Lich su dia phuong
Chia sẻ bởi Hoàng Phương Thảo |
Ngày 27/04/2019 |
82
Chia sẻ tài liệu: lich su dia phuong thuộc Bài giảng khác
Nội dung tài liệu:
Xin chò các bạn nhóm chúng tôi tên là “dragon”
Xin chào các bạn nhóm chúng tôi tên là “dragon”
Hưởng ứng lời dạy của Bác:
“Dân ta phải biết sử ta
Cho tường gốc thích nước nhà Việt Nam.”
Hôm nay, chúng em cùng nhau khám phá lịch sử huyện Từ Liêm...
Hưởng ứng lời dạy của Bác:
“Dân ta phải biết sử ta
Cho tường gốc thích nước nhà Việt Nam.”
Hôm nay, chúng em cùng nhau khám phá lịch sử huyện Từ Liêm...
Nào chúng ta cùng khám phá nguồn gốc của huyện Từ Liêm nhé
-Từ Liêm đầu công nguyên thuộc huyện Luy Lâu, sau thuộc quận Giao Chỉ.Đến năm 621 SCN lập huyện Từ Liêm cùng hai huyện Ô Diên và Vũ Lập thuộc Từ Châu.
-Dưới thời Lý, Trần huyện Từ Liêm thuôc quận Vĩnh Khang. Năm Minh Mệnh thứ 12 (1831) nằm 1 trong 3 huyện của phủ Hoài Đức, tỉnh Hà Nội.
Nào chúng ta cùng khám phá nguồn gốc của huyện Từ Liêm
-Từ Liêm đầu công nguyên thuộc huyện Luy Lâu, sau thuộc quận Giao Chỉ.Đến năm 621 SCN lập huyện Từ Liêm cùng hai huyện Ô Diên và Vũ Lập thuộc Từ Châu.
-Dưới thời Lý, Trần huyện Từ Liêm thuôc quận Vĩnh Khang. Năm Minh Mệnh thứ 12 (1831) nằm 1 trong 3 huyện của phủ Hoài Đức, tỉnh Hà Nội.
Các thiếu nữ mặc áo dài đi hóng mát vào buổi chiều hè. Một nét thanh lịch của Hà Nội đầu thập niên 1950.
-Năm 1888, Thực dân Pháp thành lập thành phố Hà Nội, 1 số xã thuộc huyện Từ Liêm trước đây được cắt vào khu ngoại thành Hà NỘi, đến năm 1915 khu vực này đổi thành huyện Hoàn Long – Tỉnh Hà Đông. Sau đó vua Khải định ra đạo dụ (26-12 – 1918) quy định các phủ ngang các huyện thì huyện Từ Liêm bỏ đi chỉ còn phủ Hoài Đức thuộc tỉnh Hà Đông.
-Năm 1888, Thực dân Pháp thành lập thành phố Hà Nội, 1 số xã thuộc huyện Từ Liêm trước đây được cắt vào khu ngoại thành Hà NỘi, đến năm 1915 khu vực này đổi thành huyện Hoàn Long – Tỉnh Hà Đông. Sau đó vua Khải định ra đạo dụ (26-12 – 1918) quy định các phủ ngang các huyện thì huyện Từ Liêm bỏ đi chỉ còn phủ Hoài Đức thuộc tỉnh Hà Đông.
Ngày 19/7/1888, Tổng thống Pháp đã ký sắc lệnh thành lập thành phố Hà Nội.
- Sau cách mạng tháng 8 năm 1945, chính quyền cách mạng chia ra nhiều hành đơn vị hành chính nhỏ sau nhiều lần đổi tên :
Tháng 5-1946, ngoại thành chia thành 5 khu : Lãng Bạc, Đại La, Đống Đa, Đề Thám, Mê Linh.
-Đầu năm 1947, địch chiếm một số vùng ở ngoại thành nên năm khu được tổ chức thành ba quận : khu Lãng Bạc và Đại La xác nhập thành quận 4: Chia Khu Đống Đa, Đề Thám, Mê Linh thành hai quận 5 và 6.
- Sau cách mạng tháng 8 năm 1945, chính quyền cách mạng chia ra nhiều hành đơn vị hành chính nhỏ sau nhiều lần đổi tên :
Tháng 5-1946, ngoại thành chia thành 5 khu : Lãng Bạc, Đại La, Đống Đa, Đề Thám, Mê Linh.
-Đầu năm 1947, địch chiếm một số vùng ở ngoại thành nên năm khu được tổ chức thành ba quận : khu Lãng Bạc và Đại La xác nhập thành quận 4: Chia Khu Đống Đa, Đề Thám, Mê Linh thành hai quận 5 và 6.
Từ tháng 12-1949 đến tháng 10-1953 thông nhất 3 quận IV ,V,Vithanh quận ngoại thành.Dưới quận ngoại thành được chia thành 9 miền có kí hiệu A, B, C, D, E, G, H, I, K.Các miền A, B, C là địa bàn của huyện Từ Liêm.
Từ tháng 12-1949 đến tháng 10-1953 thông nhất 3 quận IV ,V,Vithanh quận ngoại thành.Dưới quận ngoại thành được chia thành 9 miền có kí hiệu A, B, C, D, E, G, H, I, K.Các miền A, B, C là địa bàn của huyện Từ Liêm.
-Từ xưa huyện Từ Liêm đã có đường giao thông đương thủy thuận tiện:
+Phía bắc có sông Hông và hai nhánh sông Tô và sông Nhuệ chạy dọc theo chiều dài huyện.
+Trên tuyến đê sông Hồng có các bến đò cổ: Chèm, Sù, Kẻ qua sông sang xứ Kinh Bắc.
