ ông đậm màu đạo lý Nho gia vì ông là một nhà Nho xuất sắc của thời đại nên tư tưởng mang đậm chất Nho gia là lẽ đương nhiên.Tuy nhiên thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm mới chỉ thấy được swjsuy đồi của đạo đức chứ chưa phát hiện được nguyên nhân của sự suy đồi đó
. Ông vẫn hy vọng vào chế độ phong kiến, vẫn răn dạy mọi người trung với vua,vẫn mong một minh quân để thờ… đây là sự hạn chế về mặt tư tưởng của các nhà Nho chưa thể vượt qua được.
III.Nghệ thuật thơ Nôm Nguyễn Bỉnh Khiêm.
Thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm nặng chất triết lí về thế sự,cuộc đời con người nhưng không khô khan. Lời thơ cô đúc như là châm ngôn để làm nổi bật triết lí về cái nhân,thói đời đen bạc,mang tính giáo hóa,giáo huấn .
Ngôn ngữ giản dị,mộc mạc, nhà thơ hay dùng ngụ ngôn,ẩn dụ cho nên thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm gần với ca dao, tục ngữ,thành ngữ .
Hơn thế,câu thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm ít gò bó niêm luật,đặc biệt là thơ Nôm Nguyễn Bỉnh Khiêm đã kế thừa được thơ Nôm Nguyễn Trãi. Cũng sử dụng thể thất ngôn xen lục ngôn, nhưng những câu thơ lục ngôn xuất hiện với tần số nhiều,ngắt cách nhịp, niêm luật không gò bó như thơ luật Đường mà phóng khoáng,cởi mở.nhuần nhị,trong sáng, gần như ngôn ngữ hiện đại chứ không dùng từ cổ nhưu thơ Nguyễn Trãi
Bỉnh Khiêm,Vũ Khâm Lăng đã đánh giá cao những đóng góp lớn của Nguyễn Bỉnh Khiêm. Trong Đại Việt sử loại tạp lục,ông viết :”Trăm năm về trước, trăm năm về sau không ai hơn….tuy ở nhà 44 năm mà lòng không ngày nào quên đời”. Còn Phan Huy Chú thì lại đánh giá rất cao ngôn ngữ thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm , ông cho rằng ngôn ngữ thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm rất giản dị,sâu sắc mà lại đủ ý : Văn chương của ông xuất ở tự nhiên , nói gì thành văn, không cần gọt giũa,giản dị mà đủ ý, thanh đạm mà có vị.
Nhóm 8:
Nguyễn Thị Thu Huyền
Hồ Thị Niềm
Đặng Thị Thiên
Nguyễn Thị Linh Dung
Võ Thị Oanh
Phan Thị Nga
Nguyễn Thị Tâm
Môn: Văn học Trung đại
Đề tài: Vấn đề đạo lí và triết lí trong thơ Nôm của Nguyễn Bỉnh Khiêm.
Thực hiện:Nhóm 8
Bài thuyết trình
I.Thời đại và tác giả:
1.Bối cảnh xã hội
Thế kỉ XVII nhà Lê suy yếu dần, xuất hiện nhiều ông vua quỷ,vua lợn như vua Lê Uy Mục (1505-1509), vua Lê Tương Dực (1509-1516)…ham mê tửu sắc, hung tàn bạo ngược.
Năm 1527,Mạc Đăng Dung cướp ngôi nhà Lê. Một số triều thần nhà Lê không chịu theo nhà Mạc, liền đứng lên khởi nghĩa âm mưu khôi phục nhà Lê, vì vậy đất nước bị chia cắt Bắc –Nam
Nhà Lê do Nguyễn Kim chịu trách nhiệm trùng hưng,sau bị Trịnh Kiểm là con rể cướp binh quyền,nhà Trịnh lấy danh nghĩa vua Lê đem quân dánh nhà Mạc ,chiến tranh Trịnh Mạc kéo dài 17 năm cuối cùng nhà Trịnh diệt được nhà Mạc.
