Lịch sử địa phương
Chia sẻ bởi Hà Thu Dung |
Ngày 29/04/2019 |
26
Chia sẻ tài liệu: lịch sử địa phương thuộc Lịch sử 7
Nội dung tài liệu:
LỊCH SỬ ĐỊA PHƯƠNG
QUẢNG NINH
ĐÔNG TRIỀU
Lược đồ Quảng Ninh
Những sự kiện lớn của lịch sử dân tộc liên quan đến Quảng Ninh:
1. Ba lần đại thắng quân xâm lược trên sông Bạch Đằng:
- Ngô Quyền chiến thắng quân Nam Hán (938).
- Lê Đại Hành Lê Hoàn chiến thắng quân Tống (981).
- Trần Hưng Đao đại thắng quân Mông-Nguyên (1288).
Đôi bờ sông Bạch Đằng hiện nay vẫn còn lưu giữ rất nhiều truyền thuyết cùng các dấu tích, những người địa phương có công được tôn thờ, các triều đại sau tôn vinh. Tại huyện Vân Đồn, có đền thờ những người dân Vân Hải lập công xuất sắc.
2. Dưới triều Lý, Lý Thường Kiệt tiến quân qua vùng Đông Bắc này để đại phá quân Tống ngay tại sào huyệt của chúng.
3. Mở thương cảng Vân Đồn. Cảng ngoại thương Vạn Ninh - Vân Đồn thịnh vượng nhiều thế kỷ suốt các triều đại Lý - Trần.
4. Ra đời và phát triển mạnh Thiền phái Trúc Lâm của đạo Phật trên vùng núi Yên Tử. Yên Tử - Quỳnh Lâm trở thành trung tâm Phật giáo lớn của Việt Nam thời Trần.
Cây lim Giếng Rừng (Cây lim cổ thụ)
. Hai cây lim này có tuổi thọ trên 700 năm cùng với các địa danh cổ còn lưu lại đến ngày nay tại thị trấn Quảng Yên, huyện Yên Hưng như: Sông Rừng, Bến Rừng, Chợ Rừng, Giếng Rừng... chứng tỏ xưa kia, vùng đất ven sông Bạch Ðằng là những cánh rừng cổ mà dấu vết còn lại đến nay có liên quan mật thiết với các trận địa cọc trên sông Bạch Ðằng năm xưa
Tương truyền rằng trong khi đi thị sát địa hình chuẩn bị chiến trường, Trần Hưng Ðạo đi qua bến đò gặp bà cụ bán hàng nước và hỏi, bà đã cung cấp cho Trần Hưng Ðạo lịch triều con nước, địa thế dòng sông và bà đã mách dùng chiến thuật hoả công để đánh giặc. Sau khi thắng trận, Trần Hưng Ðạo đã quay lại bến đò tìm bà cụ bán hàng nước thì không thấy nữa, ông đã xin vua Trần phong sắc cho bà là "Vua Bà“.
Miếu Vua Bà
Cọc Bạch Đằng
9
Cọc gỗ Bạch Đằng
10
Di tích bãi cọc chiến thắng Bạch Đằng năm 1288, tại xã Yên Giang, Yên Hưng đã được xếp hạng di tích lịch sử cấp quốc gia
11
Làng quê Hà Nam bên dòng sông Bạch Đằng lịch sử
Bến cảng Vân Đồn
Năm 1149 vua Lý Anh Tông của nhà Lý chính thức lập trang Vân Ðồn. Vân Đồn thành thương cảng đầu tiên của Đại Việt giao thương với các nước trong khu vực Đông Á và Thế giới như: Nhật Bản, Trung Quốc, Ấn Độ, Thái Lan, Indonesia ... Thương cảng Vân Đồn thịnh vượng suốt 3 triều đại Lý - Trần - Hậu Lê (Lê sơ) rồi suy thái và bị lãng quên vào thời nhà Mạc.
