Lịch sử về virus
Chia sẻ bởi Nguyễn Đăng Thành |
Ngày 04/11/2018 |
34
Chia sẻ tài liệu: lịch sử về virus thuộc Power Point
Nội dung tài liệu:
Những dấu mốc lớn:
1949. Lý thuyết đầu tiên về các chương trình tự sao chép ra đời.
1981. Apple II là những virus đầu tiên được phát tán thông qua hệ điều hành của hãng "Quả táo", lây lan khắp hệ thống của công ty Texas A&M, thông qua các trò chơi ăn cắp bản quyền trên đĩa mềm. Những người đầu tiên phát hiện còn gọi nó là Elk Cloner.
1983. Fred Cohen, một sinh viên đại học Mỹ, đã đưa ra định nghĩa đầu tiên về virus: “Là một chương trình máy tính có thể tác động những chương trình máy tính khác bằng cách sửa đổi chúng bằng phương pháp đưa vào một bản sao của nó”. Fred Cohen luôn là cái tên được nhắc đến khi nói về lịch sử virus.
1986. Hai anh em lập trình viên người Pakistan là Basit và Amjad thay thế mã thực hiện (executable code) trong rãnh ghi khởi động của một đĩa mềm bằng mã riêng của họ, được thiết kế với mục đích phát tán từ một đĩa mềm 360 K khi cho vào bất cứ ổ đĩa nào. Loại đĩa mềm mang virus này có mác “© Brain”. Đây chính là những virus MS-DOS xuất hiện sớm nhất.
1987. Lehigh, một trong những virus file đầu tiên xâm nhập các tệp lệnh command.com (virus này sau đó tiến hoá thành virus Jerusalem). Một virus khác có tên IBM Christmas, với tốc độ phát tán cực nhanh (500.000 bản sao/tiếng), là cơn ác mộng đối với các máy tính lớn (mainframe) của Big Blue trong suốt năm đó.
1988. Một trong những virus phổ biến nhất, Jerusalem, xuất hiện. Được kích hoạt vào các thứ Sáu ngày 13, virus này tác động file có đuôi .exe và .com, xoá tất cả những ứng dụng chạy trong ngày hôm đó. Cùng năm này, virus MacMag and the Scores gây ra đợt bùng phát lớn đầu tiên trên các máy Macintosh. Đây là cuộc khủng hoảng Internet đầu tiên khiến một số lượng lớn máy tính bị tê liệt. Cũng từ đó, Trung tâm điều phối phản ứng nhanh (CERT) đã ra đời để đối phó với những sự cố tương tự.
1989. Xuất hiện chương trình Trojan có tên AIDS. Virus này nổi tiếng vì có khả năng khống chế giữ liệu giống như con tin. Nó được gửi đi dưới dạng một chương trình thông tin về bệnh suy giảm hệ miễn dịch. Khi được kích hoạt, AIDS sẽ mã hoá ổ cứng của nạn nhân và yêu cầu người sử dụng phải nộp tiền nếu muốn được giải mã.
1990. Symantec tung ra công cụ Norton AntiVirus, một trong những chương trình diệt virus đầu tiên do một công ty lớn phát triển.
Thị trường trao đổi virus đầu tiên (VX) được tung lên mạng từ Bulgaria. Tại đây, các tin tặc có thể buôn bán mã và giao lưu ý tưởng. Cùng năm này, cuốn Sách đen về virus máy tính của tác giả Mark Ludwig được xuất bản.
1991. Tequila, một trong những virus phát tán dưới nhiều hình dạng đầu tiên được phát hiện. Những sâu loại này khiến cho việc xác định và truy quét chúng trở nên khó khăn do sự thay hình đổi dạng sau mỗi lần lây nhiễm.
1992. Trong vòng 2 năm, người ta ghi nhận tổng số 1.300 virus đang tồn tại, tăng 420% so với tháng 12/1990. Xuất hiện DAME (Dark Avenger Mutation Engine), một bộ công cụ cho phép chuyển những virus thông thường thành những chương trình có khả năng thay đổi hình dạng. Sau đó là VCL (Virus Creation Laboratory), công cụ sáng tác virus thực sự đã ra đời. Sự xuất hiện của virus Michelangelo làm dấy lên những lời cảnh báo về thiệt hại quy mô lớn trên toàn cầu, mặc dù cuối cùng những gì xảy ra không như người ta lo ngại.
1994. Trò lừa qua e-mail đầu tiên xuất hiện trong cộng đồng tin học. Trò này cảnh báo người sử dụng về một loại virus có thể xoá toàn bộ ổ cứng ngay khi mở e-mail có dòng chủ đề “Good Times”. Mặc dù không gây thiệt hại gì mà chỉ có tính chất doạ dẫm, trò lừa này vẫn tiếp tục xuất hiện trong chu kỳ từ 6 đến 12 tháng/lần.
1995. Word Concept xuất hiện, tấn công các văn bản Microsoft Word và trở thành một trong những virus ghê gớm nhất vào giữa thập kỷ này.
1996. Baza, Laroux (virus macro) và một số virus Staog xuất hiện lần đầu tiên, tấn công các file trong hệ điều hành Windows 95, chương trình bảng tính Excel và cả Linux.
1998. Không được đánh giá là nguy hiểm và chưa phát tán rộng, StrangeBrew là virus đầu tiên lây nhiễm vào file Java. Virus này sửa đổi các file CLASS để đưa một bản sao của nó vào giữa mã file để có thể bắt đầu chạy một vùng virus. Virus Chernobyl, hay còn gọi là CIH, phát tán rất nhanh qua các file .exe
1949. Lý thuyết đầu tiên về các chương trình tự sao chép ra đời.
1981. Apple II là những virus đầu tiên được phát tán thông qua hệ điều hành của hãng "Quả táo", lây lan khắp hệ thống của công ty Texas A&M, thông qua các trò chơi ăn cắp bản quyền trên đĩa mềm. Những người đầu tiên phát hiện còn gọi nó là Elk Cloner.