-Từ xưa huyện Từ Liêm đã có đường giao thông đương thủy thuận tiện:
+Phía bắc có sông Hông và hai nhánh sông Tô và sông Nhuệ chạy dọc theo chiều dài huyện.
+Trên tuyến đê sông Hồng có các bến đò cổ: Chèm, Sù, Kẻ qua sông sang xứ Kinh Bắc.
Thời Trần, sông Nhuệ chảy xuôi có đoạn nối với các sông Tô Lịch, Đáy, ...
Đường bộ có:
-Chạy giữa các huyện:
+Quốc lộ 11
+Quốc lộ 70
-Chạy giữa các tỉnh:
+Đường 23
+Đường 65
+Đường 69
Đường bộ có:
-Chạy giữa các huyện:
+Quốc lộ 11
+Quốc lộ 70
-Chạy giữa các tỉnh:
+Đường 23
+Đường 65
+Đường 69
-Nay có nhiều đường giao thông huyết mạch:
+Đường Phạm Hùng-Phạm Văn Đồng...
+Cầu Thăng Long đi sân bay quốc tế Nội Bài.
-Nay có nhiều đường giao thông huyết mạch:
+Đường Phạm Hùng-Phạm Văn Đồng...
+Cầu Thăng Long đi sân bay quốc tế Nội Bài.
-Từ năm 1010,Từ Liêm là cửa ngõ chính cua thủ đô.
-Do đặc điểm vị trí mà Từ Liêm trở thành địa bàn có ý nghĩa cơ động và chiến lược về mặt quân sự.Miền đất này vừa là vành đai, áo giáp bảo vệ thủ đô, vừa là cửa ngõ miền trung du, trung tâm quân sướn Tây, căn cứ địa Việt Bắc xuống đồng bằng Bắc bộ, tiến vào thành phố.Với vị trí như vậy Từ Liêm vừa xây dựng căn cứ, phòng thủ vừa tiến công kẻ thù.
-Từ năm 1010,Từ Liêm là cửa ngõ chính cua thủ đô.
-Do đặc điểm vị trí mà Từ Liêm trở thành địa bàn có ý nghĩa cơ động và chiến lược về mặt quân sự.Miền đất này vừa là vành đai, áo giáp bảo vệ thủ đô, vừa là cửa ngõ miền trung du, trung tâm quân sướn Tây, căn cứ địa Việt Bắc xuống đồng bằng Bắc bộ, tiến vào thành phố.Với vị trí như vậy Từ Liêm vừa xây dựng căn cứ, phòng thủ vừa tiến công kẻ thù.
-Từ Liêm nằm trong vùng đồng bằng phì nhiêu của các dòng sông Hồng, sông Nhuệ nên nơi đây là một trong những địa bàn sinh tụ của cư dân Văn Lang thời dựng nước.
Đồng bằng châu thổ sông hình thành ở vùng cửa sông
Qua khai quật các di chỉ khảo cổ học ở thôn Ngọc Long cho thấy những di chỉ này thuộc văn hóa Phùng Nguyên-đầu thời kì đồng thau cách ngày nay khoảng 4000-3500 năm trươc Công nguyên.
Qua khai quật các di chỉ khảo cổ học ở thôn Ngọc Long cho thấy những di chỉ này thuộc văn hóa Phùng Nguyên-đầu thời kì đồng thau cách ngày nay khoảng 4000-3500 năm trươc Công nguyên.
Các hiện vật, công cụ sản xuất có niên đại hàng ngàn năm của cư dân thời tiền sử sinh sống ở thung lũng sông Tang.
Theo những nghiên cứu của các nhà khảo cổ học .
-Kết quả khai quật, nghiên cứu các di chỉ khảo cổ trên địa bàn huyện do Viện Khảo cổ học việt Nam tiến hành trong những năm 1968-1969 cho thấy:
+Tại di chỉ Vinh Quang trong tầng văn hóa lớp trên đã thấy nhiều dụng cụ như lưỡi dìu chiến, búa chiến, mũi tên...
+Những đồng tiền bán lạng Lữ Hậu (178 – 180 TCN. .
-Kết quả khai quật, nghiên cứu các di chỉ khảo cổ trên địa bàn huyện do Viện Khảo cổ học việt Nam tiến hành trong những năm 1968-1969 cho thấy:
+Tại di chỉ Vinh Quang trong tầng văn hóa lớp trên đã thấy nhiều dụng cụ như lưỡi dìu chiến, búa chiến, mũi tên...
+Những đồng tiền bán lạng Lữ Hậu (178 – 180 TCN. .
- Ở tầng văn hóa lớp dưới đã thấy nhiều công cụ sản xuất đồ trang sức, tiền ốc, các loại đồ gốm có màu sắc, hoa văn trang trí phong phú và 11 sọ người niên đại các – bon phóng xạ di chỉ là 1095 năm trước Công Nguyên .
- Ở tầng văn hóa lớp dưới đã thấy nhiều công cụ sản xuất đồ trang sức, tiền ốc, các loại đồ gốm có màu sắc, hoa văn trang trí phong phú và 11 sọ người niên đại các – bon phóng xạ di chỉ là 1095 năm trước Công Nguyên .
gốm trang trí bằng hoa văn in mép sò
Bình gốm bằng sứ dù đã bị vỡ nhưng vẫn còn nguyên giá trị văn hóa
Kỹ thuật chế tácgốm rất tinh xảo
Tượng hình người bằng đá
- Ngôi mộ cổ khai quật ở khu vực Cầu Giếng có niên đại khoảng 200 năm TCN.
- Những viên gạch được tráng men nâu mỏng xác định từ thế kỷ thứ l đến thế kỷ thứ III, cách đây khoảng 2000 năm.
