LỊCH SƯ THẾ GIỚI TRUNG ĐẠI-TÀI LIỆU THAM KHẢO.

Chia sẻ bởi Nguyễn Khắc Điệp | Ngày 27/04/2019 | 48

Chia sẻ tài liệu: LỊCH SƯ THẾ GIỚI TRUNG ĐẠI-TÀI LIỆU THAM KHẢO. thuộc Bài giảng khác

Nội dung tài liệu:

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP HCM
KHOA LỊCH SỬ
LỚP 1B- SỬ-GDQP
MÔN: LỊCH SỬ THẾ GIỚI TRUNG ĐẠI
TRUNG HOA PHONG KIẾN VÀ CHẾ ĐỘ RUỘNG ĐẤT
NHÓM TT: 5
B:Tình hình kinh tế- xã hội
I: Các ngành kinh tế:
1: Nông nghiệp:
Trải qua từng triều đại nền nông nghiệp Trung Quốc có thay đổi và phụ thuộc vào tình hình chính trị.
Sau khi công cụ bằng sắt được sử dụng khá phổ biến, sức sản xuất phát triển, chế độ tư hữu về ruộng đất dần xuất hiện dẫn đến sự tan rã của chế độ tỉnh điền.
Thời Tần Hán chính sách khôi phục phát triển trình độ kỹ thuật, diện tích gieo trồng được mở rộng, vấn đề thuỷ lợi được chú ý xây dựng.
Thời Đường có chính sách lấy ruộng đất công, đất hoang chia cho nông dân, nhưng kinh tế vẫn tiêu điều, nông nghiệp đình đốn.
2: Thủ công nghiệp và thương nghiệp:
a: Thủ công nghiệp:
Trung Quốc có nền thủ công nghiệp phát triển rất sớm, đến thời trung đại số ngành nghề càng nhiều, quy mô sản xuất càng lớn, kĩ thuật càng tinh xảo và đạt nhiều thành tựu như luyện sắt, dệt tơ lụa, làm đồ sứ, đóng thuyền, làm giấy…
Ngoài ra các nghề làm đồ gốm, đồ sơn, đồ đồng, dệt vải,…phát triển từ rất sớm. Riêng nghề in, dệt vải bông ra đời muộn nhưng có vai trò quan trọng trong đời sống xã hội.
Ở Trung Quốc có các hình thức sản xuất nhà nước, tư nhân và tổ chức phường hội.
Thế kỉ XVI xuất hiện hình thức xưởng thủ công mang tính chất tư bản chủ nghĩa.
b: thương nghiệp:
Trung Quốc nền thương nghiệp phát triển từ rất sớm.
Từ thời Hán nội, ngoại thương phát triển, có sự giao lưu buôn bán với các nước Trung Á và Tây La Mã.
Từ thời Tam quốc đến Nam-Bắc triều nền thương nghiệp suy thoái. Đến thế kỉ XVII, nền thương nghiệp phát triển nhất là ngoại thương.
Thế kỉ XVIII nhà Thanh thi hành chính sách đóng cửa biển, hạn chế sự giao lưu buôn bán bằng đường biển với các nước.
c: Thành thị:
Từ thế kỉ VII thành thị phát triển nhiều thành phố sầm uất được ra đời hầu như là trung tâm chính trị và bị nhà nước quản lí chặt chẽ.
II: Chế độ ruộng đất:
Thời cổ đại ruộng đất Trung Quốc thuộc sở hữu của nhà nước. Đến thời Xuân thu-chiến quốc chế độ thái ấp và chế độ tỉnh điền dần dần tan rã, ruộng đất tư hữu bắt đầu ra đời. Từ thời Tần đến Thanh, ở Trung Quốc tồn tại hai hình thái sở hữu ruộng đất, đó là sở hữu nhà nước và tư nhân.
1: Ruộng đất của nhà nước:
Ruộng đất thuộc quyền sở hữu của nhà nước được gọi bằng các tên như Công điền, Vương điền, Quan điền với số lượng rất lớn.
