Luu dieu linh

Chia sẻ bởi Lưu Diệu Linh | Ngày 21/10/2018 | 40

Chia sẻ tài liệu: luu dieu linh thuộc Bài giảng khác

Nội dung tài liệu:

TỔ 3:
1.Đào Thị Huyên
2.Hà Thị Thu Huyền
3.Hoàng Thị Hiểu
4.Vũ Thị Thanh Huyền
5.Ngô Thị Nga
6.Phương Thị Thơm
7.Trần Thị Huyền Trang
8.Quản Thị Quỳnh
9. Lưu Diệu Linh
10.Tạ Thị Thúy Vân
NAM CAO
I.Cuộc đời và con người NAM CAO
1,Cuộc đời
-Nam Cao(1915-1951), tên thật là Trần Hữu Tri
-Quê:tại làng Đại Hoàng thuộc tổng Cao Đa,̀ huyện Nam Sang, phủ Lý Nhân Tỉnh Hà Nam.
-Cha là Trần Hưũ Huệ làm nghề trạm trổ và bốc thuốc bắc, mẹ là Trần Thị Minh làm vườn, dệt vải.. Ông đã ghép hai chữ của tên tổng và huyện làm bút danh: Nam Cao.
Thuở nhỏ, ông học sơ học ở trường làng. Đến cấp tiểu học và bậc trung học, gia đình gửi ông xuống Nam Định học ở trường Cửa Bắc rồi trường Thành Chung. Nhưng vì thể chất yếu, chưa kịp thi Thành Chung, ông đã phải về nhà chữa bệnh, rồi cưới vợ năm 18 tuổi.
Trong gia đình nghèo đông con, Nam Cao là người duy nhất được học hành tử tế, những tưởng thành là chỗ dựa cho mọi người về sau.Nhưng cuộc sống đói khổ và bệnh tật đã đeo đuổi Nam Cao, từ khi ông còn nhỏ. Năm 1935, sau kì thi Thành chung bị trượt Nam cao vào Sài Gòn kiếm sống mang trong mình ước mơ và dự định lớn lao. Nhưng bệnh tật không buông tha ông


buộc ông phải trở về quê. Nam cao lên Hà Nội dạy học cho một trường tư thục của một người trong họ mở
Năm 1941 Nhật Xâm lược Đông Dương, ngôi trường đó bị đóng cửa ông phải sống bằng nghề viết văn dạy học
Năm 1943 ông gia nhập văn hóa cứu quốc cùng một số nhà văn như Tô Hoài, Nguyên Hồng...
Năm 1945 Nam Cao tham gia cướp chính quyền ở phủ Lý Nhân sau đó được bầu làm chủ tịch xã
Năm 1947 Nam Cao lên Việt Bắc tham gia công tác kháng chiến
Năm 1951 Nam Cao đã ngã xuống trên đường đi công tác khi tài năng đương độ chín, khi bao dự định sáng tạo còn dang dở.

2,Con người
-Bề ngoài Nam Cao có vẻ ít nói lạnh lùng nhưng đời sống nội tâm sôi suc có khi căng thẳng Nam Cao thường lấy làm xấu hổ về những tư tưởng mà ông cảm thấy tầm tường nhỏ bé của mình.Nam Cao muốn khắc phục những tư tưởng ấy để xứng đáng với danh hiệu con người.
-Hầu như ông không có nhiều thời gian sống cuộc sống thanh thản, trong tâm hồn nóng bỏng ấy thường xuyên diễn ra các cuộc xung đột gay gắt giữa lòng nhân đạo và thói ích kỉ, giữa tinh thần dũng cảm và thái độ hèn nhát, giữa tính chân thực và sự giả dối, giữa những khát vọng tinh thần cao cả và những dục vọng phàm tục.
II.Sự nghiệp văn học
1.Tác phẩm
Nam Cao từng làm nhiều nghề, chật vật kiếm sống và đến với văn chương đầu tiên vì mục đích mưu sinh. Năm 18 tuổi vào Sài Gòn, ông nhận làm thư ký cho một hiệu may, bắt đầu viết các truyện ngắn Cảnh cuối cùng, Hai cái xác. Ông gửi in trên Tiểu thuyết thứ bảy, trên báo Ích Hữu các truyện ngắn Nghèo, Đui mù, Những cánh hoa tàn, Một bà hào hiệp với bút danh Thúy Rư. Có thể nói, các sáng tác "tìm đường" của Nam Cao thời kỳ đầu còn chịu ảnh hưởng của trào lưu văn học lãng mạn đương thời.
Trở ra Bắc, sau khi tự học lại để thi lấy bằng Thành chung, Nam Cao dạy học ở Trường tư thục Công Thành, trên đường Thụy Khuê, Hà Nội. Ông đưa in truyện ngắn Cái chết của con Mực trên báo Hà Nội tân văn và in thơ cùng trên báo này với các bút danh Xuân Du, Nguyệt.
Năm 1941, tập truyện đầu tay Đôi lứa xứng đôi, tên trong bản thảo là Cái lò gạch cũ, với bút danh Nam Cao do NXB Đời mới Hà Nội ấn hành được đón nhận như là một hiện tượng văn học thời đó. Sau này khi in lại, Nam Cao đã đổi tên là Chí Phèo.
Phát xítNhật thâm nhập Đông Dương, trường sở bị trưng dụng, ông rời Hà Nội, về dạy học ở Trường tư thục Kỳ Giang, tỉnh Thái Bình, rồi về lại làng quê Đại Hoàng. Thời kỳ này, Nam Cao cho ra đời nhiều tác phẩm. Ông in truyện dài nhiều kỳ Truyện người hàng xóm trên Trung Bắc Chủ nhật, viết xong tiểu thuyết Chết mòn, sau đổi là Sống mòn.
MỘT SỐ TÁC PHẨM TIÊU BIỂU CỦA NAM CAO
2.Quan điểm nghệ thuật

Trong cuộc đời cầm bút, Nam Cao luôn suy nghĩ về vấn đề Sống và Viết, rất có ý thức về quan điểm nghệ thuật của mình. Có thể nói,nhắc đến Nam Cao là nhắc đến chủ nghĩa hiện thực trong Văn học Việt Nam từ 1930 đến 1945,đấy mới thực sự tự giác đầy đủ về những nguyên tắc sáng tác của ông.
Thời gian đầu lúc mới cầm bút, chịu ảnh hưởng của văn học lãng mạn đương thời. Dần dần, Ông nhận ra thứ văn chương đó xa lạ với đời sống lầm than của người lao động; chính vì vậy
Ông đã đoạn tuyệt với nó và tìm đến con đường nghệ thuật hiện thực chủ nghĩa. Tác phẩm Giăng sáng (1942); phê phán thứ văn chương thi vị hóa cuộc sống đen tối, bất công – Đó là thứ "Ánh trăng lừa dối". Nam Cao nhận thức nghệ thuật phải gắn bó với đời sống, nhìn thẳng vào sự thật "tàn nhẫn", phải nói lên nỗi khốn khổ, cùng quẫn của nhân dân và vì họ mà lên tiếng. Đời thừa (1943); khẳng định phải vượt lên trên tất cả các bờ cõi và giới hạn, phải là một tác phẩm chung cho cả loài người. Nó phải chứa đựng được một cái gì lớn lao, mạnh mẽ, vừa đau đớn, lại vừa phấn khởi; ca tụng tình yêu , bác ái, công bằng.
Và "Văn chương không cần đến sự khéo tay, làm theo một cái khuôn mẫu. Văn chương chỉ dung nạp những người biết đào sâu, biết tìm tòi, khơi những nguồn chưa ai khơi và sáng tạo ra cái gì chưa có". Ông đòi hỏi nhà văn phải có lương tâm, có nhân cách xứng với nghề; và cho rằng sự cẩu thả trong văn chương chẳng những là bất lương mà còn là đê tiện.
Sau 1945, tham gia kháng chiến chống Pháp, sẵn sàng hy sinh thứ nghệ thuật cao siêu với ý nghĩ: lợi ích dân tộc là trên hết. Nhật ký Ở rừng (1948) - là tác phẩm có giá trị của văn xuôi thời kỳ đầu kháng chiến chống Pháp, thể hiện quan niệm "sống đã rồi hãy viết" và "góp sức vào công việc không nghệ thuật lúc này là chính để sửa soạn cho tôi một nghệ thuật cao hơn".
III.NAM CAO với đề tài người nông dân và tiểu tư sản.

1.Đề tài người nông dân
Nam Cao tỏ thái độ trân trọng, thương xót với những người nông dân nghèo
Người nông dân nghèo: Nhà văn dựng lên một bức tranh chân thực về nông thôn Việt Nam trước 1945 nghèo đói, xơ xác trên con đường phá sản, bần cùng, hết sức thê thảm; càng hiền lành, càng nhẫn nhục thì càng bị chà đạp, hắt hủi, bất công, lăng nhục tàn nhẫn; người nông dân bị đẩy vào con đường tha hóa, lưu manh hóa. 
Nam Cao không hề bôi nhọ người nông dân, trái lại, đã đi sâu vào nội tâm nhân vật để khẳng định nhân phẩm và bản chất lương thiện ngay cả khi bị vùi dập, cướp mất cà nhân hình, nhân tính của người nông dân; Kết án đanh thép cái xã hội tàn bạo đó trước 1945
b.Tác phẩm của nam cao phản ánh được quá trình phá sản, bần cùng hóa của người nông dân
Trong bối cảnh nông dân tiêu điều sơ xác, ngòi bút Nam Cao đã diễn tả thấm thía tình trạng nghèo túng, số phận bi thảm của người nông dân. Phần lớn nhân vật nông dân của ông là con người ở bậc thâng xã hội vô cùng cuộc đời không thể nào khổ hơn được nữa. Họ bị hoàn cảnh xã hội vùi dập thể xác lẫn nhân phẩm. Các gia đình nông dân trong tác phẩm nam cao ít khi được trọn vẹn mà mang nỗi đau mất mát li tán.
Có nhiều nhân vật phải bỏ làng ra đi tha hương càu thực
Đi vào số phận người nông dân dưới đáy cùng xã hội ở thời kì ngột ngạt đen tối, nhiều tác phẩm của Nam Cao đã phản ánh sinh động quá trình bần cùng hóa của họ.
Đặc biệt quá trình bần cùng hóa này thường được Nam Cao gắn với sự đe dọa lưu manh hóa. Hoàn cảnh xã hội đảo điên có sức tàn phá thật khốc liệt. Điều làm nam cao đau khổ nhất và khai thác nhiều nhất ở các nhân vật nông dân là nhân vật bị xúc phạm tâm hồn thui chột tính cach méo mó. Nam Cao ít khi miêu tả bộ mặt nhân vật nhưng thường là nhưng bộ mặt xấu xí, ghớm ghiếc bị biến dạng (Lang Rận, Thị Nở Chí Phèo...)
-Truyện ngắn Chí Phèo đã kết tinh những thành công của Nam Cao trên đề tài nông dân, nông dân là một kiệt tác trong nền văn xuôi trước cách mạng
2.Tố cáo xã hội đã giết chết những ước mơ và phê phán một số nhà văn đương thời mang những ảo tưởng
-Ngòi bút của Nam Cao đã diễn tả thấm thía những nỗi đau âm thầm mà dai dẳng nhiều khi giằng xé đền chảy máu trong cõi lòng người tri thức tiểu tư sản. đọc các sáng tác trước cách mạng của nam cao, bên cạnh những chí phèo, Lão Hạc chúng ta khó thể quên gương mặt gày guộc, đăm chiêu đến khổ lão của những Điền, những Hộ...ở mức độ khác nhau, hầu hết các nhân vật này đều mang dáng dấp của chính nam cao.Hộ(đời thừa) là nhà văn có tài và đầy tâm huyết với nghề nghiệp.đối với anh, nghề văn thật sự
cao đẹp trong đời, có tác dụng phụng sự nhân loại, cổ vũ những điều cao quý. lý tưởng nghệ thuật của Hộ thấm nhuần tư tưởng nhân đạo, gắn liền với sự khai thác, tìm tòi. trong niềm say mê mãnh liệt Hộ ôm ấp hiện thực thật lớn lao, khát khao viết ra" một tác phẩm sẽ làm mờ hết các tác phẩm khác cùng ra một thời..." vậy nhưng tất cả những mong muốn suy tưởng đều rất chân chisnh đẹp đẽ của Hộ đều tan biến đi như bong bóng xà phòng khi chạm phải cái thực tế hàng ngày nghiệt ngã. bi kịch bắt đầu nảy sinh khi Hộ ghép cuộc đời Từ vào cuộc đời vào cuộc đời mình khi có cả gia đình phải chăm lo.