-Nhiều ngôi mộ cổ được phát hiện dưới lòng đất làng Chèn, Vẽ, đó là khu mộ Hán có niên đại từ thế kỷ I đến thế kỷ VI SCN,thời nước ta thuộc đông Hán.
- Ngôi mộ cổ khai quật ở khu vực Cầu Giếng có niên đại khoảng 200 năm TCN.
- Những viên gạch được tráng men nâu mỏng xác định từ thế kỷ thứ l đến thế kỷ thứ III, cách đây khoảng 2000 năm.
-Nhiều ngôi mộ cổ được phát hiện dưới lòng đất làng Chèn, Vẽ, đó là khu mộ Hán có niên đại từ thế kỷ I đến thế kỷ VI SCN,thời nước ta thuộc đông Hán.
Ngôi mộ cổ đang được khai quật. Một ngôi mộ Đông Hán
Di vật trong lăng mộ gồm: Kiếm sắt, kiếm đồng, nhẫn vàng bạc, bình đồng tiền vò, cốc chén và cả mồ hình nhà, giếng nước, bếp lò bằng gạch nung. Như vậy huyện Từ Liêm thời ấy đã có người sinh sống.
Ngay từ buổi đầu lịch sử của dân tộc, cư dân nơi đây chung lưng đấu cật, cùng nhau khai phá đất đai, chống chọi với thiên nhiên, lập xóm làng sống sung túc.
Di vật trong lăng mộ gồm: Kiếm sắt, kiếm đồng, nhẫn vàng bạc, bình đồng tiền vò, cốc chén và cả mồ hình nhà, giếng nước, bếp lò bằng gạch nung. Như vậy huyện Từ Liêm thời ấy đã có người sinh sống.
Ngay từ buổi đầu lịch sử của dân tộc, cư dân nơi đây chung lưng đấu cật, cùng nhau khai phá đất đai, chống chọi với thiên nhiên, lập xóm làng sống sung túc.
- Nghề nghiệp chính của họ là sản xuất nông nghiệp, cấy lúa, trồng màu, nuôi tằm, chăn nuôi ...
- Các di vật cho thấy lúc đó đã có một bộ phận cư dân sinh sống, trở thành nước Văn Lang của các vua Hùng chủ nhân của nền văn minh sông Hồng rực rỡ.
- Nghề nghiệp chính của họ là sản xuất nông nghiệp, cấy lúa, trồng màu, nuôi tằm, chăn nuôi ...
- Các di vật cho thấy lúc đó đã có một bộ phận cư dân sinh sống, trở thành nước Văn Lang của các vua Hùng chủ nhân của nền văn minh sông Hồng rực rỡ.
Bây giờ chúng ta cùng khám phá những truyền thống lịch sử trước năm 1930 của cư dân nơi đây nhé!
- Từ Liêm xưa và nay luôn lầ vùng đất gắn bó chặt chẽ với Thăng Long – Hà Nội. Bên cạnh cư dân bản địa từ xa xưa, có cư dân từ các địa phương, qua nhiều thời đại đến sinh sống, bảo vệ lẫn nhau. Ở địa bàn tiếp giáp với kinh kì, chảy qua hàng ngàn năm lao động với đôi bàn tay khéo léo và sáng tạo, người dân Từ Liêm đã sản xuất ra những sản phẩm nông nghiệp, tiểu thủ công nổi tiếng :
+ Cốm Vòng, gạo tám Mễ Trì
Tương bần, húng Láng còn gì ngon hơn.
- Nói đến rau, quả không thể không nhắc đến : su hào, bắp cải, cà chua,dưa hấu Tây Tựu ; ngoài cam Canh đã được ghi nhận vào sử sách ngàn xưa, nay thêm bưởi Phú Diễn, Minh Khai, hồng Xiêm Xuân Đỉnh làm giàu cho cây trái Thủ đô.
Với truyền thống lao động cần cù, đôi tay khéo léo người dân Tù Liêm còn chế biến ra các món ăn ngon như giò Chèm, nem Vẽ, bánh đúc làng Kẻ, bánh tẻ làng Diễn, bánh trung thu…..
Về tiểu thủ công nghiệp, nghề dệt thêu ren đạt kĩ nghệ tinh xảo ở Miêu Nha, Đại Mỗ ; làng Vẽ, làng Dộc Cơ thạo nghề hàng nan với các sản phẩm : chè quang song, đan mũ nan, quạt lá đề, đĩa mây; liềm seo giấy, đan bồ ở Ngọc Trục, ép dầu ở Đống Ba, làm thừng, đậu phụ ở Đại Cát.
Khi thực dân Pháp tiến hành cuộc khai thác thuộc địa lần thứ nhất (cuối thế kỉ XIX), Hà Nội trở thành trung tâm kinh tế, chính trị, văn hóa của cả nước.Từ xưa nghề rèn ở Hòe Thị đã kéo ra phố Lò Rèn và các cửa ô để sản xuất dao, kéo, lưỡi liềm …phục vụ sản xuất và đời sống nhân dân.về sau sản xuất bu lông làm cầu Long Biên và đường xe lửa Hà Nội-Lang Sơn.Lang Thị Cấm, ngọc Mạnh có nghề tráng gương , thơ kkim hoàn làm vàng bạc và các đồ trang sức.
-Nghề may Cổ Nhuế tuy mới xuất hiện đầu thế kỉ XX nhưng phát triển nhanh, trở thành một làng chuyên may quần áo binh lính.
-sự tác động của quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa vào Từ Liêm những năm cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX đã làm thay đổi cơ cấu xã hội, nhiều ngành nghề mới xuất hiện, càng gắn liền Tư Liêm với Hà Nội của thực dân Pháp ở Đông Dương.