1983. Fred Cohen, một sinh viên đại học Mỹ, đã đưa ra định nghĩa đầu tiên về virus: “Là một chương trình máy tính có thể tác động những chương trình máy tính khác bằng cách sửa đổi chúng bằng phương pháp đưa vào một bản sao của nó”. Fred Cohen luôn là cái tên được nhắc đến khi nói về lịch sử virus.
1986. Hai anh em lập trình viên người Pakistan là Basit và Amjad thay thế mã thực hiện (executable code) trong rãnh ghi khởi động của một đĩa mềm bằng mã riêng của họ, được thiết kế với mục đích phát tán từ một đĩa mềm 360 K khi cho vào bất cứ ổ đĩa nào. Loại đĩa mềm mang virus này có mác “© Brain”. Đây chính là những virus MS-DOS xuất hiện sớm nhất.
1987. Lehigh, một trong những virus file đầu tiên xâm nhập các tệp lệnh command.com (virus này sau đó tiến hoá thành virus Jerusalem). Một virus khác có tên IBM Christmas, với tốc độ phát tán cực nhanh (500.000 bản sao/tiếng), là cơn ác mộng đối với các máy tính lớn (mainframe) của Big Blue trong suốt năm đó.
1988. Một trong những virus phổ biến nhất, Jerusalem, xuất hiện. Được kích hoạt vào các thứ Sáu ngày 13, virus này tác động file có đuôi .exe và .com, xoá tất cả những ứng dụng chạy trong ngày hôm đó. Cùng năm này, virus MacMag and the Scores gây ra đợt bùng phát lớn đầu tiên trên các máy Macintosh. Đây là cuộc khủng hoảng Internet đầu tiên khiến một số lượng lớn máy tính bị tê liệt. Cũng từ đó, Trung tâm điều phối phản ứng nhanh (CERT) đã ra đời để đối phó với những sự cố tương tự.
1989. Xuất hiện chương trình Trojan có tên AIDS. Virus này nổi tiếng vì có khả năng khống chế giữ liệu giống như con tin. Nó được gửi đi dưới dạng một chương trình thông tin về bệnh suy giảm hệ miễn dịch. Khi được kích hoạt, AIDS sẽ mã hoá ổ cứng của nạn nhân và yêu cầu người sử dụng phải nộp tiền nếu muốn được giải mã.
1990. Symantec tung ra công cụ Norton AntiVirus, một trong những chương trình diệt virus đầu tiên do một công ty lớn phát triển.
Thị trường trao đổi virus đầu tiên (VX) được tung lên mạng từ Bulgaria. Tại đây, các tin tặc có thể buôn bán mã và giao lưu ý tưởng. Cùng năm này, cuốn Sách đen về virus máy tính của tác giả Mark Ludwig được xuất bản.
1991. Tequila, một trong những virus phát tán dưới nhiều hình dạng đầu tiên được phát hiện. Những sâu loại này khiến cho việc xác định và truy quét chúng trở nên khó khăn do sự thay hình đổi dạng sau mỗi lần lây nhiễm.
1992. Trong vòng 2 năm, người ta ghi nhận tổng số 1.300 virus đang tồn tại, tăng 420% so với tháng 12/1990. Xuất hiện DAME (Dark Avenger Mutation Engine), một bộ công cụ cho phép chuyển những virus thông thường thành những chương trình có khả năng thay đổi hình dạng. Sau đó là VCL (Virus Creation Laboratory), công cụ sáng tác virus thực sự đã ra đời. Sự xuất hiện của virus Michelangelo làm dấy lên những lời cảnh báo về thiệt hại quy mô lớn trên toàn cầu, mặc dù cuối cùng những gì xảy ra không như người ta lo ngại.
1994. Trò lừa qua e-mail đầu tiên xuất hiện trong cộng đồng tin học. Trò này cảnh báo người sử dụng về một loại virus có thể xoá toàn bộ ổ cứng ngay khi mở e-mail có dòng chủ đề “Good Times”. Mặc dù không gây thiệt hại gì mà chỉ có tính chất doạ dẫm, trò lừa này vẫn tiếp tục xuất hiện trong chu kỳ từ 6 đến 12 tháng/lần.
1995. Word Concept xuất hiện, tấn công các văn bản Microsoft Word và trở thành một trong những virus ghê gớm nhất vào giữa thập kỷ này.
1996. Baza, Laroux (virus macro) và một số virus Staog xuất hiện lần đầu tiên, tấn công các file trong hệ điều hành Windows 95, chương trình bảng tính Excel và cả Linux.
1998. Không được đánh giá là nguy hiểm và chưa phát tán rộng, StrangeBrew là virus đầu tiên lây nhiễm vào file Java. Virus này sửa đổi các file CLASS để đưa một bản sao của nó vào giữa mã file để có thể bắt đầu chạy một vùng virus. Virus Chernobyl, hay còn gọi là CIH, phát tán rất nhanh qua các file .exe
* Một số tài liệu cũ có thể bị lỗi font khi hiển thị do dùng bộ mã không phải Unikey ...
Người chia sẻ: Nguyễn Đăng Thành
Dung lượng: |
Lượt tài: 0
Loại file:
Nguồn : Chưa rõ
(Tài liệu chưa được thẩm định)