Thời phong kiênd ruộng đất do nhà nước quản lí được chia làm 3 loại ruộng: chia cho các quan lại làm bổng lộc, hình thành đồn điền, điền trang sản xuất, chia cho nhân dân dưới hình thức quân điền để thu thuế.
Chế độ quân điền ra đời năm 483 dưới thời vua Hiến Văn Đế của Bắc Nguỵ, nhằm khôi phục , phát triển kinh tế, phát triển sản xuất nông nghiệp, đảm bảo nguồn thu từ thuế cho nhà nước, đảm bảo nhân dân có ruộng sản xuất.
Tiếp sau Bắc Nguỵ các triều đại Bắc Tề, Tuỳ, Đường đều tiếp tục thi hành chính sách quân điền.
Có nhiều loại ruộng đất: ruộng thưởng công, ruộng vĩnh viễn, ruộng chức vụ.
Ruộng vĩnh nghiệp được truyền cho con cháu. Ruộng trồng lúa khi đến 60 tuổi phải đem trả cho nhà nước. Ruộng chức vụ của quan lại khi thôi chức phải giao lại cho người kế nhiệm. Ruộng ban thưởng cho quan lại được tự do buôn bán.
Trên cơ sở chế độ quân điền, nhà nước bắt nông dân phải chịu nghĩa vụ ngang nhau về thuế khoá và lao dịch. Đặc biệt đến thời Tuỳ Đường, nghĩa vụ đó được quy thành chế độ “tô, dung, điệu”.
Chế độ quân điền giúp nhân dân thoát khỏi địa chủ, giúp diện tích đất hoang được đưa vào sản xuất, nông nghiệp phát triển, đời sống nông dân được nâng lên.
Tuy vậy chế độ quân điền chỉ được thực hiện ở miền Bắc nhưng cũng không triệt để, nhiều nông dân không nhận được đủ số ruộng đất theo mức quy định. Và ở thời Đường có sự chiếm đoạt ruộng đất của giai cấp địa chủ làm cho 1 số nông dân bỏ quê hương đi tha phương cầu thực.
-> Chế độ “tô, dung, điệu” không còn được sử dụng về sau nữa, chế độ quân điền bị phá bỏ hoàn toàn. Và cho tới năm 780 chính sách thuế khoá mới được đưa ra: “lưỡng thuế pháp”, tức nhà nước đưa vào số lượng ruộng đất và tài sản thực để đánh thuế, đồng thời thuế được thu làm 2 lần vào 2 vụ thu hoạch.
Từ đó đến cuối chế độ phong kiến, bộ phận ruộng đất của nhà nước vẫn tiếp tục tồn tại nhưng ngày càng bị thu hẹp.
2: Ruộng tư nhân:
Ruộng tư nhân gồm ruộng đất vào tay đại địa chủ, điền trang, ruộng chùa quán.
a: Ruộng đất vào tay đại địa chủ:
Bắt đầu từ thời chiến quốc và phát triển qua từng triều đại, nghiêm trọng là vào thời Nguyên, Minh, chế độ này đã làm xuất hiện tình trạng địa chủ Hán đua nhau chiếm đất của nông dân, có nơi 5/6 ruộng đất của một huyện thuộc về địa chủ.
Ruộng đất thuộc về địa chủ nhiều khiến cho nông dân nghèo không có tấc đất căm dùi, đời sống khổ cực, bần cùng.
b: Chế độ điền trang:
Ra đời từ thời Đông Hán, tồn tại lâu dài trong lịch sử.
Điền trang là những đơn vị kinh tế tự sản tự tiêu. Trong điền trang trồng cây lương thực và cây công nghiệp (ngũ cốc, dâu, đay,…).Phát triển cả nghề khai thác gỗ, quặng,…lực lượng sản xuất là điền khách ,bộ khúc,nô tì.
Thời kì chính quyền trung ương suy yếu, đất nước loạn li, điền trang là cơ sở sản xuất của lực lượng phong kiến, và đã có tính chất độc lập, điền trang phát triển nhiều, nhưng tính chất tự nhiên bị giảm bớt -> đây là những biểu hiện sự tan rã của chế độ điền trang Trung Quốc.
c: Ruộng đất của chùa, quán:
Diện tích này rất lớn.
Thế kỉ thư IX Đường vŨ Tông đã ra lệnh “bỏ Phật” để tịch thu ruộng đất, tuy vậy Phật giáo và đạo giáo vẫn phát triển mạnh mẽ, làm cho diện tích này ngày càng nhiều.
Trong thừoi kì này xuất hiện ruộng đất nông dân tự canh với số luwongj ít ỏi, quyền tư hữu bấp bênh, nhưng vẫn tồn tại suốt thời kì trung đại ở Trung Quốc.
d: NHững chính sách hạn chế ruộng tư của nhà nước:
Nhà nước ban hành nhiều chính sách: Chính sách hạn điền, quân điền, cấm chiếm đoạt ruộng đất,… nhằm hạn chế sự chiếm hữu ruộng đất vô độ của giai cấp địa chủ. Tuy nhiên hiệu quả chẳng được bao nhiêu, chế độ chiếm hữu ruộng đất vẫn có xu thế tăng và không thể ngăn chặn được.
3: Quan hệ giai cấp:
Cơ cấu giai cấp tương đối phức tạp gồm:
Giai cấp địa chủ
Giai cấp nông dân
Tầng lớp công thương
Giai cấp nô tì
a: Giai cấp địa chủ:
Gồm địa chủ quan lại, địa chủ bình dân.
Địa chủ quan lại là giai cấp giàu sang, có thế lực. Dòng họ quý tộc luôn thay đổi.
Giai cấp này tồn tại suốt chế độ phong kiến.
Địa chủ bình dân là tầng lớp chiếm đoạt, bóc lột nông dân, không có chức vụ trong xã hội.
b: Giai cấp nông dân:
Có hai loại là nông dân tự canh, nông dân lĩnh canh.
Nông dân tự canh: có diện tích riêng, có nghĩa vụ nộp thuế, và có nghĩa vụ lao dịch, là nông dân tự do, cuộc sốngkhổ cực.
Nông dân lĩnh canh: là người không có hoặc ít ruộng đất, là tá điền của địa chủ, bị địa chủ bóc lột. Đây là giai cấp luôn đứng dậy đấu tranh.
c: Tầng lớp công thương:
Được bắt đầu từ thời Hán, phát triển mạnh về sau, thợ thủ công bị bóc lột nặng nề và có nghĩa vụ nộp thúê,lao dịch.
d: Tầng lớp mới nô tì:
Được bắt nguồn từ tù binh, người dân quá nghèo.
Thân phận họ bị coi là hàng hoá.
Giai cấp tồn tại đến cuối chế độ phong kiến.
C:VĂN HOÁ
C: VĂN HOÁ
I:Tư tưởng, tôn giáo:
1: Nho học:
Nho học là trường phái tư tưởng quan trọng nhất ở Trung Quốc trong hơn 2000 năm lịch sử.
từ năm 140 – 87 TCN Nho học được chọn làm cơ sở lí luận và tư tưởng cho nền thống trị giai cấp phong kiến.
năm 136 TCN Hấn Vũ Đế chính thức ra lệnh bãi truất bách gia độc tôn nho thuật.
Về mặt đạo đức Nho giáo có tam cương ngũ thường:
Tam cương gồm ba cặp: vua –tôi, cha-con, chồng-vợ.

Ngũ thường: nhân, nghĩa, lễ, trí, tín.
Nho học đã trở thành một học thuyết mang màu sắc tôn giáo. Là công cụ tinh thần bảo vệ chế độ phong kiến.
2: Đạo giáo:
Được bắt đầu từ thời Đông Hán, Đạo giáo là sự kết hựp giữa ước mơ có một lực lượng siêu nhiên và hình thức mê tín dị đoan bói toán.
Đạo giáo dựa hoàn toàn vào học thuyết Lão Trang.
Nội dung tư tưởng chhính của tôn giáo này là chủ trương thoát li hiện thực, không vướng mắc bụi đời, chỉ tu dưỡng nội tâm để kéo dài tuổi thọ. Hơn nữa nếu luyện được thuốc tiên để uống thì trẻ mãi không già.

3: Phật giáo:
Trung Quốc tiếp nhận Phật giáo Ấn Độ từ thời Tây Hán.
Phật giáo được phát triển rộng trong nhân dân, có rất nhiều chùa chiền và công trình Phật giáo được xây dựng.
II: Văn học:
Văn học Trung Quốc thời kì này phong phú và đặc sắc, có nhiều thể loại như thơ, phú, kịch, tiểu thuyết..
Thơ: đỉnh cao là thơ thời Đường với tác giả nổi tiếng là Lí Bạch và Đỗ Phủ.
Tiểu thuyết: Minh- Thanh rất phát triển những tác phẩm nổi tiếng như truyện Thuỷ Hử của Thị Nại Âm, Tam Quốc diễn nghĩa của La Quán Trung.
Kịch: là hình thức văn học nghệ thuật tiêu biểu của đời Nguyên, ca vũ kịch đã ra đời.
III: SỬ HỌC:
Sử học là một lĩmh vực độc lập bắt đầu từ thời Tây Hán. Người đặt nền móng là Tư Mã Thiên.
Ở mỗi thời kì có nhiều tác phẩm giá trị to lớn được ra đời, như Tam quốc thống trí của Trần Thọ, Hậu Hán Thư của Trần Việp,…
IV: KHOA HỌC KĨ THUẬT:
Ở thời kì này khoa học kĩ thuật phát triển trên nhiều lĩnh vực.
Đạt được nhiều thành tựu trong toán học, thiên văn và y dược.
Phát minh ra giấy, kí thuật in, la bàn, thuốc súng.
Tóm lại dưới thời phong kiến nền văn hoá Trung Quốc phát triển rực rỡ, những thành tựu lớn lao trong lĩnh vực này đã làm cho Trung Quốc trở thành một trung tâm văn minh quan trọng ở Viễn Đông và trên thế giới.
A: CHÍNH TRỊ:
Kể từ khi Trung Quốc trở thành một nhà nước phong kiến thống nhất vào cuối thế kỉ III TCN- giữa TK XIX ở Trung Quốc đã diễn ra nhiều cuộc chiến trang phức tạp dẫn đến sự thành lập và diệt vong của các triều đại nối tiếp nhau.
I: Nhà Tần (221-206 TCN):
Nhà Tần là nước có tiềm lực kinh tế, quân sự lớn mạnh, thịnh trị nhất và luôn tấn công tiêu diệt các nước xung quanh.
Bộ máy chính trị: dưới vua là một hệ thống quan lại do Thừa tướng đứng đầu các quan văn, Thiều uý đứng đầu các quan võ.Ngoài ra còn có các chức quan coi giữ binh nã, tiền tài,…
Pháp luật nước tần được thi hành trên toàn Trung Quốc. Nhà nước thi hành nhiều chính sách hà khắc tàn bạo làm chho đời sống nhân dân khổ cực, lòng oán giận của nhân dân lên đến tột độ, phong trào nổi dậy diễn ra khắp nơi. Nổi bật như khởi nghĩa của Trần Thắng, Ngô Quảng,…
II: Nhà Hán (206-220):
Nhà Hán lấy Trường An làm kinh đô, và rất chú và phát triển kinh tế có nhiều chính sách khuyến khích phát triển kinh tế, thuỷ lợi,…được tiến hành. Năm 140- 87 TCN, Tây Hán là một đế quốc hùng mạnh.
Nhà Hán đã phát động nhiều cuộc chiến tranh xâm lược để thôn tính, đồng hoá các nước xung quanh.
Làm cho cuộc sống nhân dân trong nước ngày càng bấp bênh.
Năm 8 CN Tây Hán bị sụp đổ.
Năm 220 vua Đông Hán phải nhường ngôi cho họ Tào.
III: Tam quốc: Nguỵ, Thục, Ngô
Chính quyền trung ương suy yếu, trật tự xã hội hỗn loạn, các quan lại châu quận và các nhà hào phú ở địa phương đã phát triển lục lượng vũ trang của mình trở thành nhiều tập đoàn quân phiệt, chiếm nhiều nơi trong nước.
Năm 129- 208 nội chiến xảy ra quyết liệt
IV: Triều Tấn (265-420):
Tây Tấn (265-316)
Vua Tây Tấn còn nhỏ tuổi và ăn chơi nên quyền binh rơi vào tay Tào Sảng và Tư Mã Ý.
Năm 265 cháu cuả Tư Mã Ý là Tư mã Viện bắt vua Nguỵ phải nhường ngôi lấy hiệu là Vũ Đế, đổi tên nước là Tấn.
Thời kì này chính trị hỗn loạn nội chiến xảy ra “loạn tám vương”
Đông Tấn(317-420):
Năm 317 Tư Mã Duệ lên ngôi vua ở Kiến Giang triều Đông Tấn được bắt đầu.
Đất nước bắt đầu từ nửa Trường Giang về phía nam
Năm 383 triều Tần kéo quân đánh Đông Tấn, chính quyền Đông Tấn lung lay và rơi vào tay Lưu Dụ.
Năm 420 Đông Tấn diệt vong.
V: Thời kì Nam- bắc triều (420-589):
Nam triều:
Lưu Dụ cướp ngôi của Đông Tấn lập nên triều đại mới gọi là Tống (420-479)
Năm 479 Tiêu Đạo Thành truất ngôi vua Tống, lên làm vua lập ra triều Tề (479-502)
Năm 502 Tiêu Diễn lật đổ triều Tề lên làm vua đổi tên nước là Lương (502-557)
Năm 557 Trần Bá Tiên bắt Lương nhường ngôi lập nên triều Trần (557-589)
Năm 589 Trần bị triều Tuỳ ở miền bắc tiêu diệt.
Bắc Triều:
Tình hình chia cắt diễn ra nghiêm trọng.
Các vua Bắc Nguỵ tích cực thi hành chính sách Hán hoá, hết sức chú trọng đến nông nghiệp, chế độ quân điền được ban hành.
Năm 538 Bắc Nguỵ chia thành hai nước Đông Nguỵ và Tây Nguỵ. Năm 550 Bắc Tề thay thế Đông Nguỵ. Năm 557 Tây Nguỵ bị Bắc Chu cướp, trong thời gian này Bắc Chu diệt Bắc Tề. Năm 581 một tên ngoại thích giành ngôi Bắc Chu hiệu là Văn Đế, đổi tên nước là Tuỳ đóng đô ở Trường An. Năm 580 Tuỳ diệt Trần, Trung Quốc lại được thống nhất.
VI: Triều Tuỳ:
Áp dụng rất nhiều chính sách phát triển kinh tế, chế độ quân điền, chế độ giảm tô lao dịch, thống nhất tiền tệ -> kinh tế phát triển, xã hội ổn định, chính quyền nhà Tuỳ rất vững chắc.
NĂm 604 Dương Quảng lên ngôi,hiệu là Dưỡng Đế, từ đây mâu thuẫn gay gắt.
Vua là một tên bạo chúa thi hành nhiều chính sách áp bức nhân dân làm cho cuộc sống của nhân dân khổ cực.
Tuỳ có tham vọng mở rộng diện tích đất nước. Năm 598 cướp Cao Câu Li, Năm 603 cướp Vạn xuân, năm 609 cướp Đột Dục Hồn và thuần phục được các nước phương Tây.
VII: Triều Đường:
Năm 618 Lí Uyên xưng vua, đặt quốc hiệu là Đường. Đường Thái Tông đã thi hành nhiều chính sách có lợi cho nhân dân giúp kinh tế phát triển, chính trrị ổn định, lịch sử gọi Trung Quốc là “nền thịnh trị thời Trịnh Quán”.
Năm 683 Võ Thập Tiên thâu tóm mọi quyền hành , thi hành mọi chính sách thẳng tay đàn áp nhân dân làm mâu thuẫn xã hội dâng cao, phong trào nông dân nổ ra.
