Một số nhân vật lịch sử Việt Nam
Chia sẻ bởi Đang bị khóa |
Ngày 11/05/2019 |
259
Chia sẻ tài liệu: Một số nhân vật lịch sử Việt Nam thuộc Lịch sử 7
Nội dung tài liệu:
THÁI UÝ LÝ THƯỜNG KIỆT
Ong tên thật là Ngô Tuấn, sinh năm 1019, con của ông Ngô An Ngữ và bà họ Hàn. Năm 18 tuổi thì mẹ mất (cha mất trước đó), Ngô Tuấn cùng em lo tang cho mẹ.Hết tang ông được Kỵ mã hiệu uý. Do tính siêng năng cần mẫn,lại hết lòng trung thành, càng được vua tin yêuthăng thưởng lên đến chức Đô Tri và được đổi sang họ vua gọi là Lý Thường Kiệt.
Năm 1061, ông được vua cử vào trấn giữ vùng núi hiểm trở Thanh - Nghệ, ông đã vỗ về nhân dân, chăm lo sản xuất, khai khẩn đất hoang làm cho nhân dân no ấm, biên cương được bảo vệ vững vàng.
Năm 1075, nhà Tống do Vương An Trạch làm tể tưởng âm mưu chuẩn bị xâm lược nước ta.
Thái uỷ Lý thường Kiệt tâu với thái hậu Ỷ Lan rằng: "Ngồi yêu đợi giặc không bằng đưa quân ra trước". Thái hậu đồng ý cho Lý Thường Kiệt và Tông Đản đưa quân sang đánh phá các căn cứ tập kết lương thực, vũ khí của nhà Tống ở Khâm Châu, Châu Liêm, Châu Ung (Quảng Châu, Trung Quốc). Sau 42 ngày đêm chiến đấu một cách thông minh,ngoan cường, quân đội Đại Việt đã san bằng ba căn cứ quân sự lớn rồi chủ động rút quân về nước. Để ngăn chặn quân xâm lược Tống, Lý Thường Kiệt đã cho xây dựng một phòng tuyến dài 80 km, lấy dòng sông Cầu làm hào, dùng đê nạm man sông Cầu làm thành luỹ.
Đầu năm 1077, Quách Quỳ vàTriệu Tiết dẫn 10 vạn bộ binh tinh nhuệ, 1 vạn ngựa chiến cùng 20 vạn quân phu ồ ạt tiến vào xâm lước nước ta. Quân xâm lược đã bị quân ta chặn đánh ngay từ cửa ải Lạng Sơn. Ngày 18/01/1077 quân Tống tiến đến bờ bắc sông Hồng thì bị chặn lại hơn hai tháng, quân dân Đại Việt dùng chiến tranh du kích tiêu hao sinh lực địch, làm cho quân giặc hoang mang, giao động "tiến thoái lưỡng nan".
Đúng lúc quân Tống đang bị dồn vào tình thế khốn quẫn nhất thì Lý thường Kiệt hạ lệnh tấn công. Đó là một ngày cuối xuân năm 1077. Trước hết, hai vị hoàng tử là Hoằng Chân và Chiêu Văn dùng 400 thuyền chiến, bất ngờ đánh mạnh vào khu vực đóng quân của Quách Quỳ. Hai vị hoàng tử vừa đánh vừa phô trương thanh thế, cốt thu hút toàn bộ sự chú ý của quân xâm lăng. Một trận ác chiến đã xảy ra, hai vị hoàng tử đã anh dũng hi sinh. Nhưng đúng lúc Quách Quỳ và Triệu Tiết dồn hết sự chú ý vào cánh quân của hai hoàng tử thì đại quân do đích thân Lý Thường Liệt chỉ huy bất ngờ vượt bến đò Như Nguyệt đánh dồn dập vào khu vực đóng quân của Triệu Tiết như sấm sét nổ trên đầu giặc. Đại bộ phận quân Tống ở đây đều bị tiêu diệt. Chỉ trong một đêm, tình thế đã xoay chuyển hoàn toàn. Quách Quỳ và Triệu Tiết vội vã ra lệnh rút quân về nước. Nền độc lập của tổ quốc lại vững bền.
Sinh thời, Lý Thường Kiệt không ngừng nêu cao tấm gương sáng về tinh thần đoàn kết vì nghĩa lơn, không ngừng nêu cao tinh thần trung quân ái quốc khi vận nước lâm nguy cũng như khi non sông được thái bình.
Lý Thường Kiệt đã góp phần đắc lực cùng vua và triều đình trong sự nghiệp xây dựng đất nước, đặc biệt là góp phần củng cố sức mạnh của guồng máy nhà nước đương thời. Trong khoảng thời gian chừng 10 năm sau khi Lý Thánh Tông qua đời (1069), Lý Nhân Tông còn thơ ấu, Lý Thường Kiệt thực sự là linh hồn của đất nước.
Ong đã để lại cho đời một số áng thơ văn, trong đó nổi bật nhất là bài thơ tứ tuyệt không đề, được hậu thế chọn bốn chữ đầu làm đề để truyền tụng, đó là 4 chữ "Nam quốc sơn hà"- một trong những áng thiên cổ hùng văn, có giá tị như bản "Tuyên ngôn độc lập" lần đầu tiên của nước ta.
Tháng 6 năm At dậu (1105)Đôn Quốc công Thái uý Lý Thường Kiệt qua đời, thọ 86 tuổi. Điều đáng nói là trước khi qua đời một năm (1104)đã 85 tuổi, ông vẫn là tướng tổng chỉ huy quân đội, đã đánh và thắng một trận lớn ở phái Nam đất nước.
Nhà vua truy tặng ông chức: Nhập nội điện đô tri hiểu hiệu thái uỷ bình chương quân quốc trọng sự, tước Việt quốc công.
Để tưởng nhớ công ơn to lớn của người anh hùng dân tộc, nhiều nơi lập đền thờ ngài.
( theo Các triều đại Việt Nam)
HƯNG ĐẠO ĐẠI VƯƠNG TRẦN QUỐC TUẤN
Hơn bảy trăm năm trước, cả Á - Au đang trong cơn kinh hoàng, khiếp đảm về cái hoạTác - ta (giặc Mông ), khi chúng lướt trên vó ngựa viễn chinh tàn phá hết nước này sang nước khác. Từ Thái Bình Dương sang tận bên bờ Địa Trung Hải, khắp Á - Au chưa có một danh tướng nào ngăn cản được. Giáo hoàng La Mã sợ hãi đến nỗi ". tuỷ khô, thân gầy, sức kiệt". Người Đức hàng ngày cầu nguyện: " Xin chúa cứu vớt chúng con khỏi cơn hịnh nộ Tác - ta !", vó ngựa của chúng đi đến đâu cỏ không mọc được đến đó. Vậy mà ở miền Đông Nam châu Á, lũ giặc Tác - ta phải kinh hồn, lạc phách trước ý chí chiến đấu và tài nghệ quân sự tuyệt vời của quân dân Đại Việt dưới sự chỉ huy thiên tài của Quốc Công Tiết chế ,Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn.
Công lao to lớn của Người, ba lần tổng chỉ huy quân dân Đại Việt cả phá quân Nguyên - Mông hung bạo, đánh cho chúng thất điên bát đảo, Trấn Nam Vương Thoát Hoan chui vào ống đồng có người kéo qua biên ải mới thoát chết.
Với tài thao lược, trí dũng song toàn, luôn đặt lợi ích của dân tộc lên trên hết, Trần Hưng Đạo không chỉ sống mãi trong lòng mọi người dân đất Việt mà còn vang danh khắp năm châu bốn biển. Trần Quốc Tuấn (1228 - 1300)là một anh hùng kiệt xuất của dân tộc ta đồng thời là danh nhân quân sự cổ kim của thế giới.
Người sinh ngày 10-12-1228 (Mậu tý), là con của An sinh vương Trần Liễu (anh ruột Trần Thái Tông - Trần Cảnh ).
Người dung mạo hùng vĩ, thông minh hơn người, đủ tài văn võ, chuyên tâm nghiên cứu lục tam thao lược của người xưa và dành cả tâm huyết, hiểu biết của mình để viết: Binh thư yếu lược, Hịch tướng sĩ để dạy các tướng cầm quân đánh giặc, khích lệ lòng yêu nước của quân dân Đại Việt.
Trong cuộc kháng chiến chống Mông - Nguyên lần hai, thấy rõ nếu để ngành trưởng và ngành thứ xích mích, nghi kị lẫn nhau thì chỉ có lợi cho kẻ thù. Người đã chủ động giao lưu hoà hiếu với Trần Quang Khải, tạo nên sự đoàn kết nhất trí trong Vương triều, bảo đám đánh thắng quân thù .