Tiếp tục, chúng ta sẽ tìm hiểu Từ Liêm có nhiều di tích –lịch sử.
Từ Liêm di tích lịch sử văn hóa, kiến trúc tạo hình, gắn liền với những doanh nhân quê hương. Nhiều di tích lịch sử văn hóa được nhà nước công nhận là những di tích cấp quốc gia và được coi là một trong những huyện có nhiều di tích lịch sử văn hóa. Những nhân vật lịch sử đã trở thành các vị thần thành hoàng làng và các sinh hoạt văn hóa lễ hội sinh động cũng thấy nổi nổi lên quá trình lịch sử phát triển của quê hương. Lịch sử văn hóa nhà đã được nhà nước công nhận là những di tích quốc gia và được coi là một trong những huyện có nhiều di tích lích sử văn hóa. Tiêu biểu là ngôi đình Chèm được xây dựng từ thế kỷ IX thờ Lý Ông Trọng, nét đặc sắc nhất là năm 1917 hiệp thợ Vương Văn Định. Các ngôi đình Thượng Cát, Đại Cát thờ các thủ lĩnh của Hai Bà Trưng. Đây là các di tích kiến trúc thời Lê đồ sộ. Đáng chú ý là cụm di tích xã Đại Mỗ với nhiều di tích đươc bảo quản chu đáo.
Nhân dân Từ Liêm có truyền thống sinh hoat như thế nào?
- Gắn liền với những lễ hội tiêu biểu nhất là các làng quê ở phía tây đồng bằng Bắc Bộ:
“Bơi Đăm, rước Giá, hội Thầy
Vui thì vui vậy, chẳng tày giã La”
Những hoạt động văn hóa trong ngày hội đã thể hiện nét đẹp văn hóa, tình thần thương võ sự thông minh và bàn tay tài hoa của những thế hệ truớc.
Nhân dân Từ Liêm đã có truyền thống hiếu học như thế nào?
Nhiều người học giỏi đỗ cao và tiêu biểu nhất vùng Mỗ, La, Canh, Cót. Đồng sĩ tam giáp có hàng chục người chúng tam khôi. Một số người đỗ Thám Hoa. Sau tam khôi có 13 người đỗ hoàng giáp, 108 người đỗ tiến sĩ, 347 người đỗ cử nhân.
- Từ Liêm còn là vùng đất sinh ra nhiều nhân tài lỗi lạc nổi tiếng.
Thời cận đại chống Pháp xâm luợc, nhiều người sáng tác thơ ca để động viên lòng yêu nước.
Nhân dân Từ Liêm có truyền thống yêu nước, chống ngoại xâm.
- Năm 34 sau CN, dưới ách đô hộ nhà Hán chúng đặt thuế nặng nhân dân vô cùng cực khổ. Năm 40 SCN Hai Bà Trưng đứng
Xa xưa hàng năm các làng xã đều mở hội để tưởng nhớ và tỏ lòng biết ơn với các thầy thành hoàng làng có công với quê hương đất nước giáo dục con cháu truyền thống uống nc nhớ nguồn cầu mong cho dân làng luôn có cuộc sòng phồn vinh hạnh phúc đồng thời những lễ hội van hóa như thổi cơm thả chim đánh cờ người vat chọi gà há tuồng chèo trong ngày hội đã thể hiện nét đẹp của đời sống văn hóa tinh thần thượng võ tí thoong minh sáng tạo và bàn tay tài hoa khéo léo của các thế hệ người dân tl
Nhân dân tl có truyền thống hiếu học nhiều người hoc giỏi đỗ cao mà hiểu biết nhất là bốn vùng mỗ la canh cót- tứ danh hương.
TL còn là vùng đất sinh ra rất nhiều tài năng lỗi lạc nổi tiếng về thơ phú sử văn
Nhân daamn từ tl có truyền thống chống giặc ngoại xâm gắn liền với thủ đô.
Năm 34 sau công nguyên dưới ách đo hộ của nhà hán chúng áp đặt chế đọ thuế khá nặng nề nên đời sống nhân dân vô cùng cực khổ. Năm 40 hai chị em trưng trắc và trưng nhị đã đứng lên lãnh đạo nhân dân nổi dậy
Năm 545 nhà lương đem quân sang xâm chiếm lí bí đã lãnh đạo nhân dân xây thành đắp lũy trên cửa sông tô lịch đem quân chặn giặc ở vùng lục đầu nhưng không cản được giặc. Ông lui quân về giữ thành cửa sông tô lịch. Nhân dân nhiều vùng huyện từ liêm đã tham gia hưởng ứng.
Nửa sau thế kỉ 8 cuộc khởi nghĩa chống quân xâm lược nhà đường do anh em phùng hưng lãnh đạo nổ ra. Cuộc kháng chiến kéo dài hàng chục năm. Sau khi xây dựng củng cố lực lượng PH đã chia ra làm 5 cánh quân tiến đánh thành tống bình. TL là nơi tập trung chiêu mộ binh sĩ để chuẩn bị tấn công vào thành , nhiều nghĩa quaaan người Tl đã chiến đấu và hi sinh anh dũng. Khởi nghĩa thắng lợi PH chiếm được thành.
Đến năm 908nhà tóng kéo đại binh sang đánh nước ta. Để chuẩn bị cho cuộc kangs chiến LH ra sức xây dựng lực lượng, vùng từ liêm do một tướng của ông đóng quân tuyển chọn binh sĩ, ở nhiều làng đã có nhiều người gia nhập nghĩa quân cùng lê hoàn kháng chiên chống quân xâm lược nhà tống
Tạm biệt và hẹn gặp lại
Tạm biệt và hẹn gặp lại
Xin chào các bạn nhóm chúng tôi tên là “dragon”
Hưởng ứng lời dạy của Bác:
“Dân ta phải biết sử ta
Cho tường gốc thích nước nhà Việt Nam.”
Hôm nay, chúng em cùng nhau khám phá lịch sử huyện Từ Liêm...
Hưởng ứng lời dạy của Bác:
“Dân ta phải biết sử ta
Cho tường gốc thích nước nhà Việt Nam.”
Hôm nay, chúng em cùng nhau khám phá lịch sử huyện Từ Liêm...
Nào chúng ta cùng khám phá nguồn gốc của huyện Từ Liêm nhé
-Từ Liêm đầu công nguyên thuộc huyện Luy Lâu, sau thuộc quận Giao Chỉ.Đến năm 621 SCN lập huyện Từ Liêm cùng hai huyện Ô Diên và Vũ Lập thuộc Từ Châu.
-Dưới thời Lý, Trần huyện Từ Liêm thuôc quận Vĩnh Khang. Năm Minh Mệnh thứ 12 (1831) nằm 1 trong 3 huyện của phủ Hoài Đức, tỉnh Hà Nội.
Nào chúng ta cùng khám phá nguồn gốc của huyện Từ Liêm
-Từ Liêm đầu công nguyên thuộc huyện Luy Lâu, sau thuộc quận Giao Chỉ.Đến năm 621 SCN lập huyện Từ Liêm cùng hai huyện Ô Diên và Vũ Lập thuộc Từ Châu.
-Dưới thời Lý, Trần huyện Từ Liêm thuôc quận Vĩnh Khang. Năm Minh Mệnh thứ 12 (1831) nằm 1 trong 3 huyện của phủ Hoài Đức, tỉnh Hà Nội.
Các thiếu nữ mặc áo dài đi hóng mát vào buổi chiều hè. Một nét thanh lịch của Hà Nội đầu thập niên 1950.
-Năm 1888, Thực dân Pháp thành lập thành phố Hà Nội, 1 số xã thuộc huyện Từ Liêm trước đây được cắt vào khu ngoại thành Hà NỘi, đến năm 1915 khu vực này đổi thành huyện Hoàn Long – Tỉnh Hà Đông. Sau đó vua Khải định ra đạo dụ (26-12 – 1918) quy định các phủ ngang các huyện thì huyện Từ Liêm bỏ đi chỉ còn phủ Hoài Đức thuộc tỉnh Hà Đông.
-Năm 1888, Thực dân Pháp thành lập thành phố Hà Nội, 1 số xã thuộc huyện Từ Liêm trước đây được cắt vào khu ngoại thành Hà NỘi, đến năm 1915 khu vực này đổi thành huyện Hoàn Long – Tỉnh Hà Đông. Sau đó vua Khải định ra đạo dụ (26-12 – 1918) quy định các phủ ngang các huyện thì huyện Từ Liêm bỏ đi chỉ còn phủ Hoài Đức thuộc tỉnh Hà Đông.
Ngày 19/7/1888, Tổng thống Pháp đã ký sắc lệnh thành lập thành phố Hà Nội.
- Sau cách mạng tháng 8 năm 1945, chính quyền cách mạng chia ra nhiều hành đơn vị hành chính nhỏ sau nhiều lần đổi tên :
Tháng 5-1946, ngoại thành chia thành 5 khu : Lãng Bạc, Đại La, Đống Đa, Đề Thám, Mê Linh.
-Đầu năm 1947, địch chiếm một số vùng ở ngoại thành nên năm khu được tổ chức thành ba quận : khu Lãng Bạc và Đại La xác nhập thành quận 4: Chia Khu Đống Đa, Đề Thám, Mê Linh thành hai quận 5 và 6.
- Sau cách mạng tháng 8 năm 1945, chính quyền cách mạng chia ra nhiều hành đơn vị hành chính nhỏ sau nhiều lần đổi tên :
Tháng 5-1946, ngoại thành chia thành 5 khu : Lãng Bạc, Đại La, Đống Đa, Đề Thám, Mê Linh.
-Đầu năm 1947, địch chiếm một số vùng ở ngoại thành nên năm khu được tổ chức thành ba quận : khu Lãng Bạc và Đại La xác nhập thành quận 4: Chia Khu Đống Đa, Đề Thám, Mê Linh thành hai quận 5 và 6.
Từ tháng 12-1949 đến tháng 10-1953 thông nhất 3 quận IV ,V,Vithanh quận ngoại thành.Dưới quận ngoại thành được chia thành 9 miền có kí hiệu A, B, C, D, E, G, H, I, K.Các miền A, B, C là địa bàn của huyện Từ Liêm.
Từ tháng 12-1949 đến tháng 10-1953 thông nhất 3 quận IV ,V,Vithanh quận ngoại thành.Dưới quận ngoại thành được chia thành 9 miền có kí hiệu A, B, C, D, E, G, H, I, K.Các miền A, B, C là địa bàn của huyện Từ Liêm.
-Từ xưa huyện Từ Liêm đã có đường giao thông đương thủy thuận tiện:
+Phía bắc có sông Hông và hai nhánh sông Tô và sông Nhuệ chạy dọc theo chiều dài huyện.
+Trên tuyến đê sông Hồng có các bến đò cổ: Chèm, Sù, Kẻ qua sông sang xứ Kinh Bắc.
-Từ xưa huyện Từ Liêm đã có đường giao thông đương thủy thuận tiện:
+Phía bắc có sông Hông và hai nhánh sông Tô và sông Nhuệ chạy dọc theo chiều dài huyện.
+Trên tuyến đê sông Hồng có các bến đò cổ: Chèm, Sù, Kẻ qua sông sang xứ Kinh Bắc.