TÁC PHẨM SỐNG MÒN
Sống mònlà tiểu thuyết phác họa một cách chân thực, rõ nét cuộc sống mòn mỏi, bế tắc cả về vật chất lẫn tinh thần của tầng lớp trí thức tiểu tư sản trước Cách mạng tháng Tám. Những mòn mỏi, bế tắc này hiện lên sinh động qua kết cấu tâm lý. Kết cấu tâm lý giúp Nam Cao đi sâu vào những biến động tinh vi, đời sống nội tâm của Thứ cũng như bi kịch tinh thần của cả giới trí thức nghèo trong cuộc đời tù túng, chật hẹp, bị áo cơm ghì sát đất.
Trong Sống mòn, những bi kịch không có lối thoát của Thứ còn được Nam Cao miêu tả qua lối kết cấu vòng tròn - một vòng tròn luẩn quẩn mà nhân vật ở trong đó đối diện với nó nhưng không thoát ra được. Đó là những chuyện ghen tuông, những nghèo túng, đố kị, tự ái và những chuyện thèm đi để đổi đời. Đọc Sống mòn, những ai mới tiếp xúc lần đầu đều dễ cảm thấy uể oải, chán chường bởi các tình huống tương tự như nhau, những ghen tuông, tự ái, nhỏ nhen cứ trở đi trở lại, Những trang văn của Sống mòn bày ra trước mắt người đọc cuộc sống nghèo khổ của Thứ, của San, của gia đình Thứ, gia đình Mô; những ghen tuông của Thứ với Liên; những ghen tị nhiều lúc đến thành ích kỉ, độc ác của Thứ với Oanh, Đích; những hi vọng le lói rồi lại thất vọng tràn trề của y,…. Quanh quẩn bởi vòng tròn đó, với những đoạn độc thoại nội tâm dài, Sống mòn khiến người đọc như được nếm trải cụ thể cái không khí ngột ngạt, bức bối, khó chịu mà nhân vật đang sống. Kiểu kết cấu này khiến những bế tắc trở nên đậm đặc hơn, thể hiện đầy đủ hơn tư tưởng của tác giả.
Sử dụng kết cấu tâm lý, kết cấu vòng tròn, Nam Cao đã tổ chức một cách chặt chẽ cấu trúc tác phẩm, giúp Sống mòn diễn tả được cái bi kịch chết dần chết mòn về mặt tinh thần của tầng lớp trí thức nghèo trước Cách mạng tháng Tám bằng nét hấp dẫn, độc đáo riêng không lẫn với một ai khác.
   Trong Sống mòn Nam Cao xây dựng nhân vật trên chất liệu đời thường. Cuộc sống của từng nhân vật đều được khắc họa từ những chuyện vặt vãnh, nhí nhách trong cuộc sống hàng ngày của mỗi người, từ trí thức đến nông dân. Đó là một thế giới nhân vật sống động, vừa gần gũi vừa mới lạ, mang đậm dấu ấn đặc sắc trong bút pháp miêu tả. Các nhân vật đi vào cuộc sống tự nhiên như thực tại đang diễn ra và con người hiển nhiên phải sống với hoàn cảnh đó. Sống mòn một tác phẩm hiện thực đã kết tinh và thành công nổi bật trong cách xây dựng nhân vật đặc biệt là nhân vật điển hình đại diện cho tầng lớp trí thức thời đó
Trong Sống mòn, độc thoại nội tâm xuất hiện khá dày đặc, dai dẳng, kéo dài gây cảm giác bức bối. Các đoạn độc thoại nội tâm hoà quyện với ngôn ngữ kể chuyên khiến Sống mòn cứ như trôi đi theo tâm tưởng của nhân vật Thứ và theo cách kể chuyện đầy biến hoá của tác giả. Sự hoà quyện này cũng góp phần làm nên sức cuốn hút, hấp dẫn độc giả tham gia tác phẩm. Qua những độc thoại nội tâm của Thứ, mọi thói do dự, nhỏ nhen, ích kỉ, sĩ diện hão của người trí thức tiểu tư sản nghèo được phơi bày chân thực và sắc nét. Nhân vật như tự trải lòng mình qua từng trang sách. Họ tự khám phá mình, dằn vặt, mổ xẻ mình. Những ganh ghét, ích kỉ hiện lên không cần che đậy qua những cuộc độc thoại nội tâm dài. Và cũng từ đây, bi kịch tinh thần của Thứ, của những người trí thức bị cuộc sống ghì sát đất thể hiện với đầy cay đắng, chua xót. Độc thoại nội tâm giữ vai trò đặc biệt quan trọng trong việc tái hiện những giằng xé của hai tiếng nói trong con người Thứ, khiến Sốngmòn vừa hiện thực vừa nhân văn, đề cập những khoảng tối trong tính cách của con người do hoàn cảnh đưa đẩy nhưng lại thấm đẫm tinh thần nhân đạo cao cả.
IV.Nghệ thuật
1,Nghệ thuật miêu tả tâm lý nhân vật
- Khi khắc họa tính cách nhân vật, Nam Cao ít miêu tả ngoại hình mà tập trung soi rọi cuộc sống bên trong đó là sở trường và tài năng của Nam Cao. Viết về những người nông dân nghèo, Nam Cao chú ý đến những đau khổ về tinh thần của họ trong truyện của Nam Cao có những nhận xét tinh tế về tâm lý con người. đặc điểm ngoại hình nhân vật qua ngòi bút của Nam Cao thường trở thành những nét thể hiện tâm lý và tính cách.
- Qua cảnh thiên nhiên mà Nam Cao miêu tả tâm lý của nhân vật và mang đậm nỗi niềm nhân vật, con người. Điều đáng chú ý là tâm lý nhân vật của nam cao rất ít khi ngưng đọng. sở trường của ông càng được phát huy khi đi sâu vào các diễn biến tâm lý phức tạp, vào trạng thái dở khóc dở cười đầy tính bi hài kịch
2.Nghệ thuật độc thoại nội tâm
Khám phá đời sống bên trong của con người dường như thành hứng thú đặc biệt của ngòi bút Nam Cao.Thế giới nhân vật của ông có nhiều trạng tâm lý. Không chỉ đối với nhân vật trí thức tiểu tư sản là những người hay suy nghĩ mà đối với nhân vật nông dân cũng thế. Có trạng thái dồn nén lại trong câm lặng ở dì Hảo,có trạng thái âm thầm, nẫn nhịn chịu đựng hay băn khoăn tâm sự ở Lão Hạc.
Cách dẫn chuyện của Nam Cao rất sinh động, có duyên. Lời kể chuyện của tác giả thường xen lẫn độc thoại nội tâm của nhân vật, điểm nhìn trần thuật được chuyển dịch linh hoạt
3. Hình thức tự nguyện
Những tác phẩm của Nam Cao thường có nhiều đoạn tự truyện của tác giả, Nhà văn cố ý "đóng cũi sắt tình cảm của mình giữ cho đôi mắt ,khối óc được sáng suốt, tỉnh táo chứ không hề lạnh lùng, khách quan chủ nghĩa. Vừa hiện thực đến nghiêm ngặt, Nam Cao lại vừa trữ tình đằm thắm.Nếu như nhiều đoạn triết lý làm cho tác phẩm Nam Cao có chiều sâu thì những đoạn trữ tình lại làm cho tác phẩm của ông đầy vẻ thiết tha súc động lòng người.Có những lúc Nam Cao bước hẳn vào tác phẩm,trực tiếp đứng ra kể chuyện và phát biểu những cảm xúc của mình(Dì Hảo, Điếu văn...).
Có những lúc tâm hồn Nam Cao vút lên những tiếng kêu thương cảm động"Lão Hạc ơi! Lão hãy yên lòng nhắm mắt"(Lão Hạc),"Dì Hảo ơi!tôi hãy còn nhớ cái ngày dì bỏ đi lấy chồng.Đó là một buổi chiều co sương bay"(Dì Hảo).Gấp lại những trang sách của Nam Cao người đọc cứ phải day dứt không nguôi về thân phận tủi nhục của con người trong cái xã hội đầy dãy bất công , tàn bạo lúc bấy giờ.
XIN CHÂN THÀNH CẢM ƠN
* Một số tài liệu cũ có thể bị lỗi font khi hiển thị do dùng bộ mã không phải Unikey ...

Người chia sẻ: Lưu Diệu Linh
Dung lượng: | Lượt tài: 0
Loại file:
Nguồn : Chưa rõ
(Tài liệu chưa được thẩm định)