Chuyện kể rằng: Một hôm Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn ở bến Bình Than sai người mời Trần Quang Khải sang thuyền mình trò chuyện, chơi cờ rồi sai người nấu nước thơm tự mình tắm rửa với Trần Quang Khải, từ đó vĩnh viễn xoá bỏ hiềm khích giữa hai chi họ (Quốc Tuấn là con của Trần Liễu ngành trưởng , Quang Khải con của Trần Cảnh ngành thứ ). Lần khác, Quốc Tuấn đem việc xích mích hỏi các con, Trần Quốc Tảng có ý khích ông nến cướp ngôi của chi thứ.
Ong nổi giận rút gươm toan chém chết Quốc Tảng. May nhờ các con và những người tâm phúc van xin, ông mới bớt giận dừng gươm nhưng bảo rằng :
Từ nay cho đến khi ta nhắm mắt, ta sẽ không nhìn thằng nghịch tử, phản thầy này nữa.
Trong kháng chiến ông luôn hộ giá bên vua, tay chống gậy bịt sắt .Dư luận xì xào sợ ông giết vua. Ong liền bỏ luôn phần bịt sắt, chỉ chống gậy để tránh hiềm nghi, làm yêu lòng dân quân.
Ba lần chống giặc Nguyên - Mông, các vua Trần đều giao cho ông chức Tiết chế(tổng tư lệnh quân đội ), vì ông biết dùng người tài, thương yêu binh lính vì vậy tướng sĩ hết lòng thương yêu ông. Đạo quân cha con ấy trở thành đạo quân bách chiến bách thắng.
Trần Quốc Tuấn là vị tướng trụ cột của triều đình. Ong đã soạn hai bộ binh thư :Binh thư yếu lược và Vạn Khiếp tổng bí truỵền thư để răn dạy các tướng cầm quân đánh giặc. Khi giặc Nguyên lộ rõ ý đồ xâm lược, ông viết " Hịch tướng sĩ", truyền lệnh cho các tướng, dạy bảo họ lẽ thắng bại, tiến lui. Hịch tướng sĩ rất hùng hồn, thống thiết, khẳng định văn chương của một bậc đại bút .
Trần Quốc Tuấn là một bậc đại tướng gồm đủ đức và tài. Là tướng nhân ông thương dân như quân, chỉ cho họ con đường sáng. Là tướng nghĩa, ông coi việc phải hơn điều nghĩa. Là tướng trí, ông xông pha vào nơi nguy hiểm để đánh giặc, tạo nên những trận Bạch Đằng oanh liệt nghìn đời. Là tướng tín, ông bày tỏ trước quân lính theo ông sẽ được gì, trái lời ông sẽ gặp hoạ. Cho nên cả ba lần đánh giặc Nguyên, ông đều được giao trọng trách điều sát binh mã và đều là được công lớn.
Hai tháng trước khi mất, vua Anh tông đến thăm và hỏi :
- Nếu chẳng may khanh mất đi, giặc phương Bắc lại sang xâm lấn thì kế sách làm sao ?
Ong đã trăng trối những lới tâm huyết ,sâu sắc, đúng cho mọi thời đại :
- Thời bình phải khoan thứ sức dân để làm kế sâu gốc bền rễ, đó là thượng sách giữ nước.
Mùa thu tháng tám, ngày 20 năm Canh tý (1300) "Bình Bắc đại nguyên soái" Hưng Đạo đại vương Trần Quốc Tuấn qua đời. Theo lới ông dặn, thi hài ông được hoả tảng thu vào bình đồngvà chôn trong vườn An Lạc, gần cánh rừng An Sinh, không xây lăng mộ, đất san phẳng , trồng cây như cũ. Vua gia phong cho ông chức Hưng Đạo đại vương. Triều đình lập đền thờ ông tại Vạn Kiếp, Chí Linh, ấp phong của ông lúc sinh thời .
( Theo Các triều đại Việt Nam )
HỒ NGUYÊN TRỪNG
Hồ Nguyên Trừng, con cả của
* Một số tài liệu cũ có thể bị lỗi font khi hiển thị do dùng bộ mã không phải Unikey ...
Người chia sẻ: Đang bị khóa
Dung lượng: |
Lượt tài: 1
Loại file:
Nguồn : Chưa rõ
(Tài liệu chưa được thẩm định)