Nhà Đường phát động nhiều cuộc chiến tranh xâm lược các nước xung quanh tiêu biểu như chính phục Đông Đột Khuyết và Tiết Diện Đà,…
VIII: Thời kì Ngũ đại thập quốc (907-960):
Năm 960 miền Bắc Trung Quốc dựng lên 5 triều đại: Hậu Lương, Hậu Tần, Hậu Hán, Hậu CHu. Ở miền nam hình thành 9 nước: Tiền Thục, Ngô Việt, Mân, Ngô, Nam Hán, Nam Bình, Sở, Hậu Thục, Nam Đường.
Ở thời kì này Trung Quốc bị Khất Đan chiếm đất.
IX: TRiều Tống (906-1279):
Trong thời kì này phải chống nhiều kẻ thù xâm lược như Khuất Đan, Nước Kim.
Bên cạnh đó Tống cũng đi xâm lược các nước xung quanh như Đại Cồ Việt.
năm 1069 Vương An Thạch đề ra chương trình cải cách tương đối toàn diện: cho dân vay nợ trong kì giáp hạt, thu mua nông sản trong ngày mùa, tăng cường củng cố quốc phòng,…
X: Triều Nguyên (1271-1368):
Năm 1271 Hốt Tất Liệt xưng làm hoàng đế đặt tên nước là Nguyên.
Trong quá trình chinh phục quân Mông Cổ thi hành nhiều chính sách “giết sạch, cướp sạch, đốt sạch”.
Tổ chức bộ máy về chính quyền, chế độ phân phong ruộng đất, chế độ thuế khoá. Có nhiều chính sách áp bức dân tộc trắng trợn làm cho cuộc sống của nhân dân khổ cực, khởi nghĩa nổ ra tiêu biểu như khởi nghiã của Hàn Sơn Đồng, Lưu Phúc Thông, Quách Tử Hưng.
Triều Nguyên cũng mở rất nhiều cuộc xâm lược các nước xung quanh như Miến Điện, Chiêm Thành, Đại Việt.
XI: Triều Minh (1368-1644):
Về kinh tế thi hành nhiều chính sách tiến bộ, làm kinh tế phục hồi nhanh chóng và có bước phát triển.
Về chính trị quan tâm đến việc xây dựng chế độ quân chủ chuyên chế tập quyền.
từ thập kỉ 30 của TK XV triều Minh bắt đầu sụp đổ.
Các cuộc phong trào nông dân tiêu biểu như Cao Nghiêm Tường, Lí Tự Thành,…
XII: Triều Thanh:
Giữa thế kỉ XVII triều Thanh thành lập một đế quốc rộng lớn. Trong khoảng thời gian này triều Thanh tiếp tục bình định Trung Quốc và mở các cuộc xâm lược sang các nước xung quanh như Đại Việt, Miến Điện.
Mãn Thanh thi hành chính sách huỷ diệt, đồng thời ra sức củng cố bộ máy nhà nước chuyên chế tập quyền trung ương, áp bức nhân dân… Đặc biệt có nhiều chính sách tiến bộ như giảm tô, khuyến khích khai hoang làm cho cuộc sống nhân dân cải thiện.
Trong thời kì này có quan hệ ngoại giao với các nước phương Tây. Chủ nghĩa thực dân phương Tây đã xâm nhập vào Trung Quốc.
Năm 1840 chiến tranh Trung Quốc-Anh bùng nổ, triều Thanh buộc phải nhượng bộ.
Xã hội Trung Quốc bước vào giai đoạn mới, giai đoạn nửa phong kiến nửa thuộc địa. Đến năm 1911 chế độ phong kiến Trung Quốc thống nhất.
* Một số tài liệu cũ có thể bị lỗi font khi hiển thị do dùng bộ mã không phải Unikey ...

Người chia sẻ: Nguyễn Khắc Điệp
Dung lượng: | Lượt tài: 1
Loại file:
Nguồn : Chưa rõ
(Tài liệu chưa được thẩm định)