Luât môi trường
Chia sẻ bởi Nguyễn Thị Diệu Hiền |
Ngày 21/10/2018 |
45
Chia sẻ tài liệu: luât môi trường thuộc Bài giảng khác
Nội dung tài liệu:
Bài thuyết trình môn:
Luật & Chính sách môi trường
Chuyên đề:
Những bất cập của luật Bảo vệ môi trường năm 1993 và sự cần thiết phải sửa đổi Luật
Những vấn đề chính:
Tại sao phải ban hành Luật Bảo vệ môi trường (BVMT) - Sơ lược & ý nghĩa của Luật BVMT năm 1993;
Những bất cập và hạn chế của Luật BVMT năm 1993;
Phân tích cụ thể những bất cập của Luật BVMT 1993 và Sự cần thiết phải sửa đổi Luật;
Tổng kết về chuyên đề.
Phần một: Tại sao phải ban hành Luật Bảo vệ môi trường (BVMT) - Sơ lược & ý nghĩa của Luật BVMT năm 1993
I. Tại sao phải ban hành luật BVMT?
Môi trường
Con người
Sinh vật
Phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội
Con người
Hoạt động
phát triển
Sinh vật
Chất thải
Không tự hồi phục
Luật Bảo vệ môi trường
II. Sơ lược và ý nghĩa của Luật Bảo vệ môi trường:
Căn cứ vào Điều 29 và Điều 84 của Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992;
Luật Bảo vệ môi trường được Quốc hội thông qua ngày 27 tháng 12 năm 1993, có hiệu lực từ ngày 01/04/1994;
Đặt nền móng cho việc hình thành hệ thống pháp luật về môi trường. Lần đầu tiên, các khái niệm cơ bản về môi trường, bảo vệ môi trường được định nghĩa một cách chuẩn xác, quyền và nghĩa vụ bảo vệ môi trường của các tổ chức, cá nhân được quy định.
Phần hai: Tóm tắt những bất cập và hạn chế của Luật BVMT 1993
Qua hơn 10 năm thực hiện Luật, công tác bảo vệ môi trường ở nước ta đã có những chuyển biến tích cực.
Tuy nhiên, trước những áp lực của tiến trình đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, sự diễn biến sôi động và toàn diện của toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế, Luật Bảo vệ môi trường đã bộc lộ những hạn chế, bất cập, cần được sửa đổi
Một là, bản thân Luật Bảo vệ môi trường có những bất cập cần phải được điều chỉnh.
Bốn là, định hướng xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và chủ trương cải cách hành chính đòi hỏi phải đổi mới và tăng cường thể chế về bảo vệ môi trường.
Ba là, môi trường nước ta trong thời gian tới sẽ phải chịu áp lực rất lớn khi công nghiệp hoá, hiện đại hoá được đẩy mạnh.
Hai là, môi trường nước ta tiếp tục bị xuống cấp nhanh, có nơi, có lúc đã đến mức báo động.
Phần ba: Phân tích cụ thể những bất cập của Luật BVMT 1993 và Sự cần thiết phải sửa đổi Luật
Bản thân Luật Bảo vệ môi trường có những bất cập cần phải được điều chỉnh
Nhiều quy phạm còn ở mức khung, thiếu cụ thể và chưa rõ ràng nên hiệu lực thi hành thấp
Chưa luật hoá các chính sách lớn, quan trọng về phát triển bền vững của Đảng và Nhà nước trong thời gian qua cũng như các cam kết quốc tế mà Việt Nam là thành viên
Bản thân Luật Bảo vệ môi trường có những bất cập cần phải được điều chỉnh
Bản thân Luật Bảo vệ môi trường có những bất cập cần phải được điều chỉnh
Nhiều quy phạm còn ở mức khung, thiếu cụ thể và chưa rõ ràng nên hiệu lực thi hành thấp
Bản thân Luật Bảo vệ môi trường có những bất cập cần phải được điều chỉnh
Chưa luật hoá các chính sách lớn, quan trọng về phát triển bền vững của Đảng và Nhà nước trong thời gian qua cũng như các cam kết quốc tế mà Việt Nam là thành viên
Nhiều quy phạm còn ở mức khung, thiếu cụ thể và chưa rõ ràng nên hiệu lực thi hành thấp
Bản thân Luật Bảo vệ môi trường có những bất cập cần phải được điều chỉnh
NHIỀU QUY PHẠM CÒN Ở MỨC KHUNG,
THIẾU CỤ THỂ VÀ CHƯA RÕ RÀNG
Phạm vi, Đối tượng áp dụng:
- Phạm vi chưa rộng, hầu như áp dụng nhiều cho các cá nhân, tổ chức có sản xuất, kinh doanh (doanh nghiệp)
=> Thiếu phạm vi áp dụng cụ thể đối với các cơ quan, hộ gia đình, tổ chức và cá nhân nước ngoài hoạt động trên lãnh thổ Việt Nam…;
- Chưa nêu rõ quy định cụ thể về việc BVMT đối với từng ngành, lĩnh vực, địa phương, địa điểm,...