Con Nguyễn Kim là Nguyễn Hoàng sợ anh rể là Trịnh Kiểm giết chết, xin vào trấn thủ đất Thuận Hóa, sau tự xưng là chúa Nguyễn. Từ 1627-1673,hai họ Trịnh –Nguyễn giao chiến bốn lần lấy sông Gianh làm ranh giới chia đôi đất nước . Đến khi Nguyễn Huệ dựng cờ khởi nghĩa tiêu diệt hai họ Trinh Nguyễn và lật đổ nhà Lê lập ra nhà Tây Sơn thì chiến tranh mới chấm dứt, thống nhất đất nước nhân dân mới được sống cảnh thanh bình.
2.Tác giả :
Thế kỉ XVI có nhiều tác gia lớn như : Nguyễn Dữ, Nguyễn Hàng, Hà Nhậm Đại, Phùng Khắc Khoan,… Trong số đó nổi bật lên tác gia Nguyễn Bỉnh Khiêm với số lượng tác phẩm đồ sộ.
Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491-1585), tên huý là Văn Đạt, hiệu là Bạch Vân cư sĩ, người tỉnh Hải Dương, ông sinh trong một gia đình nho học bình dân. Thân sinh ông là Nguyễn Văn Định nổi tiếng hay chữ. Thuở nhỏ ông được cha dạy chữ, lớn lên theo học thầy là bảng nhãn Lương Đắc Bằng. Lương Đắc Bằng là người am hiểu lí học âm dương, thấy Nguyễn Bỉnh Khiêm tài năng hơn người nên đã truyền dạy cho.
Vì vậy Nguyễn Bỉnh Khiêm là người am hiểu lí học âm dương, thông hiểu mọi sự thịnh suy ở đời.
Nguyễn Bỉnh Khiêm đã để lại một tập thơ chữ Hán ( Bạch Vân am thi tập) một tập thơ chữ Nôm ( Bạch Vân quốc ngữ thi tập),ngoài ra còn có 3 bài kí (Trung Tân quán bi kí, quá kim hải môn kí, Thạch bích kí ) và một bài phú Trung Tân quán ngụ hứng.
II.Vấn đề đạo lí và triết lí trong thơ Nôm của Nguyễn Bỉnh Khiêm
1.Thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm đậm chất triết lí :
Sống trong thời đại loạn lạc, nên ngay từ khi còn làm quan, Nguyễn Bỉnh Khiêm đã viết nhiều bài thơ phê phán chiến tranh phi nghĩa nhằm xâu xé, tranh giành quyền lực của các tập đoàn phong kiến :
Thái hòa vũ trụ bất Ngu,Chu,
Hỗn chiến giao tranh tiếu lưỡng thù.
(Cảnh tượng xã hội chẳng được thái bình như đời Ngu,đời Chu
Đáng cười thay cho hai kẻ thù đánh lẫn nhau)
Điều đó chứng tỏ Nguyễn Bỉnh Khiêm đã tự vươn mình lên cao hơn so với nhũng nhà nho cùng thời để nhận thấy hiện thực đất nước, để nhìn nhận chiến tranh mà các tập đoàn gây ra là phi nghĩa đi ngược lại với lợi ích của nhân dân.Vì thế mà ông cất tiếng cười nhạo bọn chúng .
Chính vì chứng kiến cảnh xâu xé quyền lực giưã các tập đoàn phong kiến nên Nguyễn Bỉnh Khiêm chán nản từ quê về ở ẩn. Sống ở am Bạch Vân, giữa chốn thanh bình,ông có thời gian để ngẫm nghĩ về thế sự, nhân tình và phát hiện ra những quy luật vận động bên trong của đời sống. Vận dụng vốn hiểu biết về âm dương,bát quái, ngũ hành ông phát hiện ra quy luật vận động nội tại của sự sống :
Tái nhất âm hề phục nhất dương,
Tuần hoàn vãng phục lí chi thường
(Trở lại một âm thì có một dương ẩn phục
Tuần hoàn đắp đổi nhau vốn là lẽ thường )
Ông nhìn thấy vũ trụ rộng lớn có sự tồn tại và hài hòa giữa âm và dương, từ đó phát hiện ra quy luật “ tuần hoàn đắp đổi nhau vốn là lẽ thường “. Chính vì thế ông nghiệm sinh lẽ đời dưới con mắt một triết nhân:
Vinh nhục một cơ hằng đắp đổi,
Ăt là từng thấy một hai phen.