Thời Trần, sông Nhuệ chảy xuôi có đoạn nối với các sông Tô Lịch, Đáy, ...
Đường bộ có:
-Chạy giữa các huyện:
+Quốc lộ 11
+Quốc lộ 70
-Chạy giữa các tỉnh:
+Đường 23
+Đường 65
+Đường 69
Đường bộ có:
-Chạy giữa các huyện:
+Quốc lộ 11
+Quốc lộ 70
-Chạy giữa các tỉnh:
+Đường 23
+Đường 65
+Đường 69
-Nay có nhiều đường giao thông huyết mạch:
+Đường Phạm Hùng-Phạm Văn Đồng...
+Cầu Thăng Long đi sân bay quốc tế Nội Bài.
-Nay có nhiều đường giao thông huyết mạch:
+Đường Phạm Hùng-Phạm Văn Đồng...
+Cầu Thăng Long đi sân bay quốc tế Nội Bài.
-Từ năm 1010,Từ Liêm là cửa ngõ chính cua thủ đô.
-Do đặc điểm vị trí mà Từ Liêm trở thành địa bàn có ý nghĩa cơ động và chiến lược về mặt quân sự.Miền đất này vừa là vành đai, áo giáp bảo vệ thủ đô, vừa là cửa ngõ miền trung du, trung tâm quân sướn Tây, căn cứ địa Việt Bắc xuống đồng bằng Bắc bộ, tiến vào thành phố.Với vị trí như vậy Từ Liêm vừa xây dựng căn cứ, phòng thủ vừa tiến công kẻ thù.
-Từ năm 1010,Từ Liêm là cửa ngõ chính cua thủ đô.
-Do đặc điểm vị trí mà Từ Liêm trở thành địa bàn có ý nghĩa cơ động và chiến lược về mặt quân sự.Miền đất này vừa là vành đai, áo giáp bảo vệ thủ đô, vừa là cửa ngõ miền trung du, trung tâm quân sướn Tây, căn cứ địa Việt Bắc xuống đồng bằng Bắc bộ, tiến vào thành phố.Với vị trí như vậy Từ Liêm vừa xây dựng căn cứ, phòng thủ vừa tiến công kẻ thù.
-Từ Liêm nằm trong vùng đồng bằng phì nhiêu của các dòng sông Hồng, sông Nhuệ nên nơi đây là một trong những địa bàn sinh tụ của cư dân Văn Lang thời dựng nước.
Đồng bằng châu thổ sông hình thành ở vùng cửa sông
Qua khai quật các di chỉ khảo cổ học ở thôn Ngọc Long cho thấy những di chỉ này thuộc văn hóa Phùng Nguyên-đầu thời kì đồng thau cách ngày nay khoảng 4000-3500 năm trươc Công nguyên.
Qua khai quật các di chỉ khảo cổ học ở thôn Ngọc Long cho thấy những di chỉ này thuộc văn hóa Phùng Nguyên-đầu thời kì đồng thau cách ngày nay khoảng 4000-3500 năm trươc Công nguyên.
Các hiện vật, công cụ sản xuất có niên đại hàng ngàn năm của cư dân thời tiền sử sinh sống ở thung lũng sông Tang.
Theo những nghiên cứu của các nhà khảo cổ học .
-Kết quả khai quật, nghiên cứu các di chỉ khảo cổ trên địa bàn huyện do Viện Khảo cổ học việt Nam tiến hành trong những năm 1968-1969 cho thấy:
+Tại di chỉ Vinh Quang trong tầng văn hóa lớp trên đã thấy nhiều dụng cụ như lưỡi dìu chiến, búa chiến, mũi tên...
+Những đồng tiền bán lạng Lữ Hậu (178 – 180 TCN. .
-Kết quả khai quật, nghiên cứu các di chỉ khảo cổ trên địa bàn huyện do Viện Khảo cổ học việt Nam tiến hành trong những năm 1968-1969 cho thấy:
+Tại di chỉ Vinh Quang trong tầng văn hóa lớp trên đã thấy nhiều dụng cụ như lưỡi dìu chiến, búa chiến, mũi tên...
+Những đồng tiền bán lạng Lữ Hậu (178 – 180 TCN. .
- Ở tầng văn hóa lớp dưới đã thấy nhiều công cụ sản xuất đồ trang sức, tiền ốc, các loại đồ gốm có màu sắc, hoa văn trang trí phong phú và 11 sọ người niên đại các – bon phóng xạ di chỉ là 1095 năm trước Công Nguyên .
- Ở tầng văn hóa lớp dưới đã thấy nhiều công cụ sản xuất đồ trang sức, tiền ốc, các loại đồ gốm có màu sắc, hoa văn trang trí phong phú và 11 sọ người niên đại các – bon phóng xạ di chỉ là 1095 năm trước Công Nguyên .
gốm trang trí bằng hoa văn in mép sò
Bình gốm bằng sứ dù đã bị vỡ nhưng vẫn còn nguyên giá trị văn hóa
Kỹ thuật chế tácgốm rất tinh xảo
Tượng hình người bằng đá
- Ngôi mộ cổ khai quật ở khu vực Cầu Giếng có niên đại khoảng 200 năm TCN.
- Những viên gạch được tráng men nâu mỏng xác định từ thế kỷ thứ l đến thế kỷ thứ III, cách đây khoảng 2000 năm.
-Nhiều ngôi mộ cổ được phát hiện dưới lòng đất làng Chèn, Vẽ, đó là khu mộ Hán có niên đại từ thế kỷ I đến thế kỷ VI SCN,thời nước ta thuộc đông Hán.
- Ngôi mộ cổ khai quật ở khu vực Cầu Giếng có niên đại khoảng 200 năm TCN.
- Những viên gạch được tráng men nâu mỏng xác định từ thế kỷ thứ l đến thế kỷ thứ III, cách đây khoảng 2000 năm.
-Nhiều ngôi mộ cổ được phát hiện dưới lòng đất làng Chèn, Vẽ, đó là khu mộ Hán có niên đại từ thế kỷ I đến thế kỷ VI SCN,thời nước ta thuộc đông Hán.
Ngôi mộ cổ đang được khai quật. Một ngôi mộ Đông Hán
Di vật trong lăng mộ gồm: Kiếm sắt, kiếm đồng, nhẫn vàng bạc, bình đồng tiền vò, cốc chén và cả mồ hình nhà, giếng nước, bếp lò bằng gạch nung. Như vậy huyện Từ Liêm thời ấy đã có người sinh sống.
Ngay từ buổi đầu lịch sử của dân tộc, cư dân nơi đây chung lưng đấu cật, cùng nhau khai phá đất đai, chống chọi với thiên nhiên, lập xóm làng sống sung túc.
Di vật trong lăng mộ gồm: Kiếm sắt, kiếm đồng, nhẫn vàng bạc, bình đồng tiền vò, cốc chén và cả mồ hình nhà, giếng nước, bếp lò bằng gạch nung. Như vậy huyện Từ Liêm thời ấy đã có người sinh sống.
Ngay từ buổi đầu lịch sử của dân tộc, cư dân nơi đây chung lưng đấu cật, cùng nhau khai phá đất đai, chống chọi với thiên nhiên, lập xóm làng sống sung túc.
- Nghề nghiệp chính của họ là sản xuất nông nghiệp, cấy lúa, trồng màu, nuôi tằm, chăn nuôi ...
- Các di vật cho thấy lúc đó đã có một bộ phận cư dân sinh sống, trở thành nước Văn Lang của các vua Hùng chủ nhân của nền văn minh sông Hồng rực rỡ.
- Nghề nghiệp chính của họ là sản xuất nông nghiệp, cấy lúa, trồng màu, nuôi tằm, chăn nuôi ...
- Các di vật cho thấy lúc đó đã có một bộ phận cư dân sinh sống, trở thành nước Văn Lang của các vua Hùng chủ nhân của nền văn minh sông Hồng rực rỡ.
Bây giờ chúng ta cùng khám phá những truyền thống lịch sử trước năm 1930 của cư dân nơi đây nhé!
- Từ Liêm xưa và nay luôn lầ vùng đất gắn bó chặt chẽ với Thăng Long – Hà Nội. Bên cạnh cư dân bản địa từ xa xưa, có cư dân từ các địa phương, qua nhiều thời đại đến sinh sống, bảo vệ lẫn nhau. Ở địa bàn tiếp giáp với kinh kì, chảy qua hàng ngàn năm lao động với đôi bàn tay khéo léo và sáng tạo, người dân Từ Liêm đã sản xuất ra những sản phẩm nông nghiệp, tiểu thủ công nổi tiếng :
+ Cốm Vòng, gạo tám Mễ Trì
Tương bần, húng Láng còn gì ngon hơn.
- Nói đến rau, quả không thể không nhắc đến : su hào, bắp cải, cà chua,dưa hấu Tây Tựu ; ngoài cam Canh đã được ghi nhận vào sử sách ngàn xưa, nay thêm bưởi Phú Diễn, Minh Khai, hồng Xiêm Xuân Đỉnh làm giàu cho cây trái Thủ đô.
Với truyền thống lao động cần cù, đôi tay khéo léo người dân Tù Liêm còn chế biến ra các món ăn ngon như giò Chèm, nem Vẽ, bánh đúc làng Kẻ, bánh tẻ làng Diễn, bánh trung thu…..
Về tiểu thủ công nghiệp, nghề dệt thêu ren đạt kĩ nghệ tinh xảo ở Miêu Nha, Đại Mỗ ; làng Vẽ, làng Dộc Cơ thạo nghề hàng nan với các sản phẩm : chè quang song, đan mũ nan, quạt lá đề, đĩa mây; liềm seo giấy, đan bồ ở Ngọc Trục, ép dầu ở Đống Ba, làm thừng, đậu phụ ở Đại Cát.
Khi thực dân Pháp tiến hành cuộc khai thác thuộc địa lần thứ nhất (cuối thế kỉ XIX), Hà Nội trở thành trung tâm kinh tế, chính trị, văn hóa của cả nước.Từ xưa nghề rèn ở Hòe Thị đã kéo ra phố Lò Rèn và các cửa ô để sản xuất dao, kéo, lưỡi liềm …phục vụ sản xuất và đời sống nhân dân.về sau sản xuất bu lông làm cầu Long Biên và đường xe lửa Hà Nội-Lang Sơn.Lang Thị Cấm, ngọc Mạnh có nghề tráng gương , thơ kkim hoàn làm vàng bạc và các đồ trang sức.
-Nghề may Cổ Nhuế tuy mới xuất hiện đầu thế kỉ XX nhưng phát triển nhanh, trở thành một làng chuyên may quần áo binh lính.
-sự tác động của quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa vào Từ Liêm những năm cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX đã làm thay đổi cơ cấu xã hội, nhiều ngành nghề mới xuất hiện, càng gắn liền Tư Liêm với Hà Nội của thực dân Pháp ở Đông Dương.
Tiếp tục, chúng ta sẽ tìm hiểu Từ Liêm có nhiều di tích –lịch sử.
