Kỹ thuật sản xuất giôgs và nuôi cá
Chia sẻ bởi Phan Ut |
Ngày 23/10/2018 |
48
Chia sẻ tài liệu: Kỹ thuật sản xuất giôgs và nuôi cá thuộc Bài giảng khác
Nội dung tài liệu:
Kỹ thuật sản xuất giống và nuôi cá rô đồng thương phẩm
(Anabas testudineus Bloch) Theo sách NXB Nông nghiệp
I. Một số đặc điểm chính của cá rô đồng (CRĐ):
CRĐ là loại thịt béo, thơm, dai, ngon, có giá trị cao, tiêu thụ khá mạnh cả ở nông thôn, thành phố. CRĐ lớn nhất phát hiện 300g/con, cỡ ca tiêu thụ rộng rãi 7-15 con/kg.
- CRĐ sống ở nước ngọt, chúng thường sinh sống được ở các loại hình mặt nước: ruộng lúa, ao mương, lung bào, đìa, sông rạch... Trên thế giới CRĐ phân bố ở Nam Trung Quốc, Việt Nam, Lào, Campuchia, Thái Lan, Miến Điện, Ấn Độ, Philippines, Châu Phi và các quần đảo giữa Ấn Độ và Chấu Úc.
- CRĐ sống rất khỏe, có thể chịu đựng được điều kiện thiếu nước trong một thời gian khá lâu do chúng có cơ quan hô hấp trên mang, thở khí trời. CRĐ có thể ra khỏi nước 6 ngày mà không chết (nếu nang phụ không bị khô), dựa vào đặc điểm này có thể vận chuyển CRĐ tươi sống đi tiêu thụ ở các nơi.
- CRĐ thích nghi với khí hậu nhiệt đới,lúc khô hạn cá có thể sống chui rúc trong bùn mấy tháng và có thể ra khỏi mặt nước đi một quãng tương đối xa để tìm nơi sinh sống, có thể lên đất khô tìm mồi ăn.
- CRĐ nuôi dưỡng bằng giống nhân tạo, cho ăn đủ chăm sóc tốt, cá giảm hẳng tính hoang dã, gần như không đi. Có nơi nuôi 2.000 (m2) được 4,5 tấn CRĐ, không có rào, cá cũng không đi, bán giá bình quân 30.000đ/kg (20.000 - 45.000 đ/kg) lời 70.000.000 đ/vụ.
- CRD (là loài cá ăn tạp nnghiêng về động vật do cấu tạo tiêu hóa ngắn so với chiều dài của thân cá 0,76 - 1,06. Cá có răng chắc, sắc, xếp thành dãy trên hai hàm, trên 2 hàm còn có răng nhỏ nhọn: hàm răng ở giữa to hơn hai bên và răng có trên xương lá mía. CRĐ có thể ăn các loài tép, tôm, cá, động vật không xương sống, côn trùng bay trong không khí, lúa, gạo, hạt cỏ, phân động vật,... CRĐ có thể tấn công các động vật nhỏ hơn chúng để ăn, nên được xếp loại cá dữ nhưng mức độ dữ có giới hạn.
- Các giai đoạn phát triển của CRĐ :
* Trứng sau khi thụ tinh 10 phút, noãn hoàng tách khỏi trứng.
* 12 giờ 30 phút, hình thành đốt cơ, phôi cử động liên tục.
* 17 giờ 20 phút, cá nở, cơ thể có nhiều sắc tố, noãn hoàng to, ống tiêu hóa thẳng, có đốt cơ.
* 60 giờ sau khi nở cá ăn được phiêu sinh động vật (moina) và thức nhân tạo.
* Ngày thứ 8 trở đi cá rượt đuổi những loài nhỏ hơn để ăn thịt.
Tính ăn động vật của cá thể hiện 8-10 ngày tuổi. Do đó ương CRĐ muốn có tỷ lệ sống cao phải cung cấp thức ăn đầy đủ, đặc biệt là thức ăn phải ở dạng lơ lửng trong nước vì cá không có tập tính sục đáy bể tìm thức ăn và cá giống khi ương nuôi phải hạn chế sự chênh lệch độ lớn về kích thước nhằm tránh cá ăn thịt lẫn nhau.