Thương cảng Vân Đồn, không chỉ là nơi giao thương, buôn bán mà còn địa danh ghi lại những chiến công oanh liệt chống ngoại xâm của vua tôi nhà Trần. Trận Vân Đồn năm 1288 trên dòng sông Mang (Quan Lạn) gắn liền với tên tuổi của danh tướng Trần Khánh Dư, dưới sự chỉ huy của ông, quân dân nhà Trần đã đánh tan đoàn thuyền lương của Trương Văn Hổ, góp phần quan trọng vào chiến thắng chung của trận Bạch Đằng năm 1288.
Đến thời Trần, vân Đồn phát triển tới hưng thịnh thúc đẩy các bến thuyền cổ trung chuyển hàng hoá: hương liệu, gốm sứ, lâm thổ sản... hình thành dọc ven sông Bạch Đằng, Cửa Lục cho tới các đảo Cống Đông, Quan Lạn. Tại đảo Cống Đông (nay là xã Thắng Lợi), các nhà khảo cổ đã tìm thấy dấu tích của nhiều công trình kiến trúc Phật giáo quy mô thời Trần như chùa, tháp, nhiều di vật bia đá, lan can, chân kê cột... Đây là những minh chứng rõ nhất cho sự phát triển phồn thịnh về thương mại dưới triều nhà Trần.
Trong suốt chiều dài lịch sử, Vân Đồn đã nhiều lần thay tên và có lúc là huyện, lúc là châu... Đến ngày 23 tháng 3 năm 1994, Vân Đồn được chính phủ nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam đổi tên là huyện Vân Đồn ngày nay.
Ngay từ thời Lý, Yên Tử đã có chùa thờ Phật gọi là chùa Phù Vân và đạo sỹ Yên Kỳ Sinh đã tu hành đắc đạo ở đây. Nhưng Yên Tử thực sự trở thành trung tâm Phật giáo từ khi vua Trần Nhân Tông từ bỏ ngai vàng khoác áo cà sa tu hành và thành lập một giáo phái Phật giáo đặc trưng của Việt Nam đó là phái thiền phái Trúc Lâm và trở thành vị tổ thứ nhất với pháp danh: Ðiều Ngự Giác Hoàng Trần Nhân Tông (1258-1308), ông đã cho xây dựng hàng trăm công trình lớn nhỏ trên núi Yên Tử để làm nơi tu hành và truyền kinh, giảng đạo. Sau khi ông qua đời, Pháp Loa Ðồng Kiên Cương (1284-1330) kế tục sự nghiệp trở thành vị tổ thứ hai của phái Trúc Lâm. Yên Tử trở thành trung tâm của Phật giáo Việt Nam và được vua quan các triều đại quan tâm tôn tạo sửa chữa nên khu di tích Yên Tử là kết tinh, sự hội tụ của nền văn hoá dân tộc với dáng dấp kiến trúc, hoa văn trang trí và các mảng chạm khắc mang đậm dấu ấn của các thời đại.
Cụm di tích Yên Tử
Vịnh Hạ Long
Cầu Bãi Cháy
Chùa tọa lạc ở xã Tràng An, huyện Đông Triều, tỉnh Quảng Ninh. Được khởi dựng từ thời Lý, Chùa từng là nơi trụ trì của nhiều vị Thiền sư danh tiếng như Quốc sư Nguyễn Minh Không (đời Vua Lý Thần Tông), Thiền sư Pháp Loa (đời Vua Trần Minh Tông), Thiền sư Chân Nguyên (thời Hậu Lê)... và trở thành một trung tâm Phật giáo của cả nước từ lúc Thiền sư Pháp Loa lập Viện Quỳnh Lâm vào năm 1317. Sân trước chùa có nhiều tháp cổ, trong đó có tháp Tuệ Quang là tháp mộ Thiền sư Chân Nguyên dựng năm 1726. Đặc biệt, chùa còn giữ một tấm bia thời Lý cao 2,43m, ngang 1,54m khắc chữ hai mặt và một số di vật bằng đá, đất nung cổ. Chùa hiện được Đại đức Thích Đạo Quang tổ chức trùng tu mở rộng. Năm 1995, chùa đã xây nhà bia và nhà thờ Trúc Lâm Tam Tổ. Chùa đã được Bộ Văn hóa công nhận là Di tích lịch sử - văn hóa quốc gia.
