Lớp một lá mầm hay lớp hành

Chia sẻ bởi Nguyễn Thị Lệ Thu | Ngày 23/10/2018 | 41

Chia sẻ tài liệu: Lớp một lá mầm hay lớp hành thuộc Bài giảng khác

Nội dung tài liệu:

CHÀO MỪNG CÁC BẠN ĐẾN VỚI BÀI BÁO CÁO CỦA NHÓM 3
Bạn có biết cây này thuộc họ gì không?
LỚP MỘT LÁ
MẦM (MONOCOTYLEDONAE)
HAY LỚP HÀNH (LILIOPSIDA).
GVHD:PHẠM THỊ THANH MAI
LỚP CĐSHSO8A
NHÓM 3:
1.Nguyễn Thị Cẩm Tú
2.Nguyễn Thị Kim Xoa
3.Nguyễn Thị Lệ Thu
4.Nguyễn Thanh Sang
5.Nguyễn Thanh Sơn
6.Nguyễn Thị Thu Trang
7.Nguyễn Văn Nhàn
8.Bùi Thị Tím
9.Trần Thị Thi Thơ

Lớp một lá mầm bao gồm những thực vật tiến hóa theo con đường riêng. Về mặt số lượng tuy không nhiều bằng lớp Hai lá mầm, nhưng về mặt ý nghĩa thực tiễn thì các cây Một lá mầm cũng không kém phần quan trọng. Tất cả các cây lương thực chủ yếu của người như lúa, lúa mì ngô và cả gia súc (nhiều loại cỏ) đều thuộc lớp này.


Cho đến nay, các nhà phân loại học chưa thống nhất với nhau về sự phân chia các bộ, họ của lớp Một lá mầm: con số bộ, họ thay đổi tùy theo từng tác giả. Theo Takhatajan (1980) thì lớp này có 21 bộ, 79 họ thuộc 3 phân lớp sau:

Phân lớp Trạch tả (Alismidae)
Phân lớp Hành (Liliidae)
Phân lớp Cau (Arecidae).
Phân lớp Hành có 16 bộ nhưng ở đây nhóm em chỉ trình bày đại diện 5 bộ:
1. Bộ Hành hay bộ Huệ tây (Liliales)
2. Bộ Gừng (Zingiberales)
3. Bộ Lan (Orchidales)
4. Bộ Cói (Cyperales)
5 .Bộ Lúa (Poales).
I.Bộ Hành hay bộ Huệ tây (Liliiales).