+ Ngày 10 cá dài 0,57 - 0,76cm.
+ Ngày 17 cá dài 0,96 - 1,2cm.
+ Ngày 30 cá dài 1,9 - 2,43cm.
+ Đến 20 ngày tuổi, CRĐ đã ngoi lên khỏi mặt nước đớp khí trời, điều đó chứng tỏ cơ quan hô hấp trên mang đã hình thành. Tốc độ tăng trưởng của CRĐ phụ thuộc vào thành phần và số lượng thức ăn cung c6áp, bón phân kết hợp cho ăn tăng trưởng của cá cao nhất.
- Sinh sản của CRĐ:
+ Ở điều kiện tự nhiên, mùa mưa bắt đầu là cá sinh sản, tập trung tháng 5-7 đến tháng 9 thoái hóa hoàn toàn. Trong sản xuất giống nhân tạo, chăm sóc cá cha mẹ tốt thời gian dài hơn 3 tháng. Cá đực thành thục sớm hơn cá cái, cuối vụ đực cái càng thoái hóa.
+ Sức sinh sản tuyêt đối: cá tự nhiên 10 - 11cm số trứng 8.656 trứng ± 1098, cá dài 18 - 19cm số trứng 42.847 trứng ± 972. Cá nuôi vỗ 12cm, số trứng 29.066 trứng khi đó ở tự nhiên có 16.559 trứng.
+ Đường kính của trứng 0,4-0,8mm, khi cá đã thụ tinh trứng trương lên 0,85 - 1,1mm.
+ CRĐ nuôi vỗ tái phát dục sau 3-4 tuần.
VIETLINH PTE. Official Homepage
Kinh nghiệm sản xuất giống cá rô đồng
Chọn cá bố mẹ: Nên chọn cỡ cá 30-70g hoặc lớn hơn, có cơ thể hoàn chỉnh, không bị dị tật, dị hình. Cá có nguồn gốc từ tự nhiên hoặc từ nguồn cá nuôi trong ao.
Cá đực thường nhỏ hơn cá cái và có thân dài, cá cái có bụng lớn và có tỷ lệ chiều dài thân trên chiều cao lớn hơn cá đực.
Nuôi vỗ cá bố mẹ: Ao nuôi vỗ: Nên dùng ao có diện tích 200-500m2, mức nước sau 0,8-1m.
Mật độ nuôi vỗ cá và tỷ lệ đực cái: Cứ 1 m2 ao nuôi vỗ 4-6 con cá bố mẹ. Ghép 2 cá đực với 1 cá cái.
Mùa vụ: Bắt đầu nuôi vỗ từ tháng 12 năm trước.
Cho cá ăn và quản lý ao: Cứ 10kg cá bố mẹ mỗi ngày cho ăn 0,2kg thức ăn hỗn hợp (gồm 25% cám, 25% ruốc và 50% bột cá). Thường xuyên quan sát màu nước và hoạt động của cá. Sau khi nuôi vỗ cá bố mẹ 2 tháng có thể chọn cá cho sinh sản.
Cho cá đẻ nhân tạo: Bể cho cá đẻ: Có thể sử dụng bể xi măng, bể nhựa, lu sành, bể bạt... Tùy số lượng cá cho đẻ nhiều hay ít mà chọn bể có diện tích 10 -20m2.
Giữ mức nước trong bể từ 0.4-0,8m.
Chọn cá bố mẹ thành thục: Chọn những cá cái có bụng to, mềm và những con cá đực khỏe mạnh, linh hoạt để cho đẻ.
Tiêm kích dục tố: Tiêm cho 1 kg cá cái một trong hai loại kích dục tố với liều lượng như sau: 1 ống LRHa 0,2mg + 2 viên DOM (hoặc Motilium) hoặc 2.000-2.500 đơn vị HCG. Cũng tiêm cho cá đực 1 trong 2 loại thuốc trên nhưng với liều lượng chỉ bằng 1/2 của cá cái. Tiêm thuốc vào gốc vây của ngực cá. Sau khi tiêm kích dục tố thả ghép 2 cá đực với một cá cái vào bể đẻ.