Từ Liêm di tích lịch sử văn hóa, kiến trúc tạo hình, gắn liền với những doanh nhân quê hương. Nhiều di tích lịch sử văn hóa được nhà nước công nhận là những di tích cấp quốc gia và được coi là một trong những huyện có nhiều di tích lịch sử văn hóa. Những nhân vật lịch sử đã trở thành các vị thần thành hoàng làng và các sinh hoạt văn hóa lễ hội sinh động cũng thấy nổi nổi lên quá trình lịch sử phát triển của quê hương. Lịch sử văn hóa nhà đã được nhà nước công nhận là những di tích quốc gia và được coi là một trong những huyện có nhiều di tích lích sử văn hóa. Tiêu biểu là ngôi đình Chèm được xây dựng từ thế kỷ IX thờ Lý Ông Trọng, nét đặc sắc nhất là năm 1917 hiệp thợ Vương Văn Định. Các ngôi đình Thượng Cát, Đại Cát thờ các thủ lĩnh của Hai Bà Trưng. Đây là các di tích kiến trúc thời Lê đồ sộ. Đáng chú ý là cụm di tích xã Đại Mỗ với nhiều di tích đươc bảo quản chu đáo.
Nhân dân Từ Liêm có truyền thống sinh hoat như thế nào?
- Gắn liền với những lễ hội tiêu biểu nhất là các làng quê ở phía tây đồng bằng Bắc Bộ:
“Bơi Đăm, rước Giá, hội Thầy
Vui thì vui vậy, chẳng tày giã La”
Những hoạt động văn hóa trong ngày hội đã thể hiện nét đẹp văn hóa, tình thần thương võ sự thông minh và bàn tay tài hoa của những thế hệ truớc.
Nhân dân Từ Liêm đã có truyền thống hiếu học như thế nào?
Nhiều người học giỏi đỗ cao và tiêu biểu nhất vùng Mỗ, La, Canh, Cót. Đồng sĩ tam giáp có hàng chục người chúng tam khôi. Một số người đỗ Thám Hoa. Sau tam khôi có 13 người đỗ hoàng giáp, 108 người đỗ tiến sĩ, 347 người đỗ cử nhân.
- Từ Liêm còn là vùng đất sinh ra nhiều nhân tài lỗi lạc nổi tiếng.
Thời cận đại chống Pháp xâm luợc, nhiều người sáng tác thơ ca để động viên lòng yêu nước.
Nhân dân Từ Liêm có truyền thống yêu nước, chống ngoại xâm.
- Năm 34 sau CN, dưới ách đô hộ nhà Hán chúng đặt thuế nặng nhân dân vô cùng cực khổ. Năm 40 SCN Hai Bà Trưng đứng
Xa xưa hàng năm các làng xã đều mở hội để tưởng nhớ và tỏ lòng biết ơn với các thầy thành hoàng làng có công với quê hương đất nước giáo dục con cháu truyền thống uống nc nhớ nguồn cầu mong cho dân làng luôn có cuộc sòng phồn vinh hạnh phúc đồng thời những lễ hội van hóa như thổi cơm thả chim đánh cờ người vat chọi gà há tuồng chèo trong ngày hội đã thể hiện nét đẹp của đời sống văn hóa tinh thần thượng võ tí thoong minh sáng tạo và bàn tay tài hoa khéo léo của các thế hệ người dân tl
Nhân dân tl có truyền thống hiếu học nhiều người hoc giỏi đỗ cao mà hiểu biết nhất là bốn vùng mỗ la canh cót- tứ danh hương.
TL còn là vùng đất sinh ra rất nhiều tài năng lỗi lạc nổi tiếng về thơ phú sử văn
Nhân daamn từ tl có truyền thống chống giặc ngoại xâm gắn liền với thủ đô.
Năm 34 sau công nguyên dưới ách đo hộ của nhà hán chúng áp đặt chế đọ thuế khá nặng nề nên đời sống nhân dân vô cùng cực khổ. Năm 40 hai chị em trưng trắc và trưng nhị đã đứng lên lãnh đạo nhân dân nổi dậy
Năm 545 nhà lương đem quân sang xâm chiếm lí bí đã lãnh đạo nhân dân xây thành đắp lũy trên cửa sông tô lịch đem quân chặn giặc ở vùng lục đầu nhưng không cản được giặc. Ông lui quân về giữ thành cửa sông tô lịch. Nhân dân nhiều vùng huyện từ liêm đã tham gia hưởng ứng.
Nửa sau thế kỉ 8 cuộc khởi nghĩa chống quân xâm lược nhà đường do anh em phùng hưng lãnh đạo nổ ra. Cuộc kháng chiến kéo dài hàng chục năm. Sau khi xây dựng củng cố lực lượng PH đã chia ra làm 5 cánh quân tiến đánh thành tống bình. TL là nơi tập trung chiêu mộ binh sĩ để chuẩn bị tấn công vào thành , nhiều nghĩa quaaan người Tl đã chiến đấu và hi sinh anh dũng. Khởi nghĩa thắng lợi PH chiếm được thành.
Đến năm 908nhà tóng kéo đại binh sang đánh nước ta. Để chuẩn bị cho cuộc kangs chiến LH ra sức xây dựng lực lượng, vùng từ liêm do một tướng của ông đóng quân tuyển chọn binh sĩ, ở nhiều làng đã có nhiều người gia nhập nghĩa quân cùng lê hoàn kháng chiên chống quân xâm lược nhà tống
Tạm biệt và hẹn gặp lại
Tạm biệt và hẹn gặp lại
* Một số tài liệu cũ có thể bị lỗi font khi hiển thị do dùng bộ mã không phải Unikey ...
Người chia sẻ: Hoàng Phương Thảo
Dung lượng: |
Lượt tài: 1
Loại file:
Nguồn : Chưa rõ
(Tài liệu chưa được thẩm định)