(Thơ Nôm, bài39)
Hay:
Thế sự tuần hoàn đắp đổi,
Từng xem thua được một hai phen.
(Thơ Nôm, bài 44)
Vinh-nhục, thắng thua bù trừ lẫn nhau, đó là lẽ thường.Nhận thấy cái lẽ thường ấy mà Nguyễn Bỉnh Khiêm mới đứng cao và xem xét mọi vật để nghiệm về nó, phát hiện ra quy luật bên trong nó.
Khi suy ngẫm về cuộc đời ông phát hiện ra những sự đổi thay to lớn của thời cuộc, thấy được sự đảo lộn của các giá trị truyền thống :
Thế gian biến đổi vũng nên đồi,
Mặn, lạt, chua, cay, lẫn ngọt bùi.
Còn bạc, còn tiền còn đệ tử,
Hết cơm, hết rượu, hết ông tôi.
(Thơ Nôm, bài 71)
Nguyễn Bỉnh Khiêm nhận ra tất cả những giá trị đạo đức trước kia không còn nữa, mà chỉ còn lại đồng tiền với quyền lực vạn năng chi phối tất cả :”Còn bạc, còn tiền, còn đệ tử. Hết cơm, hết rượu, hết ông tôi.” Trước sự thay đổi, xáo trộn như thế, Nguyễn Bỉnh Khiêm còn biết làm gì hơn là cất tiếng than:
Ở thế mới hay người bạc ác,
Gìau thì tìm đến khó thì lui
(Thơ Nôm, bài 71)
Tiếng than ấy chứa đựng cả nỗi đau đời, nỗi bất lực của một nhà nho thanh bạch. Sự bất lực ấy còn thể hiện rõ nét hơn trong bài thơ sau:
Đời nay nhân nghĩa tựa vàng mười,
Có của thì hơn hết mọi lời.
Trước đến tay không, nào thốt hỏi
Sau vào gánh nặng, lại vui cười.
Anh anh, chú chú,cười hơ hải,
Rượu rượu, chè chè,thết tả tơi.
Người của, lấy cân ta tự nhắc ,
Mới hay rằng của nặng hơn người.
(Thơ Nôm, bài 74)
Nhà thơ giật mình thảng thôt khi hay rằng :” của nặng hơn người”. Cái giật mình thang thốt của nhà thơ là dấu hiệu đánh dấu sự thay đổi quá lớn của cuộc đời, sự suy đồi đạo đức của xã hội.Câu kết luận mang theo cái giật mình ấy chứa đựng cả một nỗi đau đời của nhà nho thanh sạch Nguyễn Bỉnh Khiêm.
Để có cái nhìn triết lí ấy, nhà thơ phải đứng trên tư cách một triết nhân để ngẫm nghĩ tìm ra quy luật cuộc đời và thấy được sự thay đổi nội tại của nó. Từ cái nhìn ấy ông mới lên tiếng phê phán những con ngừơi hám danh lợi, bán rẻ anh em, bè bạn :
“Thớt có tanh tao ruồi đậu đến,
Anh không mật kiến mỡ bò chi”
Hay:
Nhị kết, hoa thơm, ong đến đỗ
Mỡ bùi, mật ngọt, kiến nào đi”
Không những thế Nguyễn Bỉnh Khiêm còn khinh miệt và lên án đồng tiền :
“Cơm áo bỗng xui người hóa quỷ,
Oản xôi dễ khiến bụt nên ma”
Và :
“Nghe thôi thinh thỉnh lại đồng tiền “.
Bên cạnh đó ông còn lên án bọn quan tham lam mượn màu đạo :
“Aỉ Tần, non Thục đường nghèo hẻm,
Cửa Khổng, làng Nhan đạo khó khăn”
(Thơ Nôm, bài 29)
Có được cái nhìn chân thực như vậy lạ kết quả của việc trải nghiệm quan trường trong tám năm cuả Nguyễn Bỉnh Khiêm. Thế sự đổi thay, quan trường trở thành chiến trận, cái đạo Nho gia bây giờ sao khó tìm đến thế. Lời than của ông nghe chua xót và bất lực xiết bao.