Phần lớn là thân cỏ, có thân rễ hay giò (hành) sống lâu năm, ở trên cạn, đôi khi ở nước, chỉ một số ít có dạng thân gỗ sống nhiều năm.
Hoa thường lưỡng tính, đều hay không đều, mẫu 3. Hành là một bộ lớn, gồm tới trên 20 họ. Nhiều chi trong bộ này trước đây được xếp vào một họ lớn là họ Hành (Liliaceae). Trong bảng hệ thống sinh sửa đổi năm 1980 những chi này được Takhtajan tách thành những họ riêng với một số tính chất điển hình. Ví dụ:
1. Họ Hành (Alliaceae).
Cây thân cỏ sống lâu năm, có giò đơn hoặc kép, thường có chất dự trữ do bẹ lá phồng lên tạo thành. Lá hình bản dẹp hay hình ống. Cụm hoa nằm ở trên một cuống dài, ở ngọn, hình đầu hay hình tán. Bao hoa dạng vảy. Qủa mở.
Công thức hoa: *P3+3A3+3G(3)
Trong họ này ở nước ta có trồng nhiều cây làm gia vị như: hành tây (Alilium cepa L. ), kiệu (A.chinense G.Don), tỏi ta (A.sativum L.), hẹ (A.tuberosum Rotts.et Spreng.). Trong củ hành, tỏi chứa một loại chất có tác dụng diệt vi khuẩn (nó cũng gây mùi hăng), vì vậy có thể dùng hành tỏi để chữa cảm. Theo một tài liệu nghiên cứu, trong củ hành tây chứa 2,7 - 5,39% đường, 1,5 - 5,4% chất đạm và một ít vitamin B, C.
2. Họ Huệ Tây (Liliaceae).
Thân rễ thường có vảy. Lá hình mác hay hình vạch. Hoa lớn, có khi mọc đơn độc ở ngọn. Bao hoa dạng cánh. Qủa mở.
Công thức hoa:*P(3+3)A3+3G(3).
Trong họ này ở ta có nhập trồng loài loa kèn trắng hay huệ tây (Lilium longiforum Thunb.) để làm cảnh.
3. Họ Thủy Tiên (Amryllidaceae).
Thân hành hình củ, lá mọc từ gốc, mỏng hay mọng nước, gân lá song song. Bao hoa dạng cánh, đôi khi có tràng phụ ở vòng trong. Bầu dưới. Qủa mở.
Công thức hoa:
Trong họ, nhiều cây cho hoa đẹp, trồng làm cảnh như:
- Náng hoa trắng (Crinum.asiaticum L.): lá hình dảy lớn (có thể dài tới 1m, rộng từ 5 -10cm). Hoa màu trắng. Lá hơ nóng chườm chữa bông gân, củ làm thuốc chống nôn. Cây mọc dại ở chổ ẩm ướt và trồng làm cảnh.
- Náng hoa đỏ (C.ambile Donn.): lá hẹp và ngắn hơn lá náng hoa trắng. Hoa màu đỏ hay tía ở mặt ngoài, mặt trong trắng hay hồng nhạt, dẹp. Cây mọc tự nhiên nơi ẩm ướt và cũng được trồng làm cảnh.
-Thủy tiên (Nareissus tazetta L.): hoa màu trắng, thơm, rất đẹp. Cây mọc từ Trung Quốc thường được trồng trong bát thủy tinh hay pha lê để trang trí trong ngày tết.
- Huệ (Olyanthes tuberosa L.): hoa màu trắng hợp thành bông, mọc 2 cái 1 ở nách 1 lá bắc. Hoa thơm, thường cắm lọ để cúng.