Cá bắt đầu đẻ sau khi tiêm kích dực tố 6-8 giờ. Thời gian đẻ kéo dài 2-3 giờ. Vào chính vụ (tháng 5-7) tỷ lệ cá đẻ đạt 96-100%, tỷ lệ thụ tinh đạt 82-93%, tỷ lệ nở 87-98%.
Ấp trứng: Sau khi cá đẻ, trứng được vớt nhẹ nhàng chuyển vào chậu nhựa để ấp. Chậu nhựa có đường kính 50cm, mức nước trong chậu là 15 cm. Mỗi chậu có thể ấp được 50.000 trứng mà không cần phải sục khí.
Sau khi trứng nở thành cá bột được 2-3 ngày tuổi thì chuyển cá bột ra ương ngoài ao.
Ương cá bột thành cá giống: Diện tích ao ương: 500-1000m2
Chuẩn bị ao ương: Tháo cạn ao và phơi đáy. Cứ 100m2 ao ương bón 10kg vôi để diệt tạp, trừ mầm bệnh và bón lót 25-30kg phân chuồng.
Lấy nước vào ao qua lưới lọc trước khi thả cá bột 1-2 ngày. Cá bột được ương trong ao với mật độ 400-600 con/m2.
Cho cá ăn: Trong 10 ngày đầu tiên: Cứ 100.000 cá bột mỗi ngày cho ăn 5 lòng đỏ trứng vịt bóp nhuyễn và 400g bột đậu nành rang xay nhuyễn. Hòa thức ăn với nước tạt cho cá ăn 2 lần/ngày.
Từ ngày thứ 11 đến ngày thứ 20: Cứ 100.000 cá bột mỗi ngày cho ăn 300g bột đậu nành, 300g cám và 300g bột cá. Thức ăn được trộn đều và rải khắp ao cho cá ăn 2 lần/ngày.
Từ ngày thứ 21 đến ngày thứ 30: Mỗi ngày cho ăn 600g cám và 600g bột cá/100.000 cá bột. Trộn đều và rải cho cá ăn.
Từ ngày 31 đến ngày thứ 40, mỗi ngày cho ăn 1,5-2kg cám và bột cá/100.000 cá bột. Thành phần thức ăn là 50-70% cám và 30-50% bột cá.
Kết quả: Sau 50-60 ngày ương, cá đạt trọng lượng trung bình 1,5-2g, tỷ lệ sống đạt 20%.
Đoàn Giang (Bản tin Nông nghiệp - Vĩnh Long)
(Anabas testudineus Bloch) Theo sách NXB Nông nghiệp
I. Một số đặc điểm chính của cá rô đồng (CRĐ):
CRĐ là loại thịt béo, thơm, dai, ngon, có giá trị cao, tiêu thụ khá mạnh cả ở nông thôn, thành phố. CRĐ lớn nhất phát hiện 300g/con, cỡ ca tiêu thụ rộng rãi 7-15 con/kg.
- CRĐ sống ở nước ngọt, chúng thường sinh sống được ở các loại hình mặt nước: ruộng lúa, ao mương, lung bào, đìa, sông rạch... Trên thế giới CRĐ phân bố ở Nam Trung Quốc, Việt Nam, Lào, Campuchia, Thái Lan, Miến Điện, Ấn Độ, Philippines, Châu Phi và các quần đảo giữa Ấn Độ và Chấu Úc.
- CRĐ sống rất khỏe, có thể chịu đựng được điều kiện thiếu nước trong một thời gian khá lâu do chúng có cơ quan hô hấp trên mang, thở khí trời. CRĐ có thể ra khỏi nước 6 ngày mà không chết (nếu nang phụ không bị khô), dựa vào đặc điểm này có thể vận chuyển CRĐ tươi sống đi tiêu thụ ở các nơi.
- CRĐ thích nghi với khí hậu nhiệt đới,lúc khô hạn cá có thể sống chui rúc trong bùn mấy tháng và có thể ra khỏi mặt nước đi một quãng tương đối xa để tìm nơi sinh sống, có thể lên đất khô tìm mồi ăn.
- CRĐ nuôi dưỡng bằng giống nhân tạo, cho ăn đủ chăm sóc tốt, cá giảm hẳng tính hoang dã, gần như không đi. Có nơi nuôi 2.000 (m2) được 4,5 tấn CRