MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ GIÁO DỤC PHÁP LUẬT
Chia sẻ bởi Nguyễn Ngọc Anh Khoa |
Ngày 02/05/2019 |
82
Chia sẻ tài liệu: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ GIÁO DỤC PHÁP LUẬT thuộc Bài giảng khác
Nội dung tài liệu:
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
Phần thứ nhất
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG
VỀ CÔNG TÁC PHỔ BIẾN,
GIÁO DỤC PHÁP LUẬT
Báo cáo viên: TS. Trần Văn Thắng
Đà Nẵng, tháng 9 năm 2013
I- NHỮNG NỘI DUNG CƠ BẢN VỀ CÔNG TÁC PHỔ BIẾN, GIÁO DỤC PHÁP LUẬT
1. Các thuật ngữ
Tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật là các hoạt động nhằm nâng cao ý thức pháp luật của nhân dân.
1.1. Tuyên truyền pháp luật
Tuyên truyền pháp luật là việc công bố, giới thiệu rộng rãi nội dung của pháp luật để mọi người biết, động viên, thuyết phục để mọi người tin tưởng và thực hiện đúng pháp luật.
1.2. Phổ biến pháp luật
PBPL là việc truyền đạt nội dung pháp luật đến mọi người để thực hiện pháp luật trong thực tế.
PBPL thường được thực hiện thông qua các hội nghị, các cuộc tập huấn vv...
1.3. Giáo dục pháp luật
GDPL là quá trình hoạt động có ý thức, có mục đích, có kế hoạch, có tổ chức nhằm bồi dưỡng cho công dân ý thức tôn trọng pháp luật trong đời sống.
2. Mục đích của PBGDPL
- Trang bị tri thức pháp luật cho công dân (mục đích nhận thức).
- Hình thành lòng tin vào pháp luật (mục đích cảm xúc).
- Hình thành động cơ và hành vi tích cực theo pháp luật.
→ Hình thành những thói quen thực hiện pháp luật:
+ Thói quen tuân thủ pháp luật.
+ Thói quen thi hành pháp luật.
+ Thói quen sử dụng pháp luật.
3. Chủ thể trực tiếp PBGDPL
- Báo cáo viên, tuyên truyền viên
- Giáo viên, giảng viên
4. Các hình thức PBGDPL
- Họp báo, thông cáo báo chí.
- Phổ biến pháp luật trực tiếp; tư vấn, hướng dẫn tìm hiểu pháp luật; cung cấp thông tin, tài liệu pháp luật.
- Thông qua các phương tiện thông tin đại chúng.
- Tổ chức thi tìm hiểu pháp luật.
- Lồng ghép trong hoạt động văn hóa, văn nghệ, sinh hoạt của tổ chức chính trị và các đoàn thể, câu lạc bộ, tủ sách pháp luật và các thiết chế văn hóa khác ở cơ sở.
- Thông qua chương trình giáo dục pháp luật trong các cơ sở giáo dục của hệ thống giáo dục quốc dân.
II- NGÀNH GIÁO DỤC VỚI CÔNG TÁC PBGDPL
1. Đặc điểm của ngành Giáo dục liên quan đến công tác PBGDPL
1.1. Mục tiêu giáo dục toàn diện đòi hỏi phải tiến hành PBGDPL
Ngành Giáo dục có trọng trách lớn lao đối với sự phát triển toàn diện con người Việt Nam, trong đó có việc hình thành ý thức pháp luật, văn hoá pháp lí trong nhân dân. Hoạt động giáo dục pháp luật là một hoạt động giáo dục.
1.2. Vị trí quan trọng của người học trong xã hội
Một là, vì có số lượng đông.
Hai là, vị trí tương lai của người học.
Ba là, người học có ý thức pháp luật tốt sẽ lan toả, ảnh hưởng đến những người xung quanh.
1.3. Hệ thống cơ sở giáo dục rộng khắp
1.4. Đội ngũ nhà giáo, cán bộ quản lí đông đảo, có điều kiện và khả năng tham gia PBGDPL
2. Đối tượng PBGDPL trong ngành Giáo dục
Hai nhóm chính: người học và cán bộ, công chức, người lao động.
Người học là lớp người trẻ tuổi của xã hội, là tầng lớp xã hội chiếm số lượng không nhỏ trong dân số của quốc gia. → sẽ là chủ nhân tương lai của đất nước.
3. Một số vấn đề cơ bản cần quan tâm trong công tác PBGDPL của ngành Giáo dục
3.1. Xây dựng nhận thức đúng về vị trí, vai trò của công tác PBGDPL trong ngành Giáo dục
Một là, PBGDPL là nhiệm vụ chính thức, có ý nghĩa quan trọng đối với tất cả các cơ quan quản lí giáo dục và các cơ sở giáo dục; các cơ quan nhà nước và các tổ chức đoàn thể trong toàn ngành.
Hai là, PBGDPL trong ngành Giáo dục bao gồm cả đối tượng người học và đối tượng nhà giáo, người lao động khác.
Ba là, nâng cao chất lượng công tác PBGDPL trong ngành phải bao gồm cả nâng cao chất lượng giảng dạy các nội dung pháp luật trong chương trình chính khóa, cả nâng cao chất lượng các hoạt động tuyên truyền, phổ biến và các hoạt động ngoại khoá.
Bốn là, PBGDPL phải được tiến hành thường xuyên, liên tục gắn với việc thực hành pháp luật và nêu gương thực hiện pháp luật trong thực tiễn.
Năm là, PBGDPL phải được tổ chức một cách hệ thống với sự phân công, phối hợp chặt chẽ giữa các chủ thể; phải có kế hoạch riêng với điều kiện bảo đảm về pháp lí, về vật chất, về con người dưới sự lãnh đạo trực tiếp của tổ chức Đảng các cấp.
Sáu là, kết hợp chặt chẽ giữa PBGDPL với giáo dục đạo đức, xây dựng môi trường văn hoá và xử lí nghiêm minh các hành vi vi phạm pháp luật; kết hợp giữa giáo dục ở nhà trường với gia đình và xã hội.
3.2. Xây dựng đội ngũ cán bộ làm công tác PBGDPL pháp luật
- Cán bộ phụ trách công tác PBGDPL;
- Giáo viên, giảng viên giảng dạy Giáo dục công dân, Pháp luật.
- Việc xây dựng và nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên, giảng viên GDCD, Pháp luật cả về kiến thức chuyên môn và phương pháp giảng dạy phải là lựa chọn ưu tiên trong kế hoạch công tác PBGDPL ở các cấp.
Cần bổ sung, chuẩn hoá đội ngũ theo hướng:
+ Bổ sung giáo viên, giảng viên đúng chuyên ngành;
+ Bồi dưỡng chuẩn hoá giáo viên, giảng viên không đúng chuyên ngành.
+ Tập huấn thường xuyên về nghiệp vụ sư phạm, văn bản pháp luật mới: tập huấn hè, tập huấn theo chu kỳ và tập huấn để quán triệt văn bản mới phục vụ cho việc giảng dạy.
+ Tổ chức thi giáo viên giỏi môn GGCD bằng nhiều hình thức sinh động.
3.3. Bảo đảm điều kiện vật chất cho công tác phổ biến, giáo dục pháp luật
- Sách giáo khoa.
- Các tài liệu phổ biến, giáo dục pháp luật:
+ Sách hỏi đáp pháp luật;
+ Sách hệ thống hoá văn bản theo từng chủ đề, từng thời gian;
+ Tài liệu về các tình huống pháp luật;
+ Các tờ gấp, tờ rơi…
- Tủ sách pháp luật.
- Thiết bị dạy học.
III- MỘT SỐ KĨ NĂNG CƠ BẢN TRONG PBGDPL PHÁP LUẬT
1. Những yêu cầu đối với cán bộ, giáo viên làm công tác phổ biến, giáo dục pháp luật
1.1. Về kiến thức pháp luật
- Có hiểu biết về kiến thức pháp luật và hiểu biết rộng về kiến thức xã hội; hiểu biết về đối tượng tuyên truyền.
- Nắm vững những vấn đề liên quan đến lĩnh vực mà các văn bản pháp luật điều chỉnh;
- Hiểu được ý nghĩa, bản chất pháp lí của vấn đề mà các văn bản điều chỉnh, sự cần thiết phải ban hành văn bản;
- Hiểu rõ đối tượng, phạm vi, nội dung điều chỉnh của văn bản;
- Hiểu rõ ý nghĩa của các quy phạm, tác dụng điều chỉnh của từng quy phạm, các chế tài…
1.2. Về kĩ năng
- Kĩ năng tìm hiểu: nắm vững đối tượng.
- Kĩ năng lắng nghe: chú ý lắng nghe, tỏ thái độ quan tâm đến những vấn đề của người được tuyên truyền trao đổi; khuyến khích người nghe phát biểu ý kiến.
- Kĩ năng quan sát: sử dụng các giác quan như mắt nhìn, tai nghe…
- Kĩ năng truyền đạt: sử dụng ngôn ngữ đơn giản, rõ ràng, phù hợp, kết hợp, nêu các ví dụ cụ thể, gần gũi…
- Kĩ năng động viên: động viên, thông cảm với người được truyền thông; động viên, thu hút những người rụt rè tham gia…
1.3. Các yêu cầu khác
- Có sự nhiệt tình, tâm huyết, tận tụy.
- Có khả năng nói và viết.
- Có khả năng hòa đồng và giao tiếp.
- Có kiến thức nhất định về tâm lí học tuyên truyền.
- Có hiểu biết về văn hóa, phong tục tập quán, điều kiện xã hội của mỗi địa bàn dân tộc, mỗi vùng miền nhất định.
2. Một số kĩ năng tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật
2.1. Kĩ năng tuyên truyền miệng
2.1.1. Khái niệm, vị trí, vai trò của tuyên truyền miệng trong các hình thức tuyên truyền pháp luật
Một hình thức tuyên truyền mà người nói trực tiếp nói với người nghe về pháp luật, trong đó chủ yếu là các văn bản pháp luật nhằm nâng cao nhận thức về pháp luật, niềm tin vào pháp luật và ý thức pháp luật cho người nghe; kích thích người nghe hành động theo các chuẩn mực pháp luật.
Tuyên truyền miệng gắn bó chặt chẽ với nhiều hình thức tuyên truyền khác và là bộ phận không thể thiếu, không thể tách rời trong tổng thể các hình thức tuyên truyền pháp luật, thông qua hội nghị, hội thảo, tập huấn, sinh hoạt câu lạc bộ pháp luật.
Ưu thế của tuyên truyền miệng:
+ Linh hoạt, có thể tiến hành ở bất cứ nơi nào, trong bất kì điều kiện nào, với số lượng người nghe bao nhiêu.
+ Người nói có điều kiện thuận lợi để giải thích, phân tích, làm sáng tỏ nội dung cần tuyên truyền; có thể hỏi đáp trực tiếp để đáp ứng tối đa yêu cầu của đối tượng.
+ Người nói có thể biểu lộ thái độ, tình cảm của mình trước người nghe, kết hợp lời nói với cử chỉ... để diễn đạt nội dung nên hiệu quả tuyên truyền được nâng cao và tính chính xác cao.
2.1.2. Phương thức tổ chức một số hình thức tuyên truyền miệng pháp luật
a) Mở các lớp tập huấn
Nội dung tập huấn có thể là một hoặc nhiều văn bản pháp luật. Ví dụ:…
Ở các lớp tập huấn, giảng viên không chỉ giới thiệu về các nội dung cơ bản của văn bản mà phải đi sâu vào những vấn đề liên quan đến các lĩnh vực nghiệp vụ nhất định: thẩm quyền của các chủ thể, các biện pháp quản lý, thủ tục tiến hành các công việc. Chú trọng đổi mới phương pháp tập huấn, kết hợp phương pháp truyền thống và phương pháp hiện đại, có sự trao đổi qua lại giữa học viên và giảng viên, huy động tính tích cực tham gia của học viên; kết hợp với các phương tiện hỗ trợ như tranh ảnh, băng hình để buổi tập huấn sinh động, người học dễ tiếp thu và biết vận dụng thành thạo trong thực tiễn.
b) Nói chuyện chuyên đề về pháp luật
Thường là một buổi nói về một lĩnh vực chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa, quản lí... gắn với một số chế định, ngành luật.
Báo cáo viên trong các buổi nói chuyện chuyên đề phải là người có kiến thức chuyên ngành sâu rộng về lĩnh vực được trình bày và am hiểu pháp luật.
Khi tổ chức một buổi nói chuyện chuyên đề nói chung và chuyên đề pháp luật nói riêng, người ta thường gắn vào các sự kiện chính trị, thời sự, những ngày có ý nghĩa lịch sử...
c) Tuyên truyền miệng cá biệt
Là hình thức tuyên truyền miệng về pháp luật mà đối tượng (người nghe) chỉ có một hoặc vài ba người.
Tuyên truyền cá biệt thường cung cấp cho người nghe những nội dung pháp luật cụ thể; vận dụng pháp luật trong những trường hợp, hoàn cảnh cụ thể mà người nghe đang quan tâm. Tuyên truyền miệng về pháp luật thường được sử dụng trong trường hợp người thừa hành pháp luật làm việc với đối tượng của mình; người tư vấn pháp luật hướng dẫn, giải thích cho người được tư vấn; cán bộ trợ giúp pháp lý hướng dẫn, trợ giúp pháp luật cho người được trợ giúp...
Trong tuyên truyền cá biệt, người nói phải căn cứ từng đối tượng mà có biện pháp tuyên truyền thích hợp; tìm hiểu sâu hoàn cảnh, truyền thống của gia đình họ, vận dụng đạo lý, phong tục, tập quán, mục đích, ý nghĩa của các quy phạm pháp luật để giải thích, thuyết phục họ.
Cán bộ làm công tác tuyên truyền pháp luật cần chuẩn bị các nội dung sau:
- Các quy định pháp luật liên quan đến sự việc của đương sự;
- Dự kiến tình huống, câu hỏi mà đương sự có thể hỏi, chất vấn;
- Phong tục, tập quán ở địa phương, đạo lí và những kiến thức xã hội có thể phải vận dụng;
- Nhân thân đương sự: Hiểu biết, ý thức chấp hành pháp luật của đương sự trước đây; điều kiện, hoàn cảnh, truyền thống gia đình, nguyện vọng... của đương sự.
Khi tuyên truyền cá biệt đòi hỏi phải:
- Vận dụng kĩ năng tuyên truyền miệng hết sức tinh tế.
- Người nói còn phải là người nhạy cảm, tâm lí và có kinh nghiệm trong công tác này.
- Để thuyết phục người nghe tin ở pháp luật thì người nói phải thể hiện để người nghe tin mình là một cán bộ, công chức tốt (không có biểu hiện tham nhũng, cửa quyền, hách dịch, gây phiền hà, có trách nhiệm với công việc, liêm khiết...).
Mục đích của tuyên truyền cá biệt: thông qua việc vận dụng pháp luật vào một hoàn cảnh, sự việc cụ thể để nâng cao niềm tin, ý thức chấp hành pháp luật của người nghe. Người nói phải am hiểu pháp luật, hiểu biết đời sống xã hội, có sự cảm thông sâu sắc với cuộc sống của đối tượng.
2.1.4. Kĩ năng tuyên truyền miệng về pháp luật
a) Gây thiện cảm ban đầu cho người nghe
Thiện cảm ban đầu tạo ra sự hứng thú, say mê của người nghe, củng cố được niềm tin về vấn đề đang tuyên truyền. Lý lịch của người nói, hình thức, phong thái, lời giao tiếp ban đầu đều có ý nghĩa quan trọng đối với việc gây thiện cảm cho người nghe.
b) Tạo sự hấp dẫn, gây ấn tượng trong khi nói
Nghệ thuật tuyên truyền miệng là tạo sự hấp dẫn, gây ấn tượng bằng giọng nói, điệu bộ, ngôn ngữ. Giọng nói cần rõ ràng, mạch lạc và truyền cảm.
Động tác, điệu bộ, vẻ mặt cần phải phù hợp với nội dung và giọng nói. Cần đưa ra số liệu, sự kiện để minh họa, đặt câu hỏi để tăng thêm sự chú ý của người nghe.
Người nói cũng cần phát huy vai trò thông tin, truyền cảm của ngôn ngữ bằng cách sử dụng chính xác, đúng mức thuật ngữ pháp lí, thuật ngữ chuyên ngành và ngôn ngữ bình dân.
Việc sử dụng hợp lí, chính xác ý tứ, hình ảnh trong kinh điển, thơ văn, ca dao, dân ca vào buổi tuyền truyền pháp luật cũng làm tăng tính hấp dẫn, thuyết phục đối với người nghe.
c) Bảo đảm các nguyên tắc sư phạm trong tuyên truyền miệng
Người nói cần tôn trọng các nguyên tắc sư phạm. Từ bố cục bài nói, diễn đạt các đoạn văn, liên kết giữa các đoạn văn, đến cách nói đều phải rõ ràng, mạch lạc, lôgic. Người nghe cần được dẫn dắt từ dễ đến khó, từ đơn giản đến phức tạp, từ gần đến xa (phương pháp suy diễn) hoặc từ xa đến gần (phương pháp quy nạp). Cần phải luôn chú ý bám sát trọng tâm của vấn đề.
d) Sử dụng phương pháp thuyết phục trong tuyên truyền miệng
Tuyên truyền miệng về pháp luật chủ yếu dùng phương pháp thuyết phục với ba bộ phận cấu thành là chứng minh, giải thích và phân tích.
- Chứng minh là cách thuyết phục chủ yếu dựa vào các dẫn chứng xác thực để làm sáng tỏ và xác nhận tính đúng đắn của vấn đề. Các dẫn chứng đưa ra gồm số liệu, sự kiện, hiện tượng, nhân chứng, danh ngôn, kinh điển.
- Giải thích là việc dùng lí lẽ để giảng giải giúp người nghe hiểu rõ và hiểu đúng vấn đề. Lập luận trong khi giải thích phải chặt chẽ, chính xác, mạch lạc, khúc triết, không ngụy biện.
- Phân tích là mổ xẻ vấn đề nhằm tìm được đặc điểm, bản chất, điểm mạnh, điểm yếu, điểm tốt, điểm xấu, sự phù hợp, không phù hợp.... của vấn đề.
2.1.5. Các bước tiến hành một buổi tuyên truyền miệng về pháp luật
a) Bước chuẩn bị: gồm 5 nội dung chính sau đây:
- Nắm vững đối tượng tuyên truyền:
Cần phải biết là nói với ai để nói như thế nào. Nghệ thuật tuyên truyền trước hết là nghệ thuật nắm vững đối tượng tuyên truyền:
- Số lượng, thành phần; trình độ văn hoá; tình hình thực hiện pháp luật ở cơ sở đó; ý thức pháp luật, nhu cầu tìm hiểu pháp luật của đối tượng.
- Có thể nắm vững đối tượng bằng phương pháp trực tiếp (tự điều tra, tìm hiểu, gặp gỡ, hỏi han, quan sát...) hoặc bằng phương pháp gián tiếp (qua các tài liệu, sách báo, báo cáo, tổng kết, trao đổi với những người làm công tác quản lý, phản ảnh của người tổ chức buổi tuyên truyền...).
[email protected]
22121977
- Nắm vững nội dung văn bản. Cụ thể là:
+ Hiểu rõ ý nghĩa, bản chất pháp lí của vấn đề được văn bản điều chỉnh, sự cần thiết phải ban hành văn bản;
+ Hiểu rõ đối tượng điều chỉnh, phạm vi điều chỉnh của văn bản;
+ Hiểu rõ ý nghĩa của các quy phạm, đặc biệt là ý nghĩa về mặt quản lí Nhà nước, về tác dụng điều chỉnh của từng quy phạm cụ thể.
- Sưu tầm các tài liệu dẫn chứng, minh họa.
- Chuẩn bị đề cương:
Đề cương phải đầy đủ về nội dung, thích hợp với đối tượng, chặt chẽ về bố cục, rõ ràng về lập luận. Cần chú ý:
+ Lựa chọn vấn đề cốt lõi của văn bản, liên hệ với hệ thống pháp luật để làm rõ mối quan hệ của văn bản với hệ thống pháp luật.
+ Toàn bộ các phần trong bài nói phải có mối quan hệ hữu cơ với nhau: từ yêu cầu, nhiệm vụ của văn bản, quyền và nghĩa vụ của các chủ thể, chế tài đối với người vi phạm ra sao... để đạt được yêu cầu nhiệm vụ của văn bản.
b) Tiến hành buổi tuyên truyền miệng về pháp luật
Một buổi tuyên truyền miệng về pháp luật thường có các phần sau:
- Vào đề: Nhằm giới thiệu vấn đề, khơi gợi nhu cầu của đối tượng, thiết lập quan hệ giữa người nói với người nghe. Gợi ra nhu cầu tìm hiểu ý nghĩa, sự cần thiết phải ban hành văn bản, phải có pháp luật để điều chỉnh vấn đề đang tuyên truyền.
- Nội dung: Là phần chủ yếu của buổi tuyên truyền, làm cho đối tượng hiểu, nắm được nội dung, chuyển biến nhận thức, nâng cao ý thức cho đối tượng.
Cần chú ý:
- Trình bày theo cách nào là thích hợp nhất.
- Nêu những vấn đề gì là cơ bản, cốt lõi, trọng tâm để người nghe nắm được nội dung văn bản.
- Có trọng tâm, trọng điểm, phương pháp trình bày phù hợp với từng đối tượng. Ví dụ: Với những người phải chấp hành pháp luật thì dùng phương pháp diễn giải là phù hợp. Cần nêu bản chất, ý nghĩa của vấn đề, mục đích, sự cần thiết phải ban hành văn bản, ý nghĩa của các quy phạm liên quan đến từng đối tượng thi hành trong văn bản.
- Phần kết luận:
+ Tóm tắt những vấn đề cơ bản đã tuyên truyền. Tuỳ từng đối tượng mà nêu những vấn đề cần lưu ý đối với họ.
+ Trả lời câu hỏi của người nghe: Cần dành thời gian cần thiết trả lời các câu hỏi mà người nghe quan tâm, chưa hiểu rõ.
2.1.6. Xây dựng kế hoạch tổ chức một buổi tuyên truyền miệng
Người làm công tác tuyên truyền pháp luật phải xây dựng kế hoạch tổ chức những buổi tuyên truyền về pháp luật để:
- Trình người lãnh đạo trực tiếp phê duyệt;
- Thông báo cho các đơn vị liên quan (nếu có);
Yêu cầu đối với bản kế hoạch là: đầy đủ, cụ thể, rõ ràng, ngắn gọn.
Ngoài phần tiêu đề, bản kế hoạch phải có những nội dung chính sau đây:
- Mục đích;
- Đối tượng: thành phần, số lượng, đặc điểm của đối tượng về giới tính, nghề nghiệp, độ tuổi…;
- Nội dung;
- Thời gian, địa điểm;
- Báo cáo viên;
- Công tác chuẩn bị;
- Kinh phí.
3. Kĩ năng biên soạn đề cương tuyên truyền pháp luật
3.1. Một số vấn đề chung
3.1.1. Yêu cầu của việc xây dựng đề cương
Về hình thức: Bố cục đề cương phải rõ ràng, chặt chẽ, hợp lí. Ngôn ngữ được sử dụng trong đề cương phải là ngôn ngữ đại chúng, cách hành văn giản dị, trong sáng, dễ hiểu. Diễn đạt phải mạch lạc, súc tích, ngắn gọn.
Về nội dung: Đề cương phải tạo điều kiện cho người sử dụng hiểu đúng mục đích, ý nghĩa của việc ban hành văn bản pháp luật, hiểu chính xác quy định của pháp luật, nắm được nội dung chính, những vấn đề trọng tâm của văn bản pháp luật, cách vận dụng văn bản trong thực tiễn.
3.1.2. Nội dung cơ bản của Đề cương
Đề cương tuyên truyền một văn bản pháp luật thường bao gồm 3 phần chính:
Phần 1. Những vấn đề chung
Phần này thường nêu sự cần thiết, mục đích, ý nghĩa của việc ban hành văn bản, vị trí, vai trò của văn bản trong việc điều chỉnh các quan hệ xã hội.
Quan điểm và những nguyên tắc chỉ đạo việc xây dựng văn bản pháp luật; tư tưởng chủ đạo và yêu cầu của công tác quản lí nhà nước, quản lí xã hội và yêu cầu của chính sách đối ngoại của Đảng và nhà nước ta.
Phần 2. Giới thiệu văn bản
Phần đầu của đề cương phải giới thiệu bố cục của văn bản với nguyên văn tên các phần, chương, mục để người đọc khái quát được nội dung của văn bản pháp luật đó.
Nội dung chủ yếu của văn bản:
- Nhiệm vụ của văn bản;
- Đối tượng điều chỉnh, phạm vi điều chỉnh của văn bản;
- Những nguyên tắc chung chi phối các quy định trong văn bản;
- Những vấn đề được đề cập trong nội dung văn bản, ý nghĩa các quy phạm, chế định trong văn bản;
- Những điểm mới trong văn bản so với pháp luật hiện hành, những điểm sửa đổi, bổ sung, lí do sửa đổi, bổ sung, ý nghĩa của việc sửa đổi, bổ sung. Khi cần thiết có thể nêu một số vấn đề gây tranh luận, những vấn đề đang tồn tại;
- Quyền, nghĩa vụ của các chủ thể và những người có liên quan, các quy định, thủ tục phải thực hiện;
- Vị trí của văn bản trong hệ thống pháp luật hiện hành, các văn bản sẽ ban hành kèm theo (nếu có).
Phần 3. Tổ chức thực hiện
Cần làm rõ các vấn đề:
- Đưa ra các gợi ý về biện pháp tổ chức thực hiện, phương pháp và hình thức tuyên truyền đối với từng loại đối tượng, từng địa bàn căn cứ vào nhu cầu của đối tượng và điều kiện kinh tế - xã hội của địa phương; đặc biệt là tập trung quan tâm đến đối tượng cần chú trọng tuyên truyền;
- Phương hướng phối hợp giữa các ngành hữu quan và các cơ quan thông tin đại chúng trong việc tổ chức tuyên truyền văn bản.
Phần 4. Phụ lục (nếu có)
3.1.3. Các bước cần thiết để viết Đề cương
Bước 1: Chuẩn bị
- Nghiên cứu văn bản pháp luật mới ban hành hoặc sửa đổi, bổ sung.
- Thu thập và nghiên cứu kĩ các tài liệu có liên quan trong quá trình xây dựng văn bản như: tờ trình về việc ban hành văn bản; báo cáo tổng hợp ý kiến đóng góp cho dự thảo văn bản; các văn kiện của Đảng, chính sách của nhà nước; yêu cầu thực tế khách quan liên quan đến những nội dung cần sửa đổi, bổ sung (đối với văn bản sửa đổi, bổ sung).
- Tìm hiểu đối tượng sử dụng, mục đích sử dụng đề cương để đưa ra các hướng dẫn, chỉ đạo cách thức, biện pháp tuyên truyền thích hợp.
- Nghiên cứu tình hình kinh tế - xã hội, phong tục, truyền thống, tình hình vi phạm pháp luật, yêu cầu quản lý để phân tích các vấn đề nêu ra trong văn bản đã đáp ứng được những đòi hỏi của xã hội và yêu cầu của công tác quản lý trong lĩnh vực đó.
Bước 2: Biên soạn đề cương.
Trước khi viết một đề cương hoàn chỉnh, thường xây dựng bố cục đề cương chi tiết. Sau khi lãnh đạo thông qua bố cục đề cương, có thể:
- Trực tiếp biên soạn bằng cách dựa trên cơ sở đề cương chi tiết và các tài liệu đã được nghiên cứu để viết đề cương tuyên truyền văn bản pháp luật.
- Phối hợp với các cơ quan chuyên môn tham gia soạn thảo văn bản đề nghị viết theo bố cục đề cương chi tiết.
Bước 3: Biên tập đề cương.
Bước 4: Hoàn chỉnh, in ấn và gửi cho các đối tượng sử dụng
Phần thứ nhất
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG
VỀ CÔNG TÁC PHỔ BIẾN,
GIÁO DỤC PHÁP LUẬT
Báo cáo viên: TS. Trần Văn Thắng
Đà Nẵng, tháng 9 năm 2013
I- NHỮNG NỘI DUNG CƠ BẢN VỀ CÔNG TÁC PHỔ BIẾN, GIÁO DỤC PHÁP LUẬT
1. Các thuật ngữ
Tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật là các hoạt động nhằm nâng cao ý thức pháp luật của nhân dân.
1.1. Tuyên truyền pháp luật
Tuyên truyền pháp luật là việc công bố, giới thiệu rộng rãi nội dung của pháp luật để mọi người biết, động viên, thuyết phục để mọi người tin tưởng và thực hiện đúng pháp luật.
1.2. Phổ biến pháp luật
PBPL là việc truyền đạt nội dung pháp luật đến mọi người để thực hiện pháp luật trong thực tế.
PBPL thường được thực hiện thông qua các hội nghị, các cuộc tập huấn vv...
1.3. Giáo dục pháp luật
GDPL là quá trình hoạt động có ý thức, có mục đích, có kế hoạch, có tổ chức nhằm bồi dưỡng cho công dân ý thức tôn trọng pháp luật trong đời sống.
2. Mục đích của PBGDPL
- Trang bị tri thức pháp luật cho công dân (mục đích nhận thức).
- Hình thành lòng tin vào pháp luật (mục đích cảm xúc).
- Hình thành động cơ và hành vi tích cực theo pháp luật.
→ Hình thành những thói quen thực hiện pháp luật:
+ Thói quen tuân thủ pháp luật.
+ Thói quen thi hành pháp luật.
+ Thói quen sử dụng pháp luật.
3. Chủ thể trực tiếp PBGDPL
- Báo cáo viên, tuyên truyền viên
- Giáo viên, giảng viên
4. Các hình thức PBGDPL
- Họp báo, thông cáo báo chí.
- Phổ biến pháp luật trực tiếp; tư vấn, hướng dẫn tìm hiểu pháp luật; cung cấp thông tin, tài liệu pháp luật.
- Thông qua các phương tiện thông tin đại chúng.
- Tổ chức thi tìm hiểu pháp luật.
- Lồng ghép trong hoạt động văn hóa, văn nghệ, sinh hoạt của tổ chức chính trị và các đoàn thể, câu lạc bộ, tủ sách pháp luật và các thiết chế văn hóa khác ở cơ sở.
- Thông qua chương trình giáo dục pháp luật trong các cơ sở giáo dục của hệ thống giáo dục quốc dân.
II- NGÀNH GIÁO DỤC VỚI CÔNG TÁC PBGDPL
1. Đặc điểm của ngành Giáo dục liên quan đến công tác PBGDPL
1.1. Mục tiêu giáo dục toàn diện đòi hỏi phải tiến hành PBGDPL
Ngành Giáo dục có trọng trách lớn lao đối với sự phát triển toàn diện con người Việt Nam, trong đó có việc hình thành ý thức pháp luật, văn hoá pháp lí trong nhân dân. Hoạt động giáo dục pháp luật là một hoạt động giáo dục.
1.2. Vị trí quan trọng của người học trong xã hội
Một là, vì có số lượng đông.
Hai là, vị trí tương lai của người học.
Ba là, người học có ý thức pháp luật tốt sẽ lan toả, ảnh hưởng đến những người xung quanh.
1.3. Hệ thống cơ sở giáo dục rộng khắp
1.4. Đội ngũ nhà giáo, cán bộ quản lí đông đảo, có điều kiện và khả năng tham gia PBGDPL
2. Đối tượng PBGDPL trong ngành Giáo dục
Hai nhóm chính: người học và cán bộ, công chức, người lao động.
Người học là lớp người trẻ tuổi của xã hội, là tầng lớp xã hội chiếm số lượng không nhỏ trong dân số của quốc gia. → sẽ là chủ nhân tương lai của đất nước.
3. Một số vấn đề cơ bản cần quan tâm trong công tác PBGDPL của ngành Giáo dục
3.1. Xây dựng nhận thức đúng về vị trí, vai trò của công tác PBGDPL trong ngành Giáo dục
Một là, PBGDPL là nhiệm vụ chính thức, có ý nghĩa quan trọng đối với tất cả các cơ quan quản lí giáo dục và các cơ sở giáo dục; các cơ quan nhà nước và các tổ chức đoàn thể trong toàn ngành.
Hai là, PBGDPL trong ngành Giáo dục bao gồm cả đối tượng người học và đối tượng nhà giáo, người lao động khác.
Ba là, nâng cao chất lượng công tác PBGDPL trong ngành phải bao gồm cả nâng cao chất lượng giảng dạy các nội dung pháp luật trong chương trình chính khóa, cả nâng cao chất lượng các hoạt động tuyên truyền, phổ biến và các hoạt động ngoại khoá.
Bốn là, PBGDPL phải được tiến hành thường xuyên, liên tục gắn với việc thực hành pháp luật và nêu gương thực hiện pháp luật trong thực tiễn.
Năm là, PBGDPL phải được tổ chức một cách hệ thống với sự phân công, phối hợp chặt chẽ giữa các chủ thể; phải có kế hoạch riêng với điều kiện bảo đảm về pháp lí, về vật chất, về con người dưới sự lãnh đạo trực tiếp của tổ chức Đảng các cấp.
Sáu là, kết hợp chặt chẽ giữa PBGDPL với giáo dục đạo đức, xây dựng môi trường văn hoá và xử lí nghiêm minh các hành vi vi phạm pháp luật; kết hợp giữa giáo dục ở nhà trường với gia đình và xã hội.
3.2. Xây dựng đội ngũ cán bộ làm công tác PBGDPL pháp luật
- Cán bộ phụ trách công tác PBGDPL;
- Giáo viên, giảng viên giảng dạy Giáo dục công dân, Pháp luật.
- Việc xây dựng và nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên, giảng viên GDCD, Pháp luật cả về kiến thức chuyên môn và phương pháp giảng dạy phải là lựa chọn ưu tiên trong kế hoạch công tác PBGDPL ở các cấp.
Cần bổ sung, chuẩn hoá đội ngũ theo hướng:
+ Bổ sung giáo viên, giảng viên đúng chuyên ngành;
+ Bồi dưỡng chuẩn hoá giáo viên, giảng viên không đúng chuyên ngành.
+ Tập huấn thường xuyên về nghiệp vụ sư phạm, văn bản pháp luật mới: tập huấn hè, tập huấn theo chu kỳ và tập huấn để quán triệt văn bản mới phục vụ cho việc giảng dạy.
+ Tổ chức thi giáo viên giỏi môn GGCD bằng nhiều hình thức sinh động.
3.3. Bảo đảm điều kiện vật chất cho công tác phổ biến, giáo dục pháp luật
- Sách giáo khoa.
- Các tài liệu phổ biến, giáo dục pháp luật:
+ Sách hỏi đáp pháp luật;
+ Sách hệ thống hoá văn bản theo từng chủ đề, từng thời gian;
+ Tài liệu về các tình huống pháp luật;
+ Các tờ gấp, tờ rơi…
- Tủ sách pháp luật.
- Thiết bị dạy học.
III- MỘT SỐ KĨ NĂNG CƠ BẢN TRONG PBGDPL PHÁP LUẬT
1. Những yêu cầu đối với cán bộ, giáo viên làm công tác phổ biến, giáo dục pháp luật
1.1. Về kiến thức pháp luật
- Có hiểu biết về kiến thức pháp luật và hiểu biết rộng về kiến thức xã hội; hiểu biết về đối tượng tuyên truyền.
- Nắm vững những vấn đề liên quan đến lĩnh vực mà các văn bản pháp luật điều chỉnh;
- Hiểu được ý nghĩa, bản chất pháp lí của vấn đề mà các văn bản điều chỉnh, sự cần thiết phải ban hành văn bản;
- Hiểu rõ đối tượng, phạm vi, nội dung điều chỉnh của văn bản;
- Hiểu rõ ý nghĩa của các quy phạm, tác dụng điều chỉnh của từng quy phạm, các chế tài…
1.2. Về kĩ năng
- Kĩ năng tìm hiểu: nắm vững đối tượng.
- Kĩ năng lắng nghe: chú ý lắng nghe, tỏ thái độ quan tâm đến những vấn đề của người được tuyên truyền trao đổi; khuyến khích người nghe phát biểu ý kiến.
- Kĩ năng quan sát: sử dụng các giác quan như mắt nhìn, tai nghe…
- Kĩ năng truyền đạt: sử dụng ngôn ngữ đơn giản, rõ ràng, phù hợp, kết hợp, nêu các ví dụ cụ thể, gần gũi…
- Kĩ năng động viên: động viên, thông cảm với người được truyền thông; động viên, thu hút những người rụt rè tham gia…
1.3. Các yêu cầu khác
- Có sự nhiệt tình, tâm huyết, tận tụy.
- Có khả năng nói và viết.
- Có khả năng hòa đồng và giao tiếp.
- Có kiến thức nhất định về tâm lí học tuyên truyền.
- Có hiểu biết về văn hóa, phong tục tập quán, điều kiện xã hội của mỗi địa bàn dân tộc, mỗi vùng miền nhất định.
2. Một số kĩ năng tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật
2.1. Kĩ năng tuyên truyền miệng
2.1.1. Khái niệm, vị trí, vai trò của tuyên truyền miệng trong các hình thức tuyên truyền pháp luật
Một hình thức tuyên truyền mà người nói trực tiếp nói với người nghe về pháp luật, trong đó chủ yếu là các văn bản pháp luật nhằm nâng cao nhận thức về pháp luật, niềm tin vào pháp luật và ý thức pháp luật cho người nghe; kích thích người nghe hành động theo các chuẩn mực pháp luật.
Tuyên truyền miệng gắn bó chặt chẽ với nhiều hình thức tuyên truyền khác và là bộ phận không thể thiếu, không thể tách rời trong tổng thể các hình thức tuyên truyền pháp luật, thông qua hội nghị, hội thảo, tập huấn, sinh hoạt câu lạc bộ pháp luật.
Ưu thế của tuyên truyền miệng:
+ Linh hoạt, có thể tiến hành ở bất cứ nơi nào, trong bất kì điều kiện nào, với số lượng người nghe bao nhiêu.
+ Người nói có điều kiện thuận lợi để giải thích, phân tích, làm sáng tỏ nội dung cần tuyên truyền; có thể hỏi đáp trực tiếp để đáp ứng tối đa yêu cầu của đối tượng.
+ Người nói có thể biểu lộ thái độ, tình cảm của mình trước người nghe, kết hợp lời nói với cử chỉ... để diễn đạt nội dung nên hiệu quả tuyên truyền được nâng cao và tính chính xác cao.
2.1.2. Phương thức tổ chức một số hình thức tuyên truyền miệng pháp luật
a) Mở các lớp tập huấn
Nội dung tập huấn có thể là một hoặc nhiều văn bản pháp luật. Ví dụ:…
Ở các lớp tập huấn, giảng viên không chỉ giới thiệu về các nội dung cơ bản của văn bản mà phải đi sâu vào những vấn đề liên quan đến các lĩnh vực nghiệp vụ nhất định: thẩm quyền của các chủ thể, các biện pháp quản lý, thủ tục tiến hành các công việc. Chú trọng đổi mới phương pháp tập huấn, kết hợp phương pháp truyền thống và phương pháp hiện đại, có sự trao đổi qua lại giữa học viên và giảng viên, huy động tính tích cực tham gia của học viên; kết hợp với các phương tiện hỗ trợ như tranh ảnh, băng hình để buổi tập huấn sinh động, người học dễ tiếp thu và biết vận dụng thành thạo trong thực tiễn.
b) Nói chuyện chuyên đề về pháp luật
Thường là một buổi nói về một lĩnh vực chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa, quản lí... gắn với một số chế định, ngành luật.
Báo cáo viên trong các buổi nói chuyện chuyên đề phải là người có kiến thức chuyên ngành sâu rộng về lĩnh vực được trình bày và am hiểu pháp luật.
Khi tổ chức một buổi nói chuyện chuyên đề nói chung và chuyên đề pháp luật nói riêng, người ta thường gắn vào các sự kiện chính trị, thời sự, những ngày có ý nghĩa lịch sử...
c) Tuyên truyền miệng cá biệt
Là hình thức tuyên truyền miệng về pháp luật mà đối tượng (người nghe) chỉ có một hoặc vài ba người.
Tuyên truyền cá biệt thường cung cấp cho người nghe những nội dung pháp luật cụ thể; vận dụng pháp luật trong những trường hợp, hoàn cảnh cụ thể mà người nghe đang quan tâm. Tuyên truyền miệng về pháp luật thường được sử dụng trong trường hợp người thừa hành pháp luật làm việc với đối tượng của mình; người tư vấn pháp luật hướng dẫn, giải thích cho người được tư vấn; cán bộ trợ giúp pháp lý hướng dẫn, trợ giúp pháp luật cho người được trợ giúp...
Trong tuyên truyền cá biệt, người nói phải căn cứ từng đối tượng mà có biện pháp tuyên truyền thích hợp; tìm hiểu sâu hoàn cảnh, truyền thống của gia đình họ, vận dụng đạo lý, phong tục, tập quán, mục đích, ý nghĩa của các quy phạm pháp luật để giải thích, thuyết phục họ.
Cán bộ làm công tác tuyên truyền pháp luật cần chuẩn bị các nội dung sau:
- Các quy định pháp luật liên quan đến sự việc của đương sự;
- Dự kiến tình huống, câu hỏi mà đương sự có thể hỏi, chất vấn;
- Phong tục, tập quán ở địa phương, đạo lí và những kiến thức xã hội có thể phải vận dụng;
- Nhân thân đương sự: Hiểu biết, ý thức chấp hành pháp luật của đương sự trước đây; điều kiện, hoàn cảnh, truyền thống gia đình, nguyện vọng... của đương sự.
Khi tuyên truyền cá biệt đòi hỏi phải:
- Vận dụng kĩ năng tuyên truyền miệng hết sức tinh tế.
- Người nói còn phải là người nhạy cảm, tâm lí và có kinh nghiệm trong công tác này.
- Để thuyết phục người nghe tin ở pháp luật thì người nói phải thể hiện để người nghe tin mình là một cán bộ, công chức tốt (không có biểu hiện tham nhũng, cửa quyền, hách dịch, gây phiền hà, có trách nhiệm với công việc, liêm khiết...).
Mục đích của tuyên truyền cá biệt: thông qua việc vận dụng pháp luật vào một hoàn cảnh, sự việc cụ thể để nâng cao niềm tin, ý thức chấp hành pháp luật của người nghe. Người nói phải am hiểu pháp luật, hiểu biết đời sống xã hội, có sự cảm thông sâu sắc với cuộc sống của đối tượng.
2.1.4. Kĩ năng tuyên truyền miệng về pháp luật
a) Gây thiện cảm ban đầu cho người nghe
Thiện cảm ban đầu tạo ra sự hứng thú, say mê của người nghe, củng cố được niềm tin về vấn đề đang tuyên truyền. Lý lịch của người nói, hình thức, phong thái, lời giao tiếp ban đầu đều có ý nghĩa quan trọng đối với việc gây thiện cảm cho người nghe.
b) Tạo sự hấp dẫn, gây ấn tượng trong khi nói
Nghệ thuật tuyên truyền miệng là tạo sự hấp dẫn, gây ấn tượng bằng giọng nói, điệu bộ, ngôn ngữ. Giọng nói cần rõ ràng, mạch lạc và truyền cảm.
Động tác, điệu bộ, vẻ mặt cần phải phù hợp với nội dung và giọng nói. Cần đưa ra số liệu, sự kiện để minh họa, đặt câu hỏi để tăng thêm sự chú ý của người nghe.
Người nói cũng cần phát huy vai trò thông tin, truyền cảm của ngôn ngữ bằng cách sử dụng chính xác, đúng mức thuật ngữ pháp lí, thuật ngữ chuyên ngành và ngôn ngữ bình dân.
Việc sử dụng hợp lí, chính xác ý tứ, hình ảnh trong kinh điển, thơ văn, ca dao, dân ca vào buổi tuyền truyền pháp luật cũng làm tăng tính hấp dẫn, thuyết phục đối với người nghe.
c) Bảo đảm các nguyên tắc sư phạm trong tuyên truyền miệng
Người nói cần tôn trọng các nguyên tắc sư phạm. Từ bố cục bài nói, diễn đạt các đoạn văn, liên kết giữa các đoạn văn, đến cách nói đều phải rõ ràng, mạch lạc, lôgic. Người nghe cần được dẫn dắt từ dễ đến khó, từ đơn giản đến phức tạp, từ gần đến xa (phương pháp suy diễn) hoặc từ xa đến gần (phương pháp quy nạp). Cần phải luôn chú ý bám sát trọng tâm của vấn đề.
d) Sử dụng phương pháp thuyết phục trong tuyên truyền miệng
Tuyên truyền miệng về pháp luật chủ yếu dùng phương pháp thuyết phục với ba bộ phận cấu thành là chứng minh, giải thích và phân tích.
- Chứng minh là cách thuyết phục chủ yếu dựa vào các dẫn chứng xác thực để làm sáng tỏ và xác nhận tính đúng đắn của vấn đề. Các dẫn chứng đưa ra gồm số liệu, sự kiện, hiện tượng, nhân chứng, danh ngôn, kinh điển.
- Giải thích là việc dùng lí lẽ để giảng giải giúp người nghe hiểu rõ và hiểu đúng vấn đề. Lập luận trong khi giải thích phải chặt chẽ, chính xác, mạch lạc, khúc triết, không ngụy biện.
- Phân tích là mổ xẻ vấn đề nhằm tìm được đặc điểm, bản chất, điểm mạnh, điểm yếu, điểm tốt, điểm xấu, sự phù hợp, không phù hợp.... của vấn đề.
2.1.5. Các bước tiến hành một buổi tuyên truyền miệng về pháp luật
a) Bước chuẩn bị: gồm 5 nội dung chính sau đây:
- Nắm vững đối tượng tuyên truyền:
Cần phải biết là nói với ai để nói như thế nào. Nghệ thuật tuyên truyền trước hết là nghệ thuật nắm vững đối tượng tuyên truyền:
- Số lượng, thành phần; trình độ văn hoá; tình hình thực hiện pháp luật ở cơ sở đó; ý thức pháp luật, nhu cầu tìm hiểu pháp luật của đối tượng.
- Có thể nắm vững đối tượng bằng phương pháp trực tiếp (tự điều tra, tìm hiểu, gặp gỡ, hỏi han, quan sát...) hoặc bằng phương pháp gián tiếp (qua các tài liệu, sách báo, báo cáo, tổng kết, trao đổi với những người làm công tác quản lý, phản ảnh của người tổ chức buổi tuyên truyền...).
[email protected]
22121977
- Nắm vững nội dung văn bản. Cụ thể là:
+ Hiểu rõ ý nghĩa, bản chất pháp lí của vấn đề được văn bản điều chỉnh, sự cần thiết phải ban hành văn bản;
+ Hiểu rõ đối tượng điều chỉnh, phạm vi điều chỉnh của văn bản;
+ Hiểu rõ ý nghĩa của các quy phạm, đặc biệt là ý nghĩa về mặt quản lí Nhà nước, về tác dụng điều chỉnh của từng quy phạm cụ thể.
- Sưu tầm các tài liệu dẫn chứng, minh họa.
- Chuẩn bị đề cương:
Đề cương phải đầy đủ về nội dung, thích hợp với đối tượng, chặt chẽ về bố cục, rõ ràng về lập luận. Cần chú ý:
+ Lựa chọn vấn đề cốt lõi của văn bản, liên hệ với hệ thống pháp luật để làm rõ mối quan hệ của văn bản với hệ thống pháp luật.
+ Toàn bộ các phần trong bài nói phải có mối quan hệ hữu cơ với nhau: từ yêu cầu, nhiệm vụ của văn bản, quyền và nghĩa vụ của các chủ thể, chế tài đối với người vi phạm ra sao... để đạt được yêu cầu nhiệm vụ của văn bản.
b) Tiến hành buổi tuyên truyền miệng về pháp luật
Một buổi tuyên truyền miệng về pháp luật thường có các phần sau:
- Vào đề: Nhằm giới thiệu vấn đề, khơi gợi nhu cầu của đối tượng, thiết lập quan hệ giữa người nói với người nghe. Gợi ra nhu cầu tìm hiểu ý nghĩa, sự cần thiết phải ban hành văn bản, phải có pháp luật để điều chỉnh vấn đề đang tuyên truyền.
- Nội dung: Là phần chủ yếu của buổi tuyên truyền, làm cho đối tượng hiểu, nắm được nội dung, chuyển biến nhận thức, nâng cao ý thức cho đối tượng.
Cần chú ý:
- Trình bày theo cách nào là thích hợp nhất.
- Nêu những vấn đề gì là cơ bản, cốt lõi, trọng tâm để người nghe nắm được nội dung văn bản.
- Có trọng tâm, trọng điểm, phương pháp trình bày phù hợp với từng đối tượng. Ví dụ: Với những người phải chấp hành pháp luật thì dùng phương pháp diễn giải là phù hợp. Cần nêu bản chất, ý nghĩa của vấn đề, mục đích, sự cần thiết phải ban hành văn bản, ý nghĩa của các quy phạm liên quan đến từng đối tượng thi hành trong văn bản.
- Phần kết luận:
+ Tóm tắt những vấn đề cơ bản đã tuyên truyền. Tuỳ từng đối tượng mà nêu những vấn đề cần lưu ý đối với họ.
+ Trả lời câu hỏi của người nghe: Cần dành thời gian cần thiết trả lời các câu hỏi mà người nghe quan tâm, chưa hiểu rõ.
2.1.6. Xây dựng kế hoạch tổ chức một buổi tuyên truyền miệng
Người làm công tác tuyên truyền pháp luật phải xây dựng kế hoạch tổ chức những buổi tuyên truyền về pháp luật để:
- Trình người lãnh đạo trực tiếp phê duyệt;
- Thông báo cho các đơn vị liên quan (nếu có);
Yêu cầu đối với bản kế hoạch là: đầy đủ, cụ thể, rõ ràng, ngắn gọn.
Ngoài phần tiêu đề, bản kế hoạch phải có những nội dung chính sau đây:
- Mục đích;
- Đối tượng: thành phần, số lượng, đặc điểm của đối tượng về giới tính, nghề nghiệp, độ tuổi…;
- Nội dung;
- Thời gian, địa điểm;
- Báo cáo viên;
- Công tác chuẩn bị;
- Kinh phí.
3. Kĩ năng biên soạn đề cương tuyên truyền pháp luật
3.1. Một số vấn đề chung
3.1.1. Yêu cầu của việc xây dựng đề cương
Về hình thức: Bố cục đề cương phải rõ ràng, chặt chẽ, hợp lí. Ngôn ngữ được sử dụng trong đề cương phải là ngôn ngữ đại chúng, cách hành văn giản dị, trong sáng, dễ hiểu. Diễn đạt phải mạch lạc, súc tích, ngắn gọn.
Về nội dung: Đề cương phải tạo điều kiện cho người sử dụng hiểu đúng mục đích, ý nghĩa của việc ban hành văn bản pháp luật, hiểu chính xác quy định của pháp luật, nắm được nội dung chính, những vấn đề trọng tâm của văn bản pháp luật, cách vận dụng văn bản trong thực tiễn.
3.1.2. Nội dung cơ bản của Đề cương
Đề cương tuyên truyền một văn bản pháp luật thường bao gồm 3 phần chính:
Phần 1. Những vấn đề chung
Phần này thường nêu sự cần thiết, mục đích, ý nghĩa của việc ban hành văn bản, vị trí, vai trò của văn bản trong việc điều chỉnh các quan hệ xã hội.
Quan điểm và những nguyên tắc chỉ đạo việc xây dựng văn bản pháp luật; tư tưởng chủ đạo và yêu cầu của công tác quản lí nhà nước, quản lí xã hội và yêu cầu của chính sách đối ngoại của Đảng và nhà nước ta.
Phần 2. Giới thiệu văn bản
Phần đầu của đề cương phải giới thiệu bố cục của văn bản với nguyên văn tên các phần, chương, mục để người đọc khái quát được nội dung của văn bản pháp luật đó.
Nội dung chủ yếu của văn bản:
- Nhiệm vụ của văn bản;
- Đối tượng điều chỉnh, phạm vi điều chỉnh của văn bản;
- Những nguyên tắc chung chi phối các quy định trong văn bản;
- Những vấn đề được đề cập trong nội dung văn bản, ý nghĩa các quy phạm, chế định trong văn bản;
- Những điểm mới trong văn bản so với pháp luật hiện hành, những điểm sửa đổi, bổ sung, lí do sửa đổi, bổ sung, ý nghĩa của việc sửa đổi, bổ sung. Khi cần thiết có thể nêu một số vấn đề gây tranh luận, những vấn đề đang tồn tại;
- Quyền, nghĩa vụ của các chủ thể và những người có liên quan, các quy định, thủ tục phải thực hiện;
- Vị trí của văn bản trong hệ thống pháp luật hiện hành, các văn bản sẽ ban hành kèm theo (nếu có).
Phần 3. Tổ chức thực hiện
Cần làm rõ các vấn đề:
- Đưa ra các gợi ý về biện pháp tổ chức thực hiện, phương pháp và hình thức tuyên truyền đối với từng loại đối tượng, từng địa bàn căn cứ vào nhu cầu của đối tượng và điều kiện kinh tế - xã hội của địa phương; đặc biệt là tập trung quan tâm đến đối tượng cần chú trọng tuyên truyền;
- Phương hướng phối hợp giữa các ngành hữu quan và các cơ quan thông tin đại chúng trong việc tổ chức tuyên truyền văn bản.
Phần 4. Phụ lục (nếu có)
3.1.3. Các bước cần thiết để viết Đề cương
Bước 1: Chuẩn bị
- Nghiên cứu văn bản pháp luật mới ban hành hoặc sửa đổi, bổ sung.
- Thu thập và nghiên cứu kĩ các tài liệu có liên quan trong quá trình xây dựng văn bản như: tờ trình về việc ban hành văn bản; báo cáo tổng hợp ý kiến đóng góp cho dự thảo văn bản; các văn kiện của Đảng, chính sách của nhà nước; yêu cầu thực tế khách quan liên quan đến những nội dung cần sửa đổi, bổ sung (đối với văn bản sửa đổi, bổ sung).
- Tìm hiểu đối tượng sử dụng, mục đích sử dụng đề cương để đưa ra các hướng dẫn, chỉ đạo cách thức, biện pháp tuyên truyền thích hợp.
- Nghiên cứu tình hình kinh tế - xã hội, phong tục, truyền thống, tình hình vi phạm pháp luật, yêu cầu quản lý để phân tích các vấn đề nêu ra trong văn bản đã đáp ứng được những đòi hỏi của xã hội và yêu cầu của công tác quản lý trong lĩnh vực đó.
Bước 2: Biên soạn đề cương.
Trước khi viết một đề cương hoàn chỉnh, thường xây dựng bố cục đề cương chi tiết. Sau khi lãnh đạo thông qua bố cục đề cương, có thể:
- Trực tiếp biên soạn bằng cách dựa trên cơ sở đề cương chi tiết và các tài liệu đã được nghiên cứu để viết đề cương tuyên truyền văn bản pháp luật.
- Phối hợp với các cơ quan chuyên môn tham gia soạn thảo văn bản đề nghị viết theo bố cục đề cương chi tiết.
Bước 3: Biên tập đề cương.
Bước 4: Hoàn chỉnh, in ấn và gửi cho các đối tượng sử dụng
* Một số tài liệu cũ có thể bị lỗi font khi hiển thị do dùng bộ mã không phải Unikey ...
Người chia sẻ: Nguyễn Ngọc Anh Khoa
Dung lượng: |
Lượt tài: 3
Loại file:
Nguồn : Chưa rõ
(Tài liệu chưa được thẩm định)