4. Họ Thùa (Agavaceae).
Thân ngắn: lá mọc thành hình hoa thị ở sát đất, dày, mọng nước. Hoa nhỏ nằm trên một cuống dài phân nhánh ở ngọn. Cây chỉ ra hoa một lần trong đời.
Công thức hoa:
Trong họ có cây Thùa hay cây dứa Mĩ (Agave americana L.). Cụm hoa dài tới 3 – 5m, mang hàng nghìn hoa; trong khoảng 15 – 20 năm cây ra hoa một lần rồi chết. Cây có nguồn gốc từ Trung Mĩ, đựơc nhập nội để trồng làm cảnh công viên, ngày nay đã trở thành hoa dại hoặc trồng làm hàng rào, gặp nhiều ở vùng đất các ven biển. Lá có thể dùng để lấy sợi.
5. Họ huyết giác (Dracaenaceae).
Đặc trưng bởi có thân gỗ thẳng đứng,thường ít phân nhánh. Lá mọc cách tập trung ở ngọn, gân song song. Cụm hoa ở ngọn, hình bông hay chùm. Quả mọng.
- Huyết dụ tía (Cordyline fruticosa (L.) Coepp. Var. angusta Hort.): cây cao 2 - 3m, thân to bằng ngón tay hay hơn, mang nhiều vết sẹo của lá đã rụng. Lá màu tía, mọc ở ngọn. Cây trồng làm cảnh, lá dùng làm thuốc.
- Huyết giác (Dracaena cambodiana): thường mọc ở vách đá vôi, nơi có gió ẩm. Gặp ở nhiều tỉnh nước ta.
6. Họ Lục Bình (Pontederiaceae).
Cỏ lâu năm, sống ở nước hoặc chổ ẩm ướt. Hoa không đều, bao hoa dạng cánh. Quả mở.
Công thức hoa:
Bèo Nhật Bản hay bèo Lục Bình là cây sống trôi nổi ở nước. Lá mọc hình hoa thị, cuống lá phồng to thành phao nổi. Hoa màu xanh tím đốm vàng. Cây có nguồn gốc ở Châu Mĩ, trôi dạt sang ta từ khoảng 1905 và lan ra khắp nơi một cách nhanh chóng, hiện được coi là thực vật xâm hại. Cây làm thức ăn cho lợn và làm phân xanh; có thể khai thác cuống lá phơi khô để dệt thảm, làm giỏ xách.
7. Họ La Dơn (Iridaceae).
Thân rễ dạng củ hay hành lá hình gươm, mọc từ gốc, mép lá chồng lên nhau, chéo 2 hàng. Hoa không đều, bao hoa dạng cánh. Quả mở.
Công thức hoa:
Đây là một họ lớn, có tới 70 chi và 1500 loài, phân bố khắp nơi, phần lớn ở Châu Phi. Nhiều loài làm cây cảnh hay cây cho sợi. Ở nước ta gặp vài loài:
- Rẻ quạt = lưỡi đòng = xạ can (Belamcanda chinenss L.): Thân rễ bò sống dai. Hoa màu vàng cam điểm theo những đốm tía. Cây mọc hoang dại và trồng làm cảnh. Thân rễ lá dùng chữa bệnh viêm họng.
- La dơn (Gladiolus gandavensis Van Houte): cây nhập nội trồng làm cảnh.
Do sự lai giống mà ngày nay ta đã có nhiều thứ hoa có màu khác nhau: đỏ, hồng, trắng, tím…
- Huệ Nhật (Iris japonica Thunb.): Hoa màu xanh tím, đẹp, ở SaPa, một số nơi trồng làm cảnh.
II.Bộ Gừng (Zingiberales).
Bao gồm những cây có thân rễ, lá lớn với kiểu gân đặc biệt gồm một gân chính ở giữa, từ đó phát hiện ra những gân bên song song. Hoa không đều, đối xứng 2 bên hoặc không đối xứng. Bộ nhị có số lượng giảm rõ rệt, một số biến thành các bản dạng cánh. Hoa cấu tạo thích nghi với lối thụ phấn nhờ sâu bọ.
Bộ gừng có quan hệ với bộ Hành và xuất phất từ đó đi lên. Bộ gồm 8 họ ở nước ta có 6 họ, trong đó có 4 họ phổ biến và có ý nghĩa quan trọng hơn cả là các họ chuối, gừng, hoàng tinh và chuối hoa.
1. Họ Chuối (Musaceae).
Cây thường lớn, thân rễ sống lâu năm. Lá có bẹ ôm lấy thân tạo thành thân giả khí sinh (thân này sẽ chết sau khi quả chín) cuống và phiến lá đều lớn.
Cụm hoa là một bông kép ở tận cùng của thân giả. Lá bắc rất lớn, mang ở phía bụng 1 – 3 hàng hoa, hoa không đều. Bao hoa 6 mảnh, trong đó 3 mảnh vòng ngoài và 2 mảnh vòng trong dính lại với nhau thành 1 bản, còn mảnh thứ 3 của vòng trong thường nhỏ và trong suốt gọi là cánh môi. Nhị hầu hết là 5. Bầu dưới, 3 ô, mỗi ô chứa nhiều noãn đảo. Quả mọng, nhiều hạt, hạt có nội nhũ. Ở các loài cây trồng không có hạt hay hạt thui đi rất sớm (noãn không đựơc thụ tinh, chỉ bầu phát triển thành quả do đó không có hạt).
Công thức hoa:
Họ chuối chỉ có 2 chi và 70 loài. Ở Việt Nam có cả 2 chi với 10 loài nhưng quan trọng và phổ biến hơn cả là chi Musa (chuối).
- Chuối nhà (M.paradisiaca L.): cây được trồng lấy quả ăn. Có nhiều thứ khác nhau: chuối ngự, chuối tây, chuối tiêu…Chuối có rất nhiều công dụng: thân củ, thân giả để nuôi lợn, bẹ và cuống lá, gân lá lấy sợi bện thừng, làm quay chèo, phiến lá để gói bánh; quả ăn ngon và bổ là nguồn xuất khẩu của ta.
- Chuối rừng (M.uranoscopos Lour.): cuống cụm hoa và lá bắc màu đỏ tươi. Qủa nhiều hạt găp nhiều ở các rừng ẩm ven khe suối.
2. Họ Gừng (Zingiberaceae).
Thân rễ lớn, thường phân nhánh chứa nhiều chất dự trữ. Lá cũng gồm có bẹ dài ôm lấy nhau làm thành thân giả, cuống ngắn và phiến lớn, giữa cuống và bẹ lá có phần phụ gọi là lưỡi nhỏ (ligule), lá thường có mùi thơm cay có ở nhiều loài thân khí sinh chỉ xuất hiện khi cây ra hoa, mọc lên từ thân rễ xuyên qua thân giả ra ngoài, mang ở phần cuối 1 cụm hoa (chi Alpinia), nhưng có loài cụm hoa nằm ngay trên thân rễ ở sát mặt đất.
Hoa không đều, đài và tràng hình ống, màu lục, phía trên chia 3 thùy. Chỉ có 1 nhị sinh sản (ở vòng trong) với 2 bao phấn mới nứt ở phia trong.
Một cánh môi hình bản lớn, màu sặc sỡ dạng cánh hoa do 3 nhi dính với nhau và biến đổi thành nằm đối diện với nhị sinh sản, 2 nhị còn lại biến thành 2 nhị lép nằm ở bao phấn (nhiều khi giảm chỉ còn dạng vảy nhỏ, hoặc mất hẳn). Bầu dưới, 3 ô, vòi nhụy chui qua khe hở giữa 2 bao phấn và thò ra ngoài. Quả nang, đôi khi quả mọng hạt có nội nhũ, và cả ngoại nhủ.
Công thức hoa:
Họ gừng có khoảng 45 chi và hơn 1300 loài, phân bố ở vùng nhiệt đới và cận nhiệt đới, chủ yếu ở Nam và Đông Nam Á. Ở nước ta hiện biết gần 20 chi và 100 loài trong đó có nhiều cây có giá trị. Một số cây trồng như:
- Riềng (Alpinia officinarum Hance): thân rễ, phủ nhiều vảy, khi già có nhiều xơ, dùng làm gia vị và làm thuốc.
- Nghệ (Curcuma domestica Val.): ruột thân rễ màu vàng, làm gia vị, làm thuốc chữa bệnh dạ dày, bệnh vàng da, dùng cho phụ nữ sau khi sinh nở.
- Gừng (Zingiber oficinale Rosc): thân rễ thơm cay, dùng làm gia vị, làm mứt và làm thuốc, có tác dụng hưng phấn, dễ tiêu. Loài gừng gió mọc dại, gặp nhiều ở rừng thứ sinh, có hoa màu trắng, cánh môi màu vàng nhạt, thân rễ, vị đắng và cay, cũng được làm thuốc.
3. Họ Hoàng tinh hay họ Dong (Marantaceae)

Hình dạng ngoài của cây giống họ Gừng. Cuống lá có đốt, lá không có mùi thơm. Hoa không đều, mất đối xứng, 3 lá đài rời nhau, 3 cánh hoa có màu. Bộ nhị chỉ còn lại một nửa nhị sinh sản (một bao phấn), còn một nửa nhị kia và 3 – 4 nhị khác biến thành bản dạng cánh, 2 - 1 nhị nữa biến mất hoàn toàn. Không có cánh môi. Bầu 3 ô nhưng thường chỉ một ô phát triển chứa một noãn. Hạt không có nội nhũ chỉ có ngoại nhũ.
Công thức hoa:

Họ này có 32 chi và khoảng 350 loài, phân bố ở vùng nhiệt đới và cận nhiệt đới, chủ yếu trong các rừng ẩm và đầm lầy, phần lớn các chi tập trung ở Châu Mĩ nhiệt đới. Ở nước ta có 7 chi với 15 loài.
- Dong ta hay dong củ: thân rễ hình quả bơm, phân đốt, mang nhiều vảy lá màu trắng ngà, chứa nhiều tinh bột. Cây được trồng để lấy củ luộc ăn, làm bột hoàng tinh.
- Dong ta: thường mọc ở các rừng ẩm ven suối. Lá dùng để gói bánh chưng.
4.Họ Chuối hoa hay họ Dong riềng (Cannaceae).
Thân rễ phát triển phân nhánh. Cuống lá không có đốt. Hoa thường có màu sặc sỡ. Đài và tràng không đẹp. Nhị sinh sản còn một nửa. Cánh mau lớn, do một nhị vòng trong biến đổi thành, một số nhị khác cùng với một nửa nhị vòng trong biến đổi thành những bản dạng cánh giống như cánh môi. Vòi nhị hình bản dẹp và cũng có màu. Quả mở. Hạt có ngoại nhũ cứng và còn lại gốc tích của nội nhũ.

Công thức hoa:

Họ này chỉ có một chi Canna với khoảng 50 loài phân bố nhiều ở các vùng nhiệt đới và cận nhiệt đới châu Mĩ. Nước ta gặp vài loài:
-Dong riềng: hoa nhỏ nàu đỏ. Trồng lấy củ ăn.
-Chuối hoa lai: hoa to có màu sặc sỡ đỏ hay vàng.
-Chuối hoa: hoa nhỏ không đẹp như các hoa trên.
III. Bộ Lan (Orchidales).
Bộ Lan có liên hệ chặc chẻ với bộ Hành, đặc biệt
với họ Hypoxidaceae mà trong đó hai chi Hypoxis và Curculigo có nhiều đặc điểm gần với Lan. Nói chung, trong bộ Hành hoa đã có khuynh hướng phát triển dẩn đến bộ Lan ( tính chất hoa đối xứng hai bên, sự tiêu giảm và chuyên hóa của bộ nhị, bầu dưới có một ô mang nhiều noãn và hạt bé).
Bộ Lan chỉ có một họ duy nhất.
Họ Lan (Orchidaceae)
Cơ quan sinh dưỡng khá đa dạng: có loài mọc trên đất, sống dai nhờ thân củ, có loài thân leo, còn đại đa số sống bám trên thân các câc cây to ở trong rừng.
Chúng có rễ khí sinh phát triển mạnh, màu lục, phía ngoài có một lớp mô xốp dày (gọi là lớp vêlamen) có tác dụng dự trữ nước (nước mưa, sương) và bảo vệ cho rễ khỏi bị khô. Ở một số loài, phần dưới lá hoặc gióng thân phình to (gọi là hành giả) chứa chất dinh dưỡng dự trữ. Một số loài khác không có diệp lục và hoại sinh trên đát mùn. Lá mọc cách, nguyên, phiến có khi rất dài.
Hoa tập trung thành cụm hoa chùm hay bông. Hoa đối xứng 2 bên. Bao hoa dạng cánh, rời nhau, xếp thành 2 vòng: 3 mảnh vòng ngoài và 2 mảnh vòng trong bé hơn mảnh thứ 3 ở vòng trong.
Mảnh này có hình dạng và màu sắc khác hẳn gọi là cánh môi. Gốc cánh môi thường kéo dài thành cựa mật chứa tuyến mật. Nhiều loài khi hoa nở bầu vặn đi một góc 180 độ nên cánh môi không phải ở đằng sau mà quay ngửa ra phía trước làm chỗ đứng cho sâu bọ. Ở những loài có cụm hoa treo thõng thì không có hiện tượng như vậy, vì cánh môi đã ở vị trí dưới. Nhị tiêu giảm còn 2 hay thường chỉ còn 1.
Trong các trường hợp chung, chỉ nhị dính liền với vòi nhụy thành cột nhị nhụy. Hạt phấn thường dính 4 chiếc một hoặc dính cả lại thành khối gọi là khối phấn, có chuôi và gót dính ở phía dưới. Hai khối phấn ngăn cách nhau bởi trung đới. Khối phấn nằm ở phần đầu của cột nhị nhụy, được che đậy bằng mỏ bất thụ.
Bộ nhụy gồm ba lá noãn dính nhau thành bầu dưới, một ô, mang rất nhiều noãn đính bên. Trên cột nhị nhụy có hai đầu nhụy sinh sản thường nằm trong chổ lõm, còn đầu nhụy thứ ba không sinh sản, lồi ra thành mỏ bất thụ ngăn cách không cho khối phấn của nó rơi xuống đầu nhụy sinh sản. Quả khô, mở thành ba đến sáu mảnh. Hạt rất nhỏ và nhiều thường không có nội nhũ.
Công thức hoa:
Lan là họ lớn thứ hai trong ngành hạt kín tới khoảng 800 chi và 30000 loài phân bố khắp nơi trên Trái Đất nhưng phong phú nhất ở các vùng nhiệt đới ở nước ta biết khoảng 130 chi và 800 loài, các loài đều có hoa đẹp, làm cảnh. Có một số loài bị săn lùn khai thác do đó trở nên hiếm cần phải có biện pháp bảo vệ.
- Lan đuôi cáo (Aerides falcatum Lindl.): Hoa màu trắng điểm các đốm tím.
- Thạch hộc (Denobium nobile LindL): Hoa màu hồng thân cây dùng làm thuốc.
- Lan hài (chi Paphiopedilum): Rất đặc sắc bởi cánh môi hình mũ trông giống như mũi chiếc hài.
- Lan hạt đính (Phaju talkervillea (Ait.)BL): Hoa to ngoài màu nhạt trong màu đỏ nâu, cánh môi màu hồng hay đỏ trên nền vàng.
- Lan phượng vĩ (Renanthea coccinea Lour.): Hoa màu đỏ chói như phượng vĩ.
- Lan van đa (Vanda): loài này phân bố hạn chế và có hoa đẹp nên đang có nguy cơ bị khai thác cạn kiệt.
IV. Bộ cói (Cyperales).
Bộ cói có quan hệ gián tiếp với bộ Hành thông qua bộ Bấc. Nhưng ở bộ Bấc và bộ cói bao hoa khô xác, thích nghi với sự thụ phấn nhờ gió. Bộ cói chỉ có một họ.
Họ cói (cyperaceae): cây thân cỏ sống lâu năm, thường mọc ở chổ các ẩm ướt. Thân rễ nằm dưới đất, thân khí sinh không phân đốt, tiết diện ngang hình tam giác hay hơi tròn, lá có bẹ ôm lấy thân mọc ra từ gốc, hai mép của bẹ dính nhau thành ống, lá xếp thành ba dãy theo thân.


Hoa nhỏ mọc thành bông nhỏ ở kẻ một lá bắc, những bông nhỏ này lại tập hợp thành bông, chùm, chùy. Hoa lưỡng tính hay đơn tính, thụ phấn nhờ gió. Bao hoa rất giảm, dạng vảy khô xác hay dạng lông cứng, 1 - 6 hay nhiều mảnh, có khi không có. Nhị 3, bao phấn đính gốc. Bộ nhụy gồm ba lá noãn dính nhau thành bầu trên, một ô, chỉ chứa một noãn, một vòi và ba đầu nhụy dài. Quả đóng hạt có nội nhũ bột bao quanh phôi.
Công thức hoa:
Họ cói có độ 95 chi với 3800 loài phân bố rộng rảy khắp nơi, đặc biệt ở vùng ôn đới và hàn đới. Nước ta hiện biết 28 chi và 300 loài.
Quan trọng nhát là cây cói mọc dại ở vùng nước lợ, trồng để dệt chiếu, bao tải thảm, làm túi sách đồ đan lát, mĩ nghệ. Một vài loài mọc dại phổ biến như:
- Củ gấu: cỏ nhỏ có thân rễ hình củ màu nâu đen. Đây là loài cỏ dại ăn hại đất trồng, nhưng củ của nó được dùng làm thuốc chữa bệnh phụ nữ
- Cỏ năn đốt: thân tròn có ngấn, cụm hoa hình tháp bút, ở ngọn, thường gặp ở các ruộng chua hoặc bãi lầy
- Mã thầy: củ lớn hình tròn dẹp, màu nâu, chứa nhiều nước, ăn ngọt và mát. Cây mọc ở ao hồ
- Cỏ bạc đầu: cụm hoa hình đầu màu trắng, thường mọc ở các bãi cỏ bờ ruộng, lề đường
V.Bộ Lúa(Poales).
Đây là nấc cuối cùng trong dòng tiến hóa của phân lớp theo hướng hoa thụ phấn nhớ gió, đồng thời cũng là 1 trong những bộ ở vị trí cao nhất trong hệ thống sinh cây Một lá mầm. Bộ chỉ có một họ.
Họ lúa(Poaceae): Cây thân cỏ sống lâu năm một số có dạng thân cỏ thứ sinh (tre, nứa). Thân khí sinh chia gióng và mấu gióng thường rỗng, không phân nhánh, mà chỉ phân nhánh từ gốc hoặc từ thân rễ. Lá mọc cách xếp 2 dãy theo thân, bẹ lá to dài, 2 mép của bẹ lá không dính liền nhau. Lá không có cuống, phiến lá hình dãy hẹp, giữa bẹ và phiến lá có hình lưỡi nhỏ hình bản mỏng hay hình dãy lông mi.
Nguồn gốc của lưỡi nhỏ khong rõ ràng, một số người cho là do 2 lá kèm dính nhau biến đổi thành, nó có vai trò cản bớt nước chảy vào phần thân non của đốt.
Các bạn hãy đón xem cây này thuộc họ gì?