Đền và lăng mộ nhà Trần thuộc xã An Sinh, huyện Đông Triều, tỉnh Quảng Ninh, nằm rải rác trong một khu đất rộng có bán kính 20 km để thờ "Bát Vị Hoàng Đế" thời Trần gồm một đền và 8 lăng mộ: lăng mộ của Trần Thái Tông, Trần Thánh Tông và Giản Định Đế thuộc thôn Nghĩa Hưng. Lăng mộ Trần Anh Tông ở khu trại Lốc, lăng Trần Minh Tông ở khu Khe Gạch, lăng Trần Hiến Tông ở khu Ao Bèo, lăng Trần Dụ Tông ở khu Đống Tròn, lăng Trần Nghệ Tông ở khu Khe Nghệ. Ngoài việc xây dựng điện miếu ở mỗi lăng làm nơi thờ cúng, triều đình còn cho xây dựng ở khu đền Sinh nhiều toà điện miếu lớn để làm nơi tế lễ bái yết và cắt cử các quan về trông coi cẩn thận.
Đền và lăng mộ nhà Trần được xây dựng thời nhà Trần, được trùng tu vào thời Hậu Lê và thời Nguyễn, trở thành thánh địa tôn nghiêm qua các triều Trần, Lê, Nguyễn.
Quần thể di tích Trải qua thời gian và thăng trầm của lịch sử, khu vực này đã bị hư hỏng nặng. Ngày nay với ý thức và lòng tự hào dân tộc nên khu đền Sinh và các lăng mộ nhà Trần đang dần được quan tâm khôi phục đúng với tầm cỡ của nó để bảo tồn và phát huy một di sản văn hoá quý báu của dân tộc và góp phần giáo dục truyền thống cho các thế hệ mai sau, tạo thành một khu di tích thu hút du khách bốn phương.
Đây là một trong những công trình tưởng niệm có giá trị lớn trong lịch sử Việt Nam và đã được Bộ Văn hoá Thông tin công nhận là di tích lịch sử.
QUẢNG NINH
ĐÔNG TRIỀU
Lược đồ Quảng Ninh
Những sự kiện lớn của lịch sử dân tộc liên quan đến Quảng Ninh:
1. Ba lần đại thắng quân xâm lược trên sông Bạch Đằng:
- Ngô Quyền chiến thắng quân Nam Hán (938).
- Lê Đại Hành Lê Hoàn chiến thắng quân Tống (981).
- Trần Hưng Đao đại thắng quân Mông-Nguyên (1288).
Đôi bờ sông Bạch Đằng hiện nay vẫn còn lưu giữ rất nhiều truyền thuyết cùng các dấu tích, những người địa phương có công được tôn thờ, các triều đại sau tôn vinh. Tại huyện Vân Đồn, có đền thờ những người dân Vân Hải lập công xuất sắc.
2. Dưới triều Lý, Lý Thường Kiệt tiến quân qua vùng Đông Bắc này để đại phá quân Tống ngay tại sào huyệt của chúng.
3. Mở thương cảng Vân Đồn. Cảng ngoại thương Vạn Ninh - Vân Đồn thịnh vượng nhiều thế kỷ suốt các triều đại Lý - Trần.
4. Ra đời và phát triển mạnh Thiền phái Trúc Lâm của đạo Phật trên vùng núi Yên Tử. Yên Tử - Quỳnh Lâm trở thành trung tâm Phật giáo lớn của Việt Nam thời Trần.
Cây lim Giếng Rừng (Cây lim cổ thụ)
. Hai cây lim này có tuổi thọ trên 700 năm cùng với các địa danh cổ còn lưu lại đến ngày nay tại thị trấn Quảng Yên, huyện Yên Hưng như: Sông Rừng, Bến Rừng, Chợ Rừng, Giếng Rừng... chứng tỏ xưa kia, vùng đất ven sông Bạch Ðằng là những cánh rừng cổ mà dấu vết còn lại đến nay có liên quan mật thiết với các trận địa cọc trên sông Bạch Ðằng năm xưa
Tương truyền rằng trong khi đi thị sát địa hình chuẩn bị chiến trường, Trần Hưng Ðạo đi qua bến đò gặp bà cụ bán hàng nước và hỏi, bà đã cung cấp cho Trần Hưng Ðạo lịch triều con nước, địa thế dòng sông và bà đã mách dùng chiến thuật hoả công để đánh giặc. Sau khi thắng trận, Trần Hưng Ðạo đã quay lại bến đò tìm bà cụ bán hàng nước thì không thấy nữa, ông đã xin vua Trần phong sắc cho bà là "Vua Bà“.
Miếu Vua Bà
Cọc Bạch Đằng
9
Cọc gỗ Bạch Đằng
10
Di tích bãi cọc chiến thắng Bạch Đằng năm 1288, tại xã Yên Giang, Yên Hưng đã được xếp hạng di tích lịch sử cấp quốc gia
11
Làng quê Hà Nam bên dòng sông Bạch Đằng lịch sử
Bến cảng Vân Đồn
Năm 1149 vua Lý Anh Tông của nhà Lý chính thức lập trang Vân Ðồn. Vân Đồn thành thương cảng đầu tiên của Đại Việt giao thương với các nước trong khu vực Đông Á và Thế giới như: Nhật Bản, Trung Quốc, Ấn Độ, Thái Lan, Indonesia ... Thương cảng Vân Đồn thịnh vượng suốt 3 triều đại Lý - Trần - Hậu Lê (Lê sơ) rồi suy thái và bị lãng quên vào thời nhà Mạc.
Thương cảng Vân Đồn, không chỉ là nơi giao thương, buôn bán mà còn địa danh ghi lại những chiến công oanh liệt chống ngoại xâm của vua tôi nhà Trần. Trận Vân Đồn năm 1288 trên dòng sông Mang (Quan Lạn) gắn liền với tên tuổi của danh tướng Trần Khánh Dư, dưới sự chỉ huy của ông, quân dân nhà Trần đã đánh tan đoàn thuyền lương của Trương Văn Hổ, góp phần quan trọng vào chiến thắng chung của trận Bạch Đằng năm 1288.
Đến thời Trần, vân Đồn phát triển tới hưng thịnh thúc đẩy các bến thuyền cổ trung chuyển hàng hoá: hương liệu, gốm sứ, lâm thổ sản... hình thành dọc ven sông Bạch Đằng, Cửa Lục cho tới các đảo Cống Đông, Quan Lạn. Tại đảo Cống Đông (nay là xã Thắng Lợi), các nhà khảo cổ đã tìm thấy dấu tích của nhiều công trình kiến trúc Phật giáo quy mô thời Trần như chùa, tháp, nhiều di vật bia đá, lan can, chân kê cột... Đây là những minh chứng rõ nhất cho sự phát triển phồn thịnh về thương mại dưới triều nhà Trần.
Trong suốt chiều dài lịch sử, Vân Đồn đã nhiều lần thay tên và có lúc là huyện, lúc là châu... Đến ngày 23 tháng 3 năm 1994, Vân Đồn được chính phủ nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam đổi tên là huyện Vân Đồn ngày nay.
Ngay từ thời Lý, Yên Tử đã có chùa thờ Phật gọi là chùa Phù Vân và đạo sỹ Yên Kỳ Sinh đã tu hành đắc đạo ở đây. Nhưng Yên Tử thực sự trở thành trung tâm Phật giáo từ khi vua Trần Nhân Tông từ bỏ ngai vàng khoác áo cà sa tu hành và thành lập một giáo phái Phật giáo đặc trưng của Việt Nam đó là phái thiền phái Trúc Lâm và trở thành vị tổ thứ nhất với pháp danh: Ðiều Ngự Giác Hoàng Trần Nhân Tông (1258-1308), ông đã cho xây dựng hàng trăm công trình lớn nhỏ trên núi Yên Tử để làm nơi tu hành và truyền kinh, giảng đạo. Sau khi ông qua đời, Pháp Loa Ðồng Kiên Cương (1284-1330) kế tục sự nghiệp trở thành vị tổ thứ hai của phái Trúc Lâm. Yên Tử trở thành trung tâm của Phật giáo Việt Nam và được vua quan các triều đại quan tâm tôn tạo sửa chữa nên khu di tích Yên Tử là kết tinh, sự hội tụ của nền văn hoá dân tộc với dáng dấp kiến trúc, hoa văn trang trí và các mảng chạm khắc mang đậm dấu ấn của các thời đại.
Cụm di tích Yên Tử
Vịnh Hạ Long
Cầu Bãi Cháy
Chùa tọa lạc ở xã Tràng An, huyện Đông Triều, tỉnh Quảng Ninh. Được khởi dựng từ thời Lý, Chùa từng là nơi trụ trì của nhiều vị Thiền sư danh tiếng như Quốc sư Nguyễn Minh Không (đời Vua Lý Thần Tông), Thiền sư Pháp Loa (đời Vua Trần Minh Tông), Thiền sư Chân Nguyên (thời Hậu Lê)... và trở thành một trung tâm Phật giáo của cả nước từ lúc Thiền sư Pháp Loa lập Viện Quỳnh Lâm vào năm 1317. Sân trước chùa có nhiều tháp cổ, trong đó có tháp Tuệ Quang là tháp mộ Thiền sư Chân Nguyên dựng năm 1726. Đặc biệt, chùa còn giữ một tấm bia thời Lý cao 2,43m, ngang 1,54m khắc chữ hai mặt và một số di vật bằng đá, đất nung cổ. Chùa hiện được Đại đức Thích Đạo Quang tổ chức trùng tu mở rộng. Năm 1995, chùa đã xây nhà bia và nhà thờ Trúc Lâm Tam Tổ. Chùa đã được Bộ Văn hóa công nhận là Di tích lịch sử - văn hóa quốc gia.
Đền và lăng mộ nhà Trần thuộc xã An Sinh, huyện Đông Triều, tỉnh Quảng Ninh, nằm rải rác trong một khu đất rộng có bán kính 20 km để thờ "Bát Vị Hoàng Đế" thời Trần gồm một đền và 8 lăng mộ: lăng mộ của Trần Thái Tông, Trần Thánh Tông và Giản Định Đế thuộc thôn Nghĩa Hưng. Lăng mộ Trần Anh Tông ở khu trại Lốc, lăng Trần Minh Tông ở khu Khe Gạch, lăng Trần Hiến Tông ở khu Ao Bèo, lăng Trần Dụ Tông ở khu Đống Tròn, lăng Trần Nghệ Tông ở khu Khe Nghệ. Ngoài việc xây dựng điện miếu ở mỗi lăng làm nơi thờ cúng, triều đình còn cho xây dựng ở khu đền Sinh nhiều toà điện miếu lớn để làm nơi tế lễ bái yết và cắt cử các quan về trông coi cẩn thận.
Đền và lăng mộ nhà Trần được xây dựng thời nhà Trần, được trùng tu vào thời Hậu Lê và thời Nguyễn, trở thành thánh địa tôn nghiêm qua các triều Trần, Lê, Nguyễn.
Quần thể di tích Trải qua thời gian và thăng trầm của lịch sử, khu vực này đã bị hư hỏng nặng. Ngày nay với ý thức và lòng tự hào dân tộc nên khu đền Sinh và các lăng mộ nhà Trần đang dần được quan tâm khôi phục đúng với tầm cỡ của nó để bảo tồn và phát huy một di sản văn hoá quý báu của dân tộc và góp phần giáo dục truyền thống cho các thế hệ mai sau, tạo thành một khu di tích thu hút du khách bốn phương.
Đây là một trong những công trình tưởng niệm có giá trị lớn trong lịch sử Việt Nam và đã được Bộ Văn hoá Thông tin công nhận là di tích lịch sử.
* Một số tài liệu cũ có thể bị lỗi font khi hiển thị do dùng bộ mã không phải Unikey ...
Người chia sẻ: Hà Thu Dung
Dung lượng: |
Lượt tài: 1
Loại file:
Nguồn : Chưa rõ
(Tài liệu chưa được thẩm định)