Tóm lại thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm đậm chất triết lí, bởi đó là sự chiêm nghiệm của ông trong bao nhiêu năm quan sát cuộc đời. Ông khái quát những hiện tượng mà mình quan sát được và phát biểu nó dưới dạng chân lí, vì thế thơ ông mang tính triết lí rất cao. Đọc thơ ông ta phát hiện được một Nguyễn Bỉnh Khiêm- nhà thơ, một Nguyễn Bỉnh Khiêm – triết nhân.
2.Thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm đậm chất đạo lí
Thế kỉ XVI là giai đoạn loạn lạc nhất trong lich sử nước ta, các tập đoàn phong kiến ra sức tranh giành quyền lực nên chiến tranh xảy ra liên miên. Sống trong bối cảnh như vậy, Nguyễn Bỉnh Khiêm đã tận mắt chứng kiến được cảnh loạn lạc của đất nước, thấy được bản chất vô nghĩa của các cuộc chiến đó và hoàn cảnh sống khổ cực của nhân dân :
“Xuyên huyết sơn bài tùy xứ hữu,
Uyên ngư tùng tước vị thùy khu”
Khắp nơi chỗ nào cũng máu chảy thành sông, xương chất thành núi,
Không biết chúng vì ai mà đuổi cá đến tận vực sâu,đuổi chim vào bụi rậm như thế).
Hay trong bài thơ “Thương loạn”Nguyễn Bỉnh Khiêm đã viết :
“Cư ốc chiết vi tân,
Canh ngư đồ nhi thực.
Nhương đoạt phi kỉ hóa,
Hấp dụ phi kỉ sắc.
Kiến hãm trùng đồ thán,
Sở quá sinh kinh cức.
Tiều tụy tư vi thậm,”
Ngụ ý:
(Nhà ở đem bẻ làm củi,
Trâu cày đem mổ thịt ăn,
Cướp của người,
Hiếp đáp và dụ dỗ vợ người,
Chỉ trông thấy cảnh lầm than,
Nơi nào qua là gai bụi,
Tiều tụy đến thế là cùng)
Cảnh giặc hoành hành ,dân tình loạn lạc khiến nhà thơ đau xót mà kêu lên “ Tiều tụy tư vi thậm”.
Nêu ra cảnh khổ cực của dân Nguyễn Bỉnh Khiêm đã phê phán,vạch mặt bản chất phi nghĩa của các cuộc chiến tranh thời bấy giờ.Ông đặt ra câu hỏi mang tính chất phiếm chỉ:” Không biết chúng vì ai”? nhưng trong câu hỏi ấy ngầm lên án bọn vua quan tham tàn thời bấy giờ.
Vì tận mắt chứng kiến và chia sẻ cuộc sống lầm than cuả dân nên Nguyễn Bỉnh Khiêm có cái nhìn hướng về nhân dân,có tư tưởng thân dân.Ông thông cảm với nhân dân,tha thiết mong mau chấm dứt chiến tranh loạn lạc để nhân dân có cuộc sống yên ổn:
“Loạn lạc can qua hận mãn tiền,
Nhân dân bôn thoát dục cầu tuyền.
Điên liên huề bãota vô địa,
Ai hộ căn liên hạnh hữu thiên.
(Hữu cảm)
(Ngán nỗi can qua mãi thế ư!
Nhân dân mong được chốn an cư.
Kéo nhau lũ lượt đi tìm ẩn,
Cứu kẻ phiêu lưu có chỗ nhờ.)
Hay:
“Tặc đình cữu hãm mẫn ngô nhân,
Chửng cứu thùy năng thể chí nhân.
(Cảm hứng)
(Thương dân bi hãm trong khu vực giặc chiếm đã lâu,
Ai có thể cứu vớt thể hiện tấm lòng chí nhân)
Ẩn chứa bên trong những dòng thơ ấy không chỉ có tấm lòng thương dân,thái độ lên án chiến tranh mà còn chứa đựng cả nỗi bất lực của tác giả trước thời thế loạn lạc. Đó là nỗi bất chí của một nhà Nho muốn cứu đời mà không thành,phải lui về ở ẩn giữa cuộc đời;
thương dân nhưng lại bất lực của Nguyễn Bỉnh Khiêm.
“Cổ lai quốc dĩ dân vi bản,
Đắc quốc ưng tri tại đắc dân.”
(Từ xưa đến nay nước lấy dân làm gốc,
Được nước nên biết là ở chỗ được lòng dân.)
Tư tưởng thân dân của ông rất gần với Nguyễn Trãi xưa kia:
“Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân”
(Bình ngô đại cáo)
Tuy nhiên,cũng như các nhà Nho dưới chế độ phong kiến,Nguyễn Bỉnh Khiêm vẫn không thoát ra khỏi tư tưởng trung quân của Nho giáo.Một mặt ông lên án chiến tranh phi nghĩa do các tập đoàn phong kiến gây ra, nhưng mặt khác lại hy vọng vào chế độ phong kiến,mong có được một minh quân để thờ :
“Đã ngoài mọi việc chăng còn ước
Ưóc một tôi hiền chúa thánh minh “
(Thơ Nôm,bài 26)
Dù có tư tưởng tiến bộ, có chí lớn giúp dân,giúp nước,nhưng thời đại loạn lạc nên Nguyễn Bỉnh Khiêm không thể thực hiện được chí lớn của mình.
Bất lực trước thời thế,chán cảnh thành thị xum xoe,Nguyễn Bỉnh Khiêm từ quan về ở ẩn để rồi sớm hôm
“Một mai,một cuốc,một cần câu”
(Nhàn)
Ông vui thú điền viên,sống cuộc đời dân dã.Sau khi về ở ẩn ông dùng ngòi bút của mình để truyền thụ đạo lí,răn dạy cảnh tỉnh người đời.Vì thế thơ ông mang tính đạo lí sâu sắc.
Ngoài ảnh hưởng của Nho giáo,Nguyễn Bỉnh Khiêm còn chịu ảnh hưởng của Phật giáo.Quan niệm chúng sinh bình đẳng,quan niệm luân hồi thấm vào mạch tư tưởng của ông.Thế nên Nguyễn Bỉnh Khiêm thấy được những cảnh trái ngược trong cuộc sống:
Đời nay nhân nghĩa tựa vàng mười,
Có của thì hơn hết mọi lời.
Trước đến tay không nào thốt hỏi,
Sau vào gánh nặng lại vui cười.
Anh anh, chú chú mừng hơ hải,
Rượu rượu chè chè thết tả tơi.”
(Thơ Nôm,bài 86)
Hay:
“Thuở khó dẫu chào chào cũng lảng,
Khi giàu chẳng hỏi ,hỏi thời quen.”
(Thơ Nôm,bài 5)
Chứng kiến cảnh phân biệt giàu nghèo trong xã hội thời bấy giờ,ông đau lòng mà thốt lên:”có của thì hơn hết mọi lời”.Người giàu thì được chào hỏi ,còn người nghèo thì không.Dựng lên cảnh đối lập ấy Nguyễn Bỉnh Khiêm đã đả kích mạnh mẽ vào sự suy vi của đạo đức xã hội bấy giờ.
Cái sự đời bạc bẽo coi trọng tiền bạc, danh phận ấy còn được Nguyễn Bỉnh Khiêm phản ánh sinh động qua nhiều bài thơ khác:
“Gìau: trọng,sang:yêu,khó: chẳng vì.
Nhị kết hoa thơm ong đến đỗ,
Mỡ bùi,mật ngọt kiến nào đi.”
(Thơ Nôm, bài 82)
Hay;
“Đạo nọ nghĩa này trăm tiếng bướm,
Nghe thôi thinh thỉnh lại đồng tiền.”
(Thơ Nôm,bài 5)
Đọc thơ ông ta hình dung ra cái luật sống trên đời,đó là quy luật của đồng tiền,có tiền là có tất cả.Nếm mùi công danh trong tám năm nên Nguyễn Bỉnh Khiêm hiểu rõ chốn quan trường,ông viết:
“Vìdanh cho phải làm danh lụy
Được đạo thì hay đạo có mùi”
(Thơ Nôm,bài 18)
Vì con đường công danh mà lại làm cho danh tiếng mình bị vây bẩn,đạt được cái đạo thánh hiền mới hay đạo ấy không trong sạch.Cái sự oái ăm của sự đời khiến giọng thơ của ông vừa mang tính giễu cợt, lại chua chát bội phần.
Trong cái mỉa mai ấy là thái độ vạch mặt phê phán những kẻ tham tiền,háo danh coi rẻ anh em,bạn bè:
“Cửa vương nhện nhà vì vắng,
Thớt quyến ruồi ấy bởi tanh.”
(Thơ Nôm,bài 26)
Cái tanh quyến ruồi ấy còn gì khác ngoài đồng tiền và danh vị. Nhìn thực trạng ấy Nguyễn Bỉnh Khiêm chua xót mà thốt lên:
“Người của lấy cân ta thử nhắc
Mới hay rằng của nặng hơn người.”
(Thơ Nôm ,bài 74)
Tác giả đem hai đối tượng “người “ (tình) “của” (tiền), đặt lên bàn cân xem thử ra sao để rồi cái sự thật “của nặng hơn người” làm tác giả đau đớn quá mà nở một nụ cười trào lộng, đó là nụ cười “cười ra nước mắt”.
Với những vần thơ này Nguyễn BỉnhKhiêm là người đầu tiên lên tiếng phê phán đồng tiền trong văn chương trung đại, như nhiều nhà phê bình nhận xét.Để rồi ông đi đến két luận:”Đời nay nhân nghĩa tựa vàng mười”.Câu kết đầy hàm xúc ấy cho thấy sức mạnh ghê gớm của đồng tiền,nó làm đảo lộn tất cả mọi đạo lí.Nguyễn Bỉnh Khiêm chỉ mới thấy được sự trái ngược trong xã hội mà “ chưa thấy được thực chất của những hiện tượng đạo lí suy đồi “(Đinh Gia Khánh)
tuy thế đó cũng đã là điều đáng quý trọng ở thơ ông.Bởi thấy được sự suy vi về đạo đức nên Nguyễn Bỉnh Khiêm đã lên tiếng khuyên nhủ người đời không nên tranh đua lẫn nhau:
“Người dữ thì ta miễn có lành
Làm chi đo đắn nhọc đua tranh”
(Thơ Nôm, bài 29)
Ông còn khuyên nhủ những kẻ cậy tài,cậy danh:
“Làm người hay một họa hay hai
Chớ cậy rằng hay chớ cậy tài.”
(Thơ Nôm,bài 65)
Tài năng danh vọng có đừng nên cậy vào đómà khinh thường người khác. Tiền tài với ông là:”số của lưu thông,cắp nắp làm chi cho nhọc lòng”(Thơ Nôm, bài 74).
Vật chất danh lợi với ông chỉ là hư vô,ông hướng đến cái nhàn tản,nhìn thấy được cái lẽ tự nhiên.
Với Nguyễn Bỉnh Khiêm có là không,không là có,vậy làm gì phải khó nhọc đua tranh!Tư tưởng vô thường của Nguyễn Bỉnh Khiêm lúc bấy giờ không mang màu sắc tiêu cực mà màu sắc tích cực, đó là sự phản đối của ông với xã hội.
Có khi Nguyễn Bỉnh Khiêm chê trách sự gian xảo ở đời bằng cách nói đến sự vụng dại của mình:
“Ta dại ta tìm nơi vắng vẻ,
Người khôn người đến chốn lao xao”
(Thơ Nôm,baì 79)
Thông qua việc so sánh thái độ sống của mình với những người khác,ông nhún mình tự nhận là “dại”,tôn người khác là “khôn”
.Nhưng trong cái nhún mình chịu thiệt của ông còn mang cái khinh mạn những kẻ”khôn” mà ông chịu nhún mình ấy,để năng mình lên cao hơn họ. Phản kháng lại xã hội,ông nêu cao khí tiết của bản thân:
“Trời phú tính ở mình ta
Đạo cả cương thường năm mấy bạ “
(Thơ Nôm,bài 145)
“Từng xem sách cũ một hai pho
Mến đạo thề chăng phụ nghiệp Nho”
(Thơ Nôm,bài 27)
Những vần thơ đạo lý của Nguyễn Bỉnh Khiêm cho ta thấy một nhà Nho mực thước, luôn răn dạy đạo đức mong cuộc đời tốt đẹp hơn.
Tóm lại,thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm đậm chất đạo lí. Đó là cái đạo tam cương ngũ thường của Nho gia, là cái đạo luân hồi của nhà Phật,là cái đạo vô vi của đạo gia.Sự kết hợp ba tư tưởng ấy tạo cho thơ ông màu đạo lý thâm thúy,nhưng chủ yếu thơ ông đậm màu đạo lý Nho gia vì ông là một nhà Nho xuất sắc của thời đại nên tư tưởng mang đậm chất Nho gia là lẽ đương nhiên.Tuy nhiên thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm mới chỉ thấy được swjsuy đồi của đạo đức chứ chưa phát hiện được nguyên nhân của sự suy đồi đó
. Ông vẫn hy vọng vào chế độ phong kiến, vẫn răn dạy mọi người trung với vua,vẫn mong một minh quân để thờ… đây là sự hạn chế về mặt tư tưởng của các nhà Nho chưa thể vượt qua được.
III.Nghệ thuật thơ Nôm Nguyễn Bỉnh Khiêm.
Thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm nặng chất triết lí về thế sự,cuộc đời con người nhưng không khô khan. Lời thơ cô đúc như là châm ngôn để làm nổi bật triết lí về cái nhân,thói đời đen bạc,mang tính giáo hóa,giáo huấn .
Ngôn ngữ giản dị,mộc mạc, nhà thơ hay dùng ngụ ngôn,ẩn dụ cho nên thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm gần với ca dao, tục ngữ,thành ngữ .
Hơn thế,câu thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm ít gò bó niêm luật,đặc biệt là thơ Nôm Nguyễn Bỉnh Khiêm đã kế thừa được thơ Nôm Nguyễn Trãi. Cũng sử dụng thể thất ngôn xen lục ngôn, nhưng những câu thơ lục ngôn xuất hiện với tần số nhiều,ngắt cách nhịp, niêm luật không gò bó như thơ luật Đường mà phóng khoáng,cởi mở.nhuần nhị,trong sáng, gần như ngôn ngữ hiện đại chứ không dùng từ cổ nhưu thơ Nguyễn Trãi
Bỉnh Khiêm,Vũ Khâm Lăng đã đánh giá cao những đóng góp lớn của Nguyễn Bỉnh Khiêm. Trong Đại Việt sử loại tạp lục,ông viết :”Trăm năm về trước, trăm năm về sau không ai hơn….tuy ở nhà 44 năm mà lòng không ngày nào quên đời”. Còn Phan Huy Chú thì lại đánh giá rất cao ngôn ngữ thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm , ông cho rằng ngôn ngữ thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm rất giản dị,sâu sắc mà lại đủ ý : Văn chương của ông xuất ở tự nhiên , nói gì thành văn, không cần gọt giũa,giản dị mà đủ ý, thanh đạm mà có vị.
Nhóm 8:
Nguyễn Thị Thu Huyền
Hồ Thị Niềm
Đặng Thị Thiên
Nguyễn Thị Linh Dung
Võ Thị Oanh
Phan Thị Nga
Nguyễn Thị Tâm
* Một số tài liệu cũ có thể bị lỗi font khi hiển thị do dùng bộ mã không phải Unikey ...
Người chia sẻ: Lê Long
Dung lượng: |
Lượt tài: 0
Loại file:
Nguồn : Chưa rõ
(Tài liệu chưa được thẩm định)