Gốc bẹ hơi phình lên, mép ôm chặt lấy thân và che chở cho mô phân sinh đốt, nhờ đó mà mà mô này duy trì hoạt động khá lâu.
Hoa nhỏ tập hợp thành cụm hoa cơ sở là bông nhỏ các bông nhỏ này lại hợp thành những cụm hoa phức tạp như bông kép, chùm, chùy...Mỗi bông nhỏ mang 1 - 10 hoa. Gốc bông nhỏ thường có 2 mày bông xếp đối nhau, còn ở gốc mỗi hoa có 2 mày hoa, mày hoa dưới ôm lấy mày hoa trên, nhỏ và mềm hơn, mày hoa dưới chỉ có một gân ở chính giữa, còn mày hoa trên có 2 gân bên. Ở nhiều loài mày hoa kéo dài ra thành chỉ ngọn.



Phía trong 2 mày hoa có 2 mày cực nhỏ rất bé và mềm. Như vậy, thông thường mỗi hoa có 4 mày, nhưng trong thực tế số lượng này không đầy đủ. Nhị thường 3 đôi, chỉ nhị dài, bao phấn đính lưng, 2 bao phấn khi chín thường tỏa ra thành hình chữ X. Bầu trên, 1 ô, 1 noãn, 2 vòi nhụy ngắn và 2 đầu nhụy dài mang chùm lông quét, thường màu nâu hoặc màu tím.
Khi hoa nở,mày cực nhỏ trương lên, tách các mày hoa ra, để lộ đầu nhụy và bao phấn.Trong thời gian này chỉ nhị dài ra một cách nhanh chóng, đưa các bao phấn vượt ra ngoài. Do bao phấn đính lưng nên dễ đung đưa trước gió: các hạt phấn nhỏ, nhẹ, dễ dàng được gió chuyển đi đến thụ phấn cho hoa khác. Đầu nhụy có chùm lông để quét hạt phấn. Tuyệt đại đa số cây họ Lúa thụ phấn nhờ gió. Sự tự thụ phấn chỉ xảy ra ở những hoa không mở như lúa mì, lúa mạch và một số cỏ dại.
Qủa dính, vỏ quả và vỏ hạt dính liền nhau, chỉ một số ít loài cua chi Bambusa mới có quả đóng. Quả chứa nhiều tinh bột (trung bình tới 74% khối lượng). Phôi nằm lệch một bên, ở góc quả (ngoại phôi).
Họ lớn, có tới 700 chi và 8000 – 10000 loài, có mặt ở khắp nơi trên Trái Đất. Ở Việt Nam hiện biết 150 chi và gần 500 loài. Chúng thường phát triển mạnh mẽ ở những chỗ trống, trên các cánh đồng, các bãi bồi ven sông.

Họ Lúa thường được chia ra thành một số phân họ, số lượng khác nhau tùy theo từng tác giả. Về mặt giá trị thực tiễn, đây là một họ có tầm quan trọng lớn, nhiều loài được sử dụng rộng rãi, cung cấp nguyên liệu cho nhiều lĩnh vực khác nhau. Ví dụ:
Các loài cây lương thực, thực phẩm:
- Lúa (Oryza sativa L.): có 2 thứ lúa tẻ (O.sativa L. var. utilissima A.Camus) và lúa nếp (O.sativa L. Var. glutinosa Tanaka) với hàng trăm giống khác nhau.
- Kê (Setaria italica (L.)Beauv.): cây sống hằng năm, cao gần 2m. Cụm hoa dày đặc, ở ngọn. Hạt nhỏ ăn được. Cây thường được trồng.
- Lúa mì (Triticum aestivum L.): Cỏ 1 năm mọc thành bụi cao 0.5 - 1m; hạt cho bột làm bột bánh mì; được trồng ở Cao Bằng.
- Ngô (Zea mays L.): hoa đơn tính cùng cây. Hoa cái có vòi nhụy rất dài (râu ngô).
Nhiều loài cỏ dại làm thức ăn gia súc hoặc có công dụng khác:
- Cỏ may (Chrysopogon aciculatus (Retz.) Trin.): quả có gai dễ đâm vào quần áo, lông gia súc, nhờ vậy mà phát tán đi xa được. Cây ưa sáng.
- Sả (Cymbopogon citratus DC.): cây có mùi thơm mọc thành bụi dày, thường trồng để lấy tinh dầu, làm thuốc và làm gia vị.
- Cỏ gà (Cynodon dactylon (L.) Pers.): Thân rễ mọc bò, khỏe, lá bé. Đầu cành thường có sâu kí sinh nên phình to. Cây mọc phổ biến ở các bãi hoang.

- Cỏ lồng vực (Echinochloa crus-galli (L.) P.Beauv.): thường mọc lẫn với lúa ở ruộng chịu nước, có chu trình sống giống lúa nên khó trừ.
- Cỏ tranh (Imperata cylindrica (L.) P.Beauv.): lá dùng để lợp nhà, làm giấy. Cây chịu hạn, mọc rất khỏe, gặp nhiều trên các đồi.
- Sậy (Phragmites communis L.): sống ở bãi ven bờ nước.
- Cỏ gừng (Panicum repens L.): thân rễ giống củ gừng, làm thuốc chữa dị ứng. Cây mọc ở bãi đất cát khô, có tác dụng chống cát di động.
Các loài dùng trong công nghiệp:
- Tre gai (Bambusa bllumeana Schult): Gióng có thành dày đặc ở gốc, thân phân nhiều nhánh, có gai. Cây được trồng ở hầu hết các làng mạc, tạo nên phong cảnh đặc sắc của nông thôn Việt Nam. Thân dùng làm nhà, nông cụ, đồ đạc, đan lát.
- Nứa (Nehouzeana dulloa (Gambl.) Camus): mọc thành bụi có gióng dài, mỏng. Loài cây này đóng vai trò quan trọng trong việc cung cấp nguyên liệu làm bột giấy, làm tấm lợp nhà…
- Mía (Saccharum officinarum L.): thân rễ sống dai, thân khí sinh đặc, chứa nước và nhiều đường. Cây quan trọng trong công nghiệp sản xuất đường. Bã mía được dùng làm chất đốt, nguyên liệu giấy, chế phẩm vi sinh.
Tài liệu tham khảo:
Hoàng Thị Sản (CB); Hoàng Thị Bé; 1998. Phân loại học thực vật (sách CĐSP), NXB Giáo dục, Hà Nội.
Bộ Cói
Họ Lan
Họ Lục Bình
Thuộc họ Huyết Gíác
Họ Chuối







Thuộc họ Hoa Dơn
Chúc buổi báo cáo thành công tốt đẹp
Chúc sức khỏe Cô cùng các bạn lớp CĐSHSO8A
* Một số tài liệu cũ có thể bị lỗi font khi hiển thị do dùng bộ mã không phải Unikey ...

Người chia sẻ: Nguyễn Thị Lệ Thu
Dung lượng: | Lượt tài: 1
Loại file:
Nguồn : Chưa rõ
(Tài liệu chưa được thẩm định)