Lịch Sử hình thành tỉnh Bến Tre
Chia sẻ bởi Nguyễn Hữu Nghị |
Ngày 10/05/2019 |
33
Chia sẻ tài liệu: Lịch Sử hình thành tỉnh Bến Tre thuộc Lịch sử 7
Nội dung tài liệu:
LỚP 8
TIẾT 52
LỊCH SỬ ĐỊA PHƯƠNG
LỊCH SỬ KHAI HOANG HÌNH THÀNH TỈNH BẾN TRE
TỪ THẾ KĨ ĐẦU XVII ĐẾN CUỐI THẾ KĨ XVII
Mãi đến thế kỷ XVII, Bến Tre vẫn là một vùng đất hoang vu chưa được khai phá, khắp nơi là rừng rậm, đầm lầy nhiều loài dã thứnh: cọp,heo rừng ,trâu rừng,cá sấu ,răn ,rắn sinh sống. Nhiều đợt cư dân khắp nơi chuyển đến liên tục trong suốt thế kỷ XVII-XVIII đã làm nơi đây thay đổi.
Những lưu dân người Việt từ miền Bắc và miền Trung vào nhưng chủ yếu là miền Trung,đa số là những người dân nghèo khổ vào Nam tìm đất sinh sống ,ngoài ra còn một số thành phần khác như:binh lính,người trốn lính, tù nhân bị lưu đài, người có tội với triều đình….Người di dân đến Bến Tre bằng 2 cách :đường biển và đường bộ,nhưng đa số là đường biển
Từ năm 1757Bến Tre được gòi là Tổng Tân An thuộc châu Định Viễn ,Dinh Long Hồ
Đến năm 1808 Tổng Tân An dược thăng lên thành huyện Tân An,Phủ Định Viễn, Trấn Vĩnh Thanh gồm 2 tổng An Bảo và Tân Minh
Năm 1808 cù lao An Hoá thuộc Tổng Hoà Bình, huyện Kiến Hoà, phủ Kiến An, Trấn Định Tường
Năm 1832 Nam kì được chia làm 6 tỉnh: Gia Định, Định Tường, Biên Hoà ,Vĩnh Long , An Giang ,Hà Tiên.Vùng đất Bến Tre thuộc phủ Hoằng An nằm trong tỉnh Vĩnh Long, gồm 2 huyện Bảo An (Cù lao Bảo), Tân Minh ( cù lao Minh)
Năm 1832, tách ra thành lập tỉnh, gồm 4 huyện Bảo Hựu, Bảo An, Tân Minh và Duy Minh, trên 2 cù lao Bảo và Minh. Tỉnh chia làm 22 tổng và 151 xã, sau chỉ còn 21 tổng: Bảo Hoa, Bảo Khánh, Bảo Đức, Bảo Ngãi, Bảo Hữu, Bảo Thạnh, Bảo Lộc, Bảo Thuận, Bảo Phước, Bảo An, Bảo Trị (trên cù lao Bảo), Minh Lý, Minh Thiện, Minh Thuận, Minh Hòa, Minh Đạt, Minh Đạo, Minh Quý (Qưới), Minh Huệ, Minh Phú, Minh Trị (trên cù lao Minh).
Năm 1844 Bến Tre gồm 2 phủ: Hoằng An và Hoằng Trị htuộc tỉnh Vĩnh Long
Năm 1871 thực dân Pháp lập sở tham biện Bến Tre
Sau đó là tỉnh Đồ Chiểu .Ngày 1-1-1900 toàn quyền Đông Dương Pôn-Đume cho thực hiện nghị định kí ngày 25-12-1899 đổi các sở tham biện thành tỉnh,Bến Tre được gọi là tỉnh bắt đầu từ đó.
Thời Việt Nam Cộng Hoà, năm 1956, đổi là tỉnh Kiến Hoà, gồm thị xã tỉnh lị Bến Tre, 9 quận: Ba Tri, Bình Đại, Giồng Trôm, Mỏ Cày, Thạnh Phú, Trúc Giang, Dôn Nhơn, Hoàng Long, Hương Mỹ, với 115 xã, ấp, dân số 547819 người (1965). Sau 1975, gọi là tỉnh Bến Tre.
Bến Tre hiện nay : Diện tích: 2 315 km2
Dân số: 1.299.000 người (2004)
Dân tộc: Kinh
Tỉnh lị: thị xã Bến Tre
Bao gồm: thị xã Bến Tre và 7 huyện khác. Tất cả nằm trên ba dãy cù lao xanh ngát giữa sông Tiền:
Cù lao Bảo: thị xã Bến Tre, Châu Thành, Giồng Trôm, Ba Tri
Cù lao Minh: Chợ Lách, Mỏ Cày, Thạnh Phú
Cù lao An Hóa: Bình Đại
Vị trí
Bến Tre là tỉnh nằm ở hạ nguồn sông Cửu Long, cách thành phố Hồ Chí Minh 86km và cách thành phố Hà Nội 1.795km. Nằm gọn trong 3 cù lao lớn là Cù lao Bảo, Cù lao Minh và Cù lao An Hóa, bao bọc bởi các nhánh sông Tiền Giang và Hậu Giang.
Bắc tiếp giáp với tỉnh Tiền Giang ranh giới là sông Cửa Đại. Tây và Nam tiếp giáp với tỉnh Trà Vinh ranh giới là sông Cổ Chiên. Đông giáp biển với chiều dài 65km.
Địa hình
Là tỉnh đồng bằng châu thổ sông Cửu Long, địa thế Bến Tre có dáng dấp như một quần đảo. Nhìn trên bản đồ, Bến Tre có hình rẻ quạt mà đầu nhọn nằm ở thượng nguồn. Các nhánh sông lớn giống như những nan quạt xoè rộng về phía Đông, ôm lấy ba dãy cù lao.
Nhìn chung địa hình bằng phẳng, rải rác có những cồn cát xen kẽ với ruộng vườn, bốn bề sông nước bao bọc. Bến Tre không có rừng cây lớn, nhưng lại phủ một màu xanh dịu mát của dãy rừng ngập mặn ven biển và ở các cửa sông.
Sông ngòi
Sông Tiền ở phía Bắc còn gọi là sông Mỹ Tho chia làm hai nhánh là sông Cửa Đại và sông Cửa Tiểu đổ ra biển Đông. Sông Ba Lai chảy ra cửa Ba Lai, sông Cổ Chiên chảy
TIẾT 52
LỊCH SỬ ĐỊA PHƯƠNG
LỊCH SỬ KHAI HOANG HÌNH THÀNH TỈNH BẾN TRE
TỪ THẾ KĨ ĐẦU XVII ĐẾN CUỐI THẾ KĨ XVII
Mãi đến thế kỷ XVII, Bến Tre vẫn là một vùng đất hoang vu chưa được khai phá, khắp nơi là rừng rậm, đầm lầy nhiều loài dã thứnh: cọp,heo rừng ,trâu rừng,cá sấu ,răn ,rắn sinh sống. Nhiều đợt cư dân khắp nơi chuyển đến liên tục trong suốt thế kỷ XVII-XVIII đã làm nơi đây thay đổi.
Những lưu dân người Việt từ miền Bắc và miền Trung vào nhưng chủ yếu là miền Trung,đa số là những người dân nghèo khổ vào Nam tìm đất sinh sống ,ngoài ra còn một số thành phần khác như:binh lính,người trốn lính, tù nhân bị lưu đài, người có tội với triều đình….Người di dân đến Bến Tre bằng 2 cách :đường biển và đường bộ,nhưng đa số là đường biển
Từ năm 1757Bến Tre được gòi là Tổng Tân An thuộc châu Định Viễn ,Dinh Long Hồ
Đến năm 1808 Tổng Tân An dược thăng lên thành huyện Tân An,Phủ Định Viễn, Trấn Vĩnh Thanh gồm 2 tổng An Bảo và Tân Minh
Năm 1808 cù lao An Hoá thuộc Tổng Hoà Bình, huyện Kiến Hoà, phủ Kiến An, Trấn Định Tường
Năm 1832 Nam kì được chia làm 6 tỉnh: Gia Định, Định Tường, Biên Hoà ,Vĩnh Long , An Giang ,Hà Tiên.Vùng đất Bến Tre thuộc phủ Hoằng An nằm trong tỉnh Vĩnh Long, gồm 2 huyện Bảo An (Cù lao Bảo), Tân Minh ( cù lao Minh)
Năm 1832, tách ra thành lập tỉnh, gồm 4 huyện Bảo Hựu, Bảo An, Tân Minh và Duy Minh, trên 2 cù lao Bảo và Minh. Tỉnh chia làm 22 tổng và 151 xã, sau chỉ còn 21 tổng: Bảo Hoa, Bảo Khánh, Bảo Đức, Bảo Ngãi, Bảo Hữu, Bảo Thạnh, Bảo Lộc, Bảo Thuận, Bảo Phước, Bảo An, Bảo Trị (trên cù lao Bảo), Minh Lý, Minh Thiện, Minh Thuận, Minh Hòa, Minh Đạt, Minh Đạo, Minh Quý (Qưới), Minh Huệ, Minh Phú, Minh Trị (trên cù lao Minh).
Năm 1844 Bến Tre gồm 2 phủ: Hoằng An và Hoằng Trị htuộc tỉnh Vĩnh Long
Năm 1871 thực dân Pháp lập sở tham biện Bến Tre
Sau đó là tỉnh Đồ Chiểu .Ngày 1-1-1900 toàn quyền Đông Dương Pôn-Đume cho thực hiện nghị định kí ngày 25-12-1899 đổi các sở tham biện thành tỉnh,Bến Tre được gọi là tỉnh bắt đầu từ đó.
Thời Việt Nam Cộng Hoà, năm 1956, đổi là tỉnh Kiến Hoà, gồm thị xã tỉnh lị Bến Tre, 9 quận: Ba Tri, Bình Đại, Giồng Trôm, Mỏ Cày, Thạnh Phú, Trúc Giang, Dôn Nhơn, Hoàng Long, Hương Mỹ, với 115 xã, ấp, dân số 547819 người (1965). Sau 1975, gọi là tỉnh Bến Tre.
Bến Tre hiện nay : Diện tích: 2 315 km2
Dân số: 1.299.000 người (2004)
Dân tộc: Kinh
Tỉnh lị: thị xã Bến Tre
Bao gồm: thị xã Bến Tre và 7 huyện khác. Tất cả nằm trên ba dãy cù lao xanh ngát giữa sông Tiền:
Cù lao Bảo: thị xã Bến Tre, Châu Thành, Giồng Trôm, Ba Tri
Cù lao Minh: Chợ Lách, Mỏ Cày, Thạnh Phú
Cù lao An Hóa: Bình Đại
Vị trí
Bến Tre là tỉnh nằm ở hạ nguồn sông Cửu Long, cách thành phố Hồ Chí Minh 86km và cách thành phố Hà Nội 1.795km. Nằm gọn trong 3 cù lao lớn là Cù lao Bảo, Cù lao Minh và Cù lao An Hóa, bao bọc bởi các nhánh sông Tiền Giang và Hậu Giang.
Bắc tiếp giáp với tỉnh Tiền Giang ranh giới là sông Cửa Đại. Tây và Nam tiếp giáp với tỉnh Trà Vinh ranh giới là sông Cổ Chiên. Đông giáp biển với chiều dài 65km.
Địa hình
Là tỉnh đồng bằng châu thổ sông Cửu Long, địa thế Bến Tre có dáng dấp như một quần đảo. Nhìn trên bản đồ, Bến Tre có hình rẻ quạt mà đầu nhọn nằm ở thượng nguồn. Các nhánh sông lớn giống như những nan quạt xoè rộng về phía Đông, ôm lấy ba dãy cù lao.
Nhìn chung địa hình bằng phẳng, rải rác có những cồn cát xen kẽ với ruộng vườn, bốn bề sông nước bao bọc. Bến Tre không có rừng cây lớn, nhưng lại phủ một màu xanh dịu mát của dãy rừng ngập mặn ven biển và ở các cửa sông.
Sông ngòi
Sông Tiền ở phía Bắc còn gọi là sông Mỹ Tho chia làm hai nhánh là sông Cửa Đại và sông Cửa Tiểu đổ ra biển Đông. Sông Ba Lai chảy ra cửa Ba Lai, sông Cổ Chiên chảy
* Một số tài liệu cũ có thể bị lỗi font khi hiển thị do dùng bộ mã không phải Unikey ...
Người chia sẻ: Nguyễn Hữu Nghị
Dung lượng: |
Lượt tài: 1
Loại file:
Nguồn : Chưa rõ
(Tài liệu chưa được thẩm định)