Phạm vi & Đối tượng quản lý:
- Chưa quy định cụ thể phạm vi & đối tượng quản lý, quá nhiều bộ chủ quản chuyên ngành thực hiện hoặc phối hợp thực hiện hướng dẫn việc thực hiện pháp luật bảo vệ môi trường, dẫn tới tình trạng chồng chéo, mâu thuẫn về chức năng, nhiệm vụ
(Chương V, điều 37 đến 48)
=> mô hình quản lý truyền thống => khó khăn, thách thức trong việc phối hợp giữa các cơ quan; tính minh bạch, trách nhiệm giải trình chưa rõ ràng; sự tham gia của dân chúng, vai trò của yếu tố tự quản và của khu vực xã hội dân sự còn khá mờ nhạt…
Phạm vi, Đối tượng áp dụng:
- Phạm vi chưa rộng, hầu như áp dụng nhiều cho các cá nhân, tổ chức có sản xuất, kinh doanh (doanh nghiệp)
=> Thiếu phạm vi áp dụng cụ thể đối với các cơ quan, hộ gia đình, tổ chức và cá nhân nước ngoài hoạt động trên lãnh thổ Việt Nam…;
- Chưa nêu rõ quy định cụ thể về việc BVMT đối với từng ngành, lĩnh vực, địa phương, địa điểm,...
Phạm vi & Đối tượng quản lý:
- Chưa quy định cụ thể phạm vi & đối tượng quản lý, quá nhiều bộ chủ quản chuyên ngành thực hiện hoặc phối hợp thực hiện hướng dẫn việc thực hiện pháp luật bảo vệ môi trường, dẫn tới tình trạng chồng chéo, mâu thuẫn về chức năng, nhiệm vụ
(Chương V, điều 37 đến 48)
=> mô hình quản lý truyền thống => khó khăn, thách thức trong việc phối hợp giữa các cơ quan; tính minh bạch, trách nhiệm giải trình chưa rõ ràng; sự tham gia của dân chúng, vai trò của yếu tố tự quản và của khu vực xã hội dân sự còn khá mờ nhạt…
NHIỀU QUY PHẠM CÒN Ở MỨC KHUNG,
THIẾU CỤ THỂ VÀ CHƯA RÕ RÀNG
Thiếu nguyên tắc bảo vệ môi trường & Chính sách của Nhà nước về bảo vệ môi trường
(Đã được bổ sung tại điều 4, 5 – Chương I – Luật BVMT 2005);
Chưa nêu cụ thể về vấn đề Thanh tra, xử lý vi phạm, giải quyết khiếu nại, tố cáo và bồi thường thiệt hại về môi trường (Phân tích Chương IV Luật BVMT 1993);
Việc phân loại về phạm vi môi trường còn bao quát, chưa rõ ràng;
(Ví dụ: môi trường đất, nước sông, nước biển, …)
Thiếu quy định bảo vệ môi trường cụ thể trong hoạt động sản xuất,kinh doanh, dịch vụ, xuất khẩu, nhập khẩu;
Luật chưa quy định cụ thể đối với việc đánh giá môi trường chiến lược, đánh giá tác động môi trường, cam kết môi trường (Điều 17,18);
(Đã được bổ sung tại Chương III – Luât BVMT 2005)
Luật chưa nêu rõ quy định bảo vệ môi trường đối với từng loại chất gây ô nhiễm mà chỉ nêu đồng bộ
=> khó thi hành cụ thể;
Các văn bản quy phạm pháp luật vể môi trường hiện nay vẫn chưa được thiết kế một cách hệ thống, đồng bộ dẫn đến mâu thuẫn, chồng chéo gây khó khăn cho việc áp dụng;
Nhiều quy định của pháp luật môi trường trong thời gian qua chỉ tồn tại trên giấy;
Ví dụ: vấn đề thu phí bảo vệ môi trường đối với các phương tiện giao thông cơ giới đã được quy định nhưng vẫn chưa được triển khai áp dụng cũng như vấn đề thu hồi, xử lý sản phẩm hết hạn sử dụng hoặc thải bỏ, …
…
* Ngoài những bất cập và hạn chế nêu trên, chúng tôi còn bổ sung thêm một ý quan trọng của Luật Bảo vệ môi trường cũng như các văn bản Pháp luật khác của Việt Nam:
NHIỀU QUY PHẠM CÒN Ở MỨC KHUNG,
THIẾU CỤ THỂ VÀ CHƯA RÕ RÀNG
Hiệu lực thi hành trong thực tế của
pháp luật còn rất hạn chế
(Thiếu cơ chế đảm bảo thi hành)
Hạn chế của hầu
hết các văn bản
Pháp luật VN
Sự tồn tại của các dòng sông chết; sự xuống cấp của môi trường đô thị và nông thôn…
?
Sự chồng chéo chức năng, thẩm quyền trong bảo vệ môi trường;
Bất cập với địa giới hành chính;
Biện pháp chế tài chưa đủ mạnh;
Cơ chế giải quyết tranh chấp chưa hình thành một cách rõ ràng và cơ quan tòa án cũng chưa thực sự tham gia vào quá trình giải quyết tranh chấp môi trường (Khó bồi thường thiệt hại).
LUẬT KHÔNG ĐẢM BẢO SỰ THI HÀNH
Môi trường nước ta tiếp tục bị xuống cấp nhanh,
có nơi, có lúc đã đến mức báo động
Đất
đai
bị
xói
mòn,
thoái
hóa
Chất
lượng
các
nguồn
nước
suy
giảm
mạnh
Tài nguyên
thiên nhiên
bị khai
thác quá
mức
Khối lượng
phát sinh
và mức độ
độc hại của
chất thải
ngày càng
tăng
Không
khí ở
nhiều
khu đô
thị,
khu dân
cư bị
ô nhiễm
nặng
Điều kiện
vệ sinh
môi trường,
cung cấp
nước sạch
nhiều nơi
chưa được
bảo đảm
….
Đa dạng
sinh học
bị suy
giảm
nghiêm
trọng
*Dữ liệu cụ thể cho thấy sự xuống cấp của môi trường Việt Nam:
Môi trường đất: Có xu thế thoái hoá do xói mòn, rửa trôi, mất chất hữu cơ; khô hạn, sa mạc hoá, ngập úng, lũ; trượt, sạt lở đất; mặn hoá, phèn hoá... dẫn đến nhiều vùng đất bị cắn cỗi, không còn khả năng canh tác và tăng diện tích đất bị hoang mạc hóa;
Môi trường nước: Chất lượng nước ở thượng lưu các con sông còn khá tốt nhưng vùng hạ lưu phần lớn bị ô nhiễm, nhiều nơi ô nhiễm nghiêm trọng. Chất lượng nước suy giảm mạnh: nhiều chỉ tiêu như BOD, COD, NH4, tổng N, tổng P cao hơn tiêu chuẩn cho phép nhiều lần. Nước ngầm ở một số vùng, đặc biệt là một số khu công nghiệp và đô thị có nguy cơ cạn kiệt vào mùa khô và ở một số nơi đã có dấu hiệu bị ô nhiễm do khai thác bừa bãi và không đúng kỹ thuật;
Môi trường không khí: Chất lượng không khí ở Việt Nam nói chung còn khá tốt, đặc biệt là ở nông thôn và miền núi. Thế nhưng vấn đề bụi lại đang trở thành vấn đề cấp bách ở các khu đô thị và các khu công nghiệp. Việc gia tăng các phương tiện giao thông cũng đang gây ô nhiễm không khí ở nhiều nơi. Nồng độ chì, khí CO khá cao, trực tiếp gây hại đến sức khoẻ của những người tham gia giao thông. Nhiều vụ cháy rừng gần đây làm suy giảm chất lượng không khí và gây ra một số hiện tượng thiên nhiên không bình thường khác;
Môi trường đô thị và công nghiệp: Ô nhiễm do hệ thống tiêu nước, thoát nước lạc hậu, xuống cấp nhanh. Năng lực thu gom chất thải rắn còn thấp kém; chất thải nguy hại chưa được thu gom và xử lý theo đúng quy định. Trong khi đó, bụi, khí thải, tiếng ồn... do hoạt động giao thông vận tải nội thị và mạng lưới cơ sở sản xuất quy mô vừa và nhỏ cùng với hạ tầng kỹ thuật đô thị yếu kém, không theo kịp với sự gia tăng dân số đã làm nảy sinh các vấn đề bất cập về mặt xã hội và vệ sinh môi trường đô thị;
Môi trường lao động, dân số và môi trường: Nhiều khu vực sản xuất không đảm bảo tiêu chuẩn vệ sinh an toàn lao động, gia tăng tỷ lệ mắc bệnh nghề nghiệp. Dân số Việt Nam thuộc loại đông trên thế giới, gây áp lực rất lớn lên môi trường;
Môi trường nông thôn và miền núi: Với hơn 75% dân số sống ở nông thôn miền núi, song tỷ lệ hố xí hợp vệ sinh chỉ chiếm 28-30%. Số hộ được cung cấp nước sạch chỉ đạt khoảng 50% do các hủ tục lạc hậu, cách sống thiếu vệ sinh. Nạn chặt phá rừng làm nương rẫy, ô nhiễm môi trường các làng nghề, lạm dụng hoá chất trong canh tác nông nghiệp cũng góp phần làm suy thoái đất canh tác, ô nhiễm nguồn nước và suy giảm đa dạng sinh học;
Rừng và độ che phủ thảm thực vật: Độ che phủ rừng tăng nhưng chất lượng rừng chưa được cải thiện, vẫn tiếp tục bị suy giảm. Rừng tự nhiên đầu nguồn và rừng ngập mặn bị tàn phá nghiêm trọng;
Đa dạng sinh học: Việt Nam là một trong mười quốc gia có đa dạng sinh học thuộc dạng cao nhất trên thế giới. Tuy nhiên, những năm gần đây, đa dạng sinh học nước ta bị suy giảm mạnh do cháy rừng, do chuyển đổi mục đích sử dụng đất đai, làm thu hẹp nơi cư trú của các giống loài. Nạn khai thác và đánh bắt quá mức, buôn bán trái phép động vật, thực vật quý hiếm vẫn tiếp diễn…;
Môi trường biển ven bờ: Việt Nam có bờ biển dài hơn 3.200km nhưng trong vòng 20 năm qua, diện tích rừng ngập mặn nước ta giảm hơn một nửa. Lũ quét, triều cường, sóng biển dẫn tới sạt lở bờ biển làm cho các loài sinh vật bị mất nơi cư trú, suy giảm mạnh về chủng loại và số lượng.
(Nguyên văn “Báo cáo hiện trạng môi trường” được công bố vào 26/08/2004 tại Hà Nội – Hiện trạng từ năm 1998 đến thời gian công bố).
Môi trường nước ta trong thời gian tới sẽ phải chịu áp lực rất lớn
khi công nghiệp hoá, hiện đại hoá được đẩy mạnh
Nhu cầu
sử dụng
tài nguyên
thiên nhiên
rất lớn
và gia tăng
các nguồn thải
gây ô nhiễm,
suy thoái
môi trường
Quá trình
đô thị hoá
diễn ra
nhanh chóng,
gia tăng
dân số
nhanh cũng
gây nên nhiều
vấn đề môi
trường bức
xúc
Bên cạnh đó, các vấn đề
môi trường toàn cầunhư
biến đổi khí hậu,
suy giảm đa dạng
sinh học, ô nhiễm nguồn
nước quốc tế có xu hướng
tác động mạnh và nhiều mặt
đến môi trường nước ta
Môi trường là vấn đề có tính liên ngành, liên vùng và toàn cầu. Vì vậy, môi trường nước ta cũng chịu tác động bởi môi trường toàn cầu và môi trường xuyên biên giới với các quốc gia láng giềng. Những tác động chính dưới đây cũng là những thách thức cần được quan tâm giải quyết:
- Vấn đề môi trường của các lưu vực sông Cửu long và sông Hồng ;
- Vấn đề bảo vệ môi trường của các vùng rừng xuyên biên giới;
- Vấn đề mưa a-xít;
- Ô nhiễm tầng khí quyển và hiệu ứng nhà kính;
- Ô nhiễm biển và đại dương;
- Thủng tầng ôzôn;
- Chuyển dịch ô nhiễm.
Hiện trạng môi trường tiếp tục xuống cấp và các vấn đề môi trường toàn cầu vừa nêu là những thách thức nghiêm trọng đối với môi trường Việt Nam trong thời gian tới, đồng thời cũng có những thách thức khác nữa:
- Phát triển kinh tế - xã hội;
- Sự tăng dân số và di dân tự do;
- Công nghiệp hoá, hiện đại hoá;
- Nhận thức về môi trường và phát triển bền vững còn thấp;
- Du lịch, thương mại và môi trường;
- Năng lực quản lý môi trường bị hạn chế;
- Mẫu hình tiêu thụ.
Định hướng xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
và chủ trương cải cách hành chính đòi hỏi phải đổi mới
và tăng cường thể chế về bảo vệ môi trường
Giải quyết những hạn chế về cơ chế hiện tại, xây dựng một
mô hình quản lý Nhà nước về quản lý môi trường tiên tiến hơn.
Muốn giải quyết tốt các vấn đề môi trường, chỉ sức mạnhcủa
nhà nước thôi là không đủ, mà phải dựa vào sức mạnh tổng thể
của cả xã hội, đặc biệt là 3 trụ cột chính:
Nhà nước, Thị trường và Xã hội dân sự (bao gồm các tổ chức xã hội
dân sự và cộng đồng dân cư) …
Phần bốn: TỔNG KẾT
Như vậy, qua sự phân tích trong bài, chúng ta đã nhận ra được tầm quan trọng và ý nghĩa của sự ra đời Luật Bảo vệ môi trường, cũng như là những bất cập và hạn chế của Luật BVMT năm 1993…
Từ đó, có thể nói sự cần thiết phải thay đổi luật là một điều tất yếu & Kết quả là sự ra đời của Luật BVMT năm 2005…
Quá trình hoàn thành một hệ thống Luật (Luật BVMT) hoàn chỉnh, tiên tiến là một quá trình khó khăn, lâu dài và đầy thử thách;
Luật vừa là “Sản phẩm”, vừa là “Quá trình”. Bởi vậy trong quá trình hình thành Luật, bao giờ cũng nảy sinh những bất cập mà đòi hỏi chúng ta phải nhìn nhận để giải quyết, sửa đổi nó cho phù hợp. Từ đó mới tạo điều kiện cho việc bảo vệ môi trường của chúng ta tốt hơn !!!.
*Trong bài có sử dụng tư liệu từ các nguồn sau:
Dự thảo báo cáo rà soát luật BVMT – TS. Nguyễn Văn Cương (Viện Khoa học pháp lý – Bộ Tư pháp);
Báo cáo hiện trạng môi trường 08/2004;
Luật Bảo vệ môi trường 1993 và 2005;
Các tư liệu từ các báo điện tử vietnamnet.vn, vietbao.vn, …
Bài báo cáo của Pi C&E (23/05/2006).
Và những nguồn thông tin tin cậy khác…
Những người thực hiện:
Nguyễn Đức Duy
Huỳnh Tuấn Anh
Hồ Hữu Quế
CAM ON SU THEO DOI CUA THAY CO VA CAC BAN !!!
Luật & Chính sách môi trường
Chuyên đề:
Những bất cập của luật Bảo vệ môi trường năm 1993 và sự cần thiết phải sửa đổi Luật
Những vấn đề chính:
Tại sao phải ban hành Luật Bảo vệ môi trường (BVMT) - Sơ lược & ý nghĩa của Luật BVMT năm 1993;
Những bất cập và hạn chế của Luật BVMT năm 1993;
Phân tích cụ thể những bất cập của Luật BVMT 1993 và Sự cần thiết phải sửa đổi Luật;
Tổng kết về chuyên đề.
Phần một: Tại sao phải ban hành Luật Bảo vệ môi trường (BVMT) - Sơ lược & ý nghĩa của Luật BVMT năm 1993
I. Tại sao phải ban hành luật BVMT?
Môi trường
Con người
Sinh vật
Phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội
Con người
Hoạt động
phát triển
Sinh vật
Chất thải
Không tự hồi phục
Luật Bảo vệ môi trường
II. Sơ lược và ý nghĩa của Luật Bảo vệ môi trường:
Căn cứ vào Điều 29 và Điều 84 của Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992;
Luật Bảo vệ môi trường được Quốc hội thông qua ngày 27 tháng 12 năm 1993, có hiệu lực từ ngày 01/04/1994;
Đặt nền móng cho việc hình thành hệ thống pháp luật về môi trường. Lần đầu tiên, các khái niệm cơ bản về môi trường, bảo vệ môi trường được định nghĩa một cách chuẩn xác, quyền và nghĩa vụ bảo vệ môi trường của các tổ chức, cá nhân được quy định.
Phần hai: Tóm tắt những bất cập và hạn chế của Luật BVMT 1993
Qua hơn 10 năm thực hiện Luật, công tác bảo vệ môi trường ở nước ta đã có những chuyển biến tích cực.
Tuy nhiên, trước những áp lực của tiến trình đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, sự diễn biến sôi động và toàn diện của toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế, Luật Bảo vệ môi trường đã bộc lộ những hạn chế, bất cập, cần được sửa đổi
Một là, bản thân Luật Bảo vệ môi trường có những bất cập cần phải được điều chỉnh.
Bốn là, định hướng xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và chủ trương cải cách hành chính đòi hỏi phải đổi mới và tăng cường thể chế về bảo vệ môi trường.
Ba là, môi trường nước ta trong thời gian tới sẽ phải chịu áp lực rất lớn khi công nghiệp hoá, hiện đại hoá được đẩy mạnh.
Hai là, môi trường nước ta tiếp tục bị xuống cấp nhanh, có nơi, có lúc đã đến mức báo động.
Phần ba: Phân tích cụ thể những bất cập của Luật BVMT 1993 và Sự cần thiết phải sửa đổi Luật
Bản thân Luật Bảo vệ môi trường có những bất cập cần phải được điều chỉnh
Nhiều quy phạm còn ở mức khung, thiếu cụ thể và chưa rõ ràng nên hiệu lực thi hành thấp
Chưa luật hoá các chính sách lớn, quan trọng về phát triển bền vững của Đảng và Nhà nước trong thời gian qua cũng như các cam kết quốc tế mà Việt Nam là thành viên
Bản thân Luật Bảo vệ môi trường có những bất cập cần phải được điều chỉnh
Bản thân Luật Bảo vệ môi trường có những bất cập cần phải được điều chỉnh
Nhiều quy phạm còn ở mức khung, thiếu cụ thể và chưa rõ ràng nên hiệu lực thi hành thấp
Bản thân Luật Bảo vệ môi trường có những bất cập cần phải được điều chỉnh
Chưa luật hoá các chính sách lớn, quan trọng về phát triển bền vững của Đảng và Nhà nước trong thời gian qua cũng như các cam kết quốc tế mà Việt Nam là thành viên
Nhiều quy phạm còn ở mức khung, thiếu cụ thể và chưa rõ ràng nên hiệu lực thi hành thấp
Bản thân Luật Bảo vệ môi trường có những bất cập cần phải được điều chỉnh
NHIỀU QUY PHẠM CÒN Ở MỨC KHUNG,
THIẾU CỤ THỂ VÀ CHƯA RÕ RÀNG
Phạm vi, Đối tượng áp dụng:
- Phạm vi chưa rộng, hầu như áp dụng nhiều cho các cá nhân, tổ chức có sản xuất, kinh doanh (doanh nghiệp)
=> Thiếu phạm vi áp dụng cụ thể đối với các cơ quan, hộ gia đình, tổ chức và cá nhân nước ngoài hoạt động trên lãnh thổ Việt Nam…;
- Chưa nêu rõ quy định cụ thể về việc BVMT đối với từng ngành, lĩnh vực, địa phương, địa điểm,...
Phạm vi & Đối tượng quản lý:
- Chưa quy định cụ thể phạm vi & đối tượng quản lý, quá nhiều bộ chủ quản chuyên ngành thực hiện hoặc phối hợp thực hiện hướng dẫn việc thực hiện pháp luật bảo vệ môi trường, dẫn tới tình trạng chồng chéo, mâu thuẫn về chức năng, nhiệm vụ
(Chương V, điều 37 đến 48)
=> mô hình quản lý truyền thống => khó khăn, thách thức trong việc phối hợp giữa các cơ quan; tính minh bạch, trách nhiệm giải trình chưa rõ ràng; sự tham gia của dân chúng, vai trò của yếu tố tự quản và của khu vực xã hội dân sự còn khá mờ nhạt…
Phạm vi, Đối tượng áp dụng:
- Phạm vi chưa rộng, hầu như áp dụng nhiều cho các cá nhân, tổ chức có sản xuất, kinh doanh (doanh nghiệp)
=> Thiếu phạm vi áp dụng cụ thể đối với các cơ quan, hộ gia đình, tổ chức và cá nhân nước ngoài hoạt động trên lãnh thổ Việt Nam…;
- Chưa nêu rõ quy định cụ thể về việc BVMT đối với từng ngành, lĩnh vực, địa phương, địa điểm,...
Phạm vi & Đối tượng quản lý:
- Chưa quy định cụ thể phạm vi & đối tượng quản lý, quá nhiều bộ chủ quản chuyên ngành thực hiện hoặc phối hợp thực hiện hướng dẫn việc thực hiện pháp luật bảo vệ môi trường, dẫn tới tình trạng chồng chéo, mâu thuẫn về chức năng, nhiệm vụ
(Chương V, điều 37 đến 48)
=> mô hình quản lý truyền thống => khó khăn, thách thức trong việc phối hợp giữa các cơ quan; tính minh bạch, trách nhiệm giải trình chưa rõ ràng; sự tham gia của dân chúng, vai trò của yếu tố tự quản và của khu vực xã hội dân sự còn khá mờ nhạt…
NHIỀU QUY PHẠM CÒN Ở MỨC KHUNG,
THIẾU CỤ THỂ VÀ CHƯA RÕ RÀNG
Thiếu nguyên tắc bảo vệ môi trường & Chính sách của Nhà nước về bảo vệ môi trường
(Đã được bổ sung tại điều 4, 5 – Chương I – Luật BVMT 2005);
Chưa nêu cụ thể về vấn đề Thanh tra, xử lý vi phạm, giải quyết khiếu nại, tố cáo và bồi thường thiệt hại về môi trường (Phân tích Chương IV Luật BVMT 1993);
Việc phân loại về phạm vi môi trường còn bao quát, chưa rõ ràng;
(Ví dụ: môi trường đất, nước sông, nước biển, …)
Thiếu quy định bảo vệ môi trường cụ thể trong hoạt động sản xuất,kinh doanh, dịch vụ, xuất khẩu, nhập khẩu;
Luật chưa quy định cụ thể đối với việc đánh giá môi trường chiến lược, đánh giá tác động môi trường, cam kết môi trường (Điều 17,18);
(Đã được bổ sung tại Chương III – Luât BVMT 2005)
Luật chưa nêu rõ quy định bảo vệ môi trường đối với từng loại chất gây ô nhiễm mà chỉ nêu đồng bộ
=> khó thi hành cụ thể;
Các văn bản quy phạm pháp luật vể môi trường hiện nay vẫn chưa được thiết kế một cách hệ thống, đồng bộ dẫn đến mâu thuẫn, chồng chéo gây khó khăn cho việc áp dụng;
Nhiều quy định của pháp luật môi trường trong thời gian qua chỉ tồn tại trên giấy;
Ví dụ: vấn đề thu phí bảo vệ môi trường đối với các phương tiện giao thông cơ giới đã được quy định nhưng vẫn chưa được triển khai áp dụng cũng như vấn đề thu hồi, xử lý sản phẩm hết hạn sử dụng hoặc thải bỏ, …
…
* Ngoài những bất cập và hạn chế nêu trên, chúng tôi còn bổ sung thêm một ý quan trọng của Luật Bảo vệ môi trường cũng như các văn bản Pháp luật khác của Việt Nam:
NHIỀU QUY PHẠM CÒN Ở MỨC KHUNG,
THIẾU CỤ THỂ VÀ CHƯA RÕ RÀNG
Hiệu lực thi hành trong thực tế của
pháp luật còn rất hạn chế
(Thiếu cơ chế đảm bảo thi hành)
Hạn chế của hầu
hết các văn bản
Pháp luật VN
Sự tồn tại của các dòng sông chết; sự xuống cấp của môi trường đô thị và nông thôn…
?
Sự chồng chéo chức năng, thẩm quyền trong bảo vệ môi trường;
Bất cập với địa giới hành chính;
Biện pháp chế tài chưa đủ mạnh;
Cơ chế giải quyết tranh chấp chưa hình thành một cách rõ ràng và cơ quan tòa án cũng chưa thực sự tham gia vào quá trình giải quyết tranh chấp môi trường (Khó bồi thường thiệt hại).
LUẬT KHÔNG ĐẢM BẢO SỰ THI HÀNH
Môi trường nước ta tiếp tục bị xuống cấp nhanh,
có nơi, có lúc đã đến mức báo động
Đất
đai
bị
xói
mòn,
thoái
hóa
Chất
lượng
các
nguồn
nước
suy
giảm
mạnh
Tài nguyên
thiên nhiên
bị khai
thác quá
mức
Khối lượng
phát sinh
và mức độ
độc hại của
chất thải
ngày càng
tăng
Không
khí ở
nhiều
khu đô
thị,
khu dân
cư bị
ô nhiễm
nặng
Điều kiện
vệ sinh
môi trường,
cung cấp
nước sạch
nhiều nơi
chưa được
bảo đảm
….
Đa dạng
sinh học
bị suy
giảm
nghiêm
trọng
*Dữ liệu cụ thể cho thấy sự xuống cấp của môi trường Việt Nam:
Môi trường đất: Có xu thế thoái hoá do xói mòn, rửa trôi, mất chất hữu cơ; khô hạn, sa mạc hoá, ngập úng, lũ; trượt, sạt lở đất; mặn hoá, phèn hoá... dẫn đến nhiều vùng đất bị cắn cỗi, không còn khả năng canh tác và tăng diện tích đất bị hoang mạc hóa;
Môi trường nước: Chất lượng nước ở thượng lưu các con sông còn khá tốt nhưng vùng hạ lưu phần lớn bị ô nhiễm, nhiều nơi ô nhiễm nghiêm trọng. Chất lượng nước suy giảm mạnh: nhiều chỉ tiêu như BOD, COD, NH4, tổng N, tổng P cao hơn tiêu chuẩn cho phép nhiều lần. Nước ngầm ở một số vùng, đặc biệt là một số khu công nghiệp và đô thị có nguy cơ cạn kiệt vào mùa khô và ở một số nơi đã có dấu hiệu bị ô nhiễm do khai thác bừa bãi và không đúng kỹ thuật;
Môi trường không khí: Chất lượng không khí ở Việt Nam nói chung còn khá tốt, đặc biệt là ở nông thôn và miền núi. Thế nhưng vấn đề bụi lại đang trở thành vấn đề cấp bách ở các khu đô thị và các khu công nghiệp. Việc gia tăng các phương tiện giao thông cũng đang gây ô nhiễm không khí ở nhiều nơi. Nồng độ chì, khí CO khá cao, trực tiếp gây hại đến sức khoẻ của những người tham gia giao thông. Nhiều vụ cháy rừng gần đây làm suy giảm chất lượng không khí và gây ra một số hiện tượng thiên nhiên không bình thường khác;
Môi trường đô thị và công nghiệp: Ô nhiễm do hệ thống tiêu nước, thoát nước lạc hậu, xuống cấp nhanh. Năng lực thu gom chất thải rắn còn thấp kém; chất thải nguy hại chưa được thu gom và xử lý theo đúng quy định. Trong khi đó, bụi, khí thải, tiếng ồn... do hoạt động giao thông vận tải nội thị và mạng lưới cơ sở sản xuất quy mô vừa và nhỏ cùng với hạ tầng kỹ thuật đô thị yếu kém, không theo kịp với sự gia tăng dân số đã làm nảy sinh các vấn đề bất cập về mặt xã hội và vệ sinh môi trường đô thị;
Môi trường lao động, dân số và môi trường: Nhiều khu vực sản xuất không đảm bảo tiêu chuẩn vệ sinh an toàn lao động, gia tăng tỷ lệ mắc bệnh nghề nghiệp. Dân số Việt Nam thuộc loại đông trên thế giới, gây áp lực rất lớn lên môi trường;
Môi trường nông thôn và miền núi: Với hơn 75% dân số sống ở nông thôn miền núi, song tỷ lệ hố xí hợp vệ sinh chỉ chiếm 28-30%. Số hộ được cung cấp nước sạch chỉ đạt khoảng 50% do các hủ tục lạc hậu, cách sống thiếu vệ sinh. Nạn chặt phá rừng làm nương rẫy, ô nhiễm môi trường các làng nghề, lạm dụng hoá chất trong canh tác nông nghiệp cũng góp phần làm suy thoái đất canh tác, ô nhiễm nguồn nước và suy giảm đa dạng sinh học;
Rừng và độ che phủ thảm thực vật: Độ che phủ rừng tăng nhưng chất lượng rừng chưa được cải thiện, vẫn tiếp tục bị suy giảm. Rừng tự nhiên đầu nguồn và rừng ngập mặn bị tàn phá nghiêm trọng;
Đa dạng sinh học: Việt Nam là một trong mười quốc gia có đa dạng sinh học thuộc dạng cao nhất trên thế giới. Tuy nhiên, những năm gần đây, đa dạng sinh học nước ta bị suy giảm mạnh do cháy rừng, do chuyển đổi mục đích sử dụng đất đai, làm thu hẹp nơi cư trú của các giống loài. Nạn khai thác và đánh bắt quá mức, buôn bán trái phép động vật, thực vật quý hiếm vẫn tiếp diễn…;
Môi trường biển ven bờ: Việt Nam có bờ biển dài hơn 3.200km nhưng trong vòng 20 năm qua, diện tích rừng ngập mặn nước ta giảm hơn một nửa. Lũ quét, triều cường, sóng biển dẫn tới sạt lở bờ biển làm cho các loài sinh vật bị mất nơi cư trú, suy giảm mạnh về chủng loại và số lượng.
(Nguyên văn “Báo cáo hiện trạng môi trường” được công bố vào 26/08/2004 tại Hà Nội – Hiện trạng từ năm 1998 đến thời gian công bố).
Môi trường nước ta trong thời gian tới sẽ phải chịu áp lực rất lớn
khi công nghiệp hoá, hiện đại hoá được đẩy mạnh
Nhu cầu
sử dụng
tài nguyên
thiên nhiên
rất lớn
và gia tăng
các nguồn thải
gây ô nhiễm,
suy thoái
môi trường
Quá trình
đô thị hoá
diễn ra
nhanh chóng,
gia tăng
dân số
nhanh cũng
gây nên nhiều
vấn đề môi
trường bức
xúc
Bên cạnh đó, các vấn đề
môi trường toàn cầunhư
biến đổi khí hậu,
suy giảm đa dạng
sinh học, ô nhiễm nguồn
nước quốc tế có xu hướng
tác động mạnh và nhiều mặt
đến môi trường nước ta
Môi trường là vấn đề có tính liên ngành, liên vùng và toàn cầu. Vì vậy, môi trường nước ta cũng chịu tác động bởi môi trường toàn cầu và môi trường xuyên biên giới với các quốc gia láng giềng. Những tác động chính dưới đây cũng là những thách thức cần được quan tâm giải quyết:
- Vấn đề môi trường của các lưu vực sông Cửu long và sông Hồng ;
- Vấn đề bảo vệ môi trường của các vùng rừng xuyên biên giới;
- Vấn đề mưa a-xít;
- Ô nhiễm tầng khí quyển và hiệu ứng nhà kính;
- Ô nhiễm biển và đại dương;
- Thủng tầng ôzôn;
- Chuyển dịch ô nhiễm.
Hiện trạng môi trường tiếp tục xuống cấp và các vấn đề môi trường toàn cầu vừa nêu là những thách thức nghiêm trọng đối với môi trường Việt Nam trong thời gian tới, đồng thời cũng có những thách thức khác nữa:
- Phát triển kinh tế - xã hội;
- Sự tăng dân số và di dân tự do;
- Công nghiệp hoá, hiện đại hoá;
- Nhận thức về môi trường và phát triển bền vững còn thấp;
- Du lịch, thương mại và môi trường;
- Năng lực quản lý môi trường bị hạn chế;
- Mẫu hình tiêu thụ.
Định hướng xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
và chủ trương cải cách hành chính đòi hỏi phải đổi mới
và tăng cường thể chế về bảo vệ môi trường
Giải quyết những hạn chế về cơ chế hiện tại, xây dựng một
mô hình quản lý Nhà nước về quản lý môi trường tiên tiến hơn.
Muốn giải quyết tốt các vấn đề môi trường, chỉ sức mạnhcủa
nhà nước thôi là không đủ, mà phải dựa vào sức mạnh tổng thể
của cả xã hội, đặc biệt là 3 trụ cột chính:
Nhà nước, Thị trường và Xã hội dân sự (bao gồm các tổ chức xã hội
dân sự và cộng đồng dân cư) …
Phần bốn: TỔNG KẾT
Như vậy, qua sự phân tích trong bài, chúng ta đã nhận ra được tầm quan trọng và ý nghĩa của sự ra đời Luật Bảo vệ môi trường, cũng như là những bất cập và hạn chế của Luật BVMT năm 1993…
Từ đó, có thể nói sự cần thiết phải thay đổi luật là một điều tất yếu & Kết quả là sự ra đời của Luật BVMT năm 2005…
Quá trình hoàn thành một hệ thống Luật (Luật BVMT) hoàn chỉnh, tiên tiến là một quá trình khó khăn, lâu dài và đầy thử thách;
Luật vừa là “Sản phẩm”, vừa là “Quá trình”. Bởi vậy trong quá trình hình thành Luật, bao giờ cũng nảy sinh những bất cập mà đòi hỏi chúng ta phải nhìn nhận để giải quyết, sửa đổi nó cho phù hợp. Từ đó mới tạo điều kiện cho việc bảo vệ môi trường của chúng ta tốt hơn !!!.
*Trong bài có sử dụng tư liệu từ các nguồn sau:
Dự thảo báo cáo rà soát luật BVMT – TS. Nguyễn Văn Cương (Viện Khoa học pháp lý – Bộ Tư pháp);
Báo cáo hiện trạng môi trường 08/2004;
Luật Bảo vệ môi trường 1993 và 2005;
Các tư liệu từ các báo điện tử vietnamnet.vn, vietbao.vn, …
Bài báo cáo của Pi C&E (23/05/2006).
Và những nguồn thông tin tin cậy khác…
Những người thực hiện:
Nguyễn Đức Duy
Huỳnh Tuấn Anh
Hồ Hữu Quế
CAM ON SU THEO DOI CUA THAY CO VA CAC BAN !!!
* Một số tài liệu cũ có thể bị lỗi font khi hiển thị do dùng bộ mã không phải Unikey ...
Người chia sẻ: Nguyễn Thị Diệu Hiền
Dung lượng: |
Lượt tài: 0
Loại file:
Nguồn : Chưa rõ
(Tài liệu chưa được thẩm định)