Lịch sử - Các dân tộc Sơn La.

Chia sẻ bởi Cầm Thanh Tùng | Ngày 10/10/2018 | 34

Chia sẻ tài liệu: Lịch sử - Các dân tộc Sơn La. thuộc Tập đọc 5

Nội dung tài liệu:

LỊCH SỬ - CÁC DÂN TỘC SƠN LA

Lịch sử phát triển của tỉnh Sơn La
Thuở Hùng Vương dựng nước, Sơn La thuộc bộ Tân Hưng là 1 trong 15 bộ của nước Văn Lang. Riêng tên “ Sơn La ” xuất hiện đầu tiên vào giữa thế kỷ XVIII dưới thời Lê - Trịnh. 
 
Tháng 01/1888 thực dân Pháp đánh chiếm vùng Tây Bắc. Ngày 10/10/1895 thực dân Pháp chuyển từ chế độ quân quản sang chế độ cai trị hàng chính, thành lập tỉnh lấy tên là Vạn Bú, sau đổi thành Sơn La và chuyển tỉnh lỵ từ Pá Giang thuộc tổng Hiếu Trai về Sơn La. Tên tỉnh Sơn La chính thức có từ đó. Cũng từ đây nhân dân các dân tộc Sơn La sống trong kiếp 1 cổ 2 tròng kéo dài 50 năm ( 1895-1945 ).   
Ngày 03/2/1930, Đảng cộng sản Việt Nam ra đời và từ nhà ngục Sơn La  ánh sáng cách mạng đã chỉ cho nhân dân các dân tộc Sơn La thấy rõ con đường giải phóng dân tộc là phải đứng lên làm cách mạng dưới sự lãnh đạo của Đảng.   
Ngày 26/8/1945 nhân dân các dân tộc Sơn La đã đứng lên giành chính quyền thắng lợi, cùng với cả nước bước vào kỷ nguyên độc lập. 
 

Trải qua 9 năm kháng chiến ( 1946 - 1954 ) quân và dân các dân tộc Sơn La cùng với cả nước bước vào cuộc kháng chiến trường kỳ chống thực dân Pháp. Ngày 01/12/1952 chiến dịch Tây Bắc kết thúc thắng lợi, tỉnh Sơn La cơ bản được giải phóng. Từ đây nhân dân các dân tộc Sơn La bắt tay vào công cuộc khôi phục và phát triển kinh tế - xã hội, tạo ra thế và lực mới góp phần phục vụ chiến dịch Điện Biên Phủ toàn thắng, giải phòng hoàn toàn Miền Bắc, cùng với nhân dân miền bắc bước vào thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội, tiếp tục cùng với miền nam tiếp tục đấu tranh hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, tiến tới thống nhất đất nước. 
Đất nước thống nhất, dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh, nhân dân các dân tộc Sơn La tiếp tục phát huy chủ nghĩa anh hùng cách mạng, tự lực, tự cường ra sức khôi phục và phát triển kinh tế - xã hội. Năm 1986, Đảng ta khởi xướng công cuộc đổi mới, tiềm năng, thế mạnh của Sơn La được phát huy mạnh mẽ và diện mạo Sơn la ngày càng thay đổi.
12 dân tộc anh em
Dân tộc Hoa


Dân tộc Hoa còn gọi là Hán, gồm những nhóm khác biệt nhau nhất định về tiếng nói, tên gọi, lịch sử di cư. Đồng bào Hoa ở tỉnh ta hiện nay không nhiều, cư trú chủ yếu ở các thị trấn, thị xã, làm nghề buôn bán nhỏ, mở hàng ăn.Trong gia đình người Hoa, chồng là chủ hộ; cha mẹ là người quyết định hôn nhân cho con cái. Người Hoa thích “Sơn ca” (san của), ca kịch; ngày tết thường biểu diễn múa sư tử, múa quyền thuật và nhiều phong tục dân gian đặc sắc.





Dân tộc Lào


Dân tộc Lào ở Sơn La thuộc nhóm Lào cạn, đồng bào cư trú chủ yếu ở huyện Sông Mã, Thuận Châu. Tiếng Lào thuộc ngôn ngữ Tày- Thái, người Lào thờ tổ tiên, chịu ảnh hưởng của đạo phật. 
Phụ nữ Lào nổi tiếng khéo tay dệt vải. Họ mặc váy đen quấn cao đến ngực, gấu váy thêu hoa văn rực rỡ; áo ngắn bó lấy thân với hàng khuy bạc; tay ưa đeo nhiều vòng.Trong vốn văn nghệ dân gian, người Lào có điệu múa lăm vông và các làn điệu dân ca nổi tiếng.





Dân tộc Kháng


Dân tộc Kháng thuộc nhóm người dân tộc thiểu số ở Sơn La, cư trú ở các huyệnThuận Châu, Quỳnh Nhai, Mường La. Dân tộc Kháng còn có tên gọi khác là: Xá Khao, Xá Xúa, Xá Đôn, Xá Dâng, Xá Hộc, Xá ái, Xá Bung. Tiếng Kháng thuộc nhóm ngôn ngữ Môn- Khơ mer. Người Kháng canh tác theo lối làm nương rẫy chọc lỗ bỏ hạt, trồng lúa nếp. Trang phục phụ nữ Kháng giống phụ nữ Thái, nhuộm răng đen, ăn trầu. Người Kháng ở nhà sàn có 3 gian, 2 trái, mái mai rùa. Theo phong tục, người chết được chôn cất rất chu đáo, trên mộ có nhà mồ. Người Kháng quan niệm mỗi người có 5 hồn. Bố mẹ chết được thờ trên tấm phên ở góc nhà, đó là ma nhà. Hàng năm dân bản cúng ma trời và ma đất 1 lần.





Dân tộc La Ha


Ở nước ta, dân tộc La Ha cư trú tại Sơn La và Lào Cai. Đồng bào có
* Một số tài liệu cũ có thể bị lỗi font khi hiển thị do dùng bộ mã không phải Unikey ...

Người chia sẻ: Cầm Thanh Tùng
Dung lượng: 339,78KB| Lượt tài: 0
Loại file: rar
Nguồn : Chưa rõ
(Tài liệu chưa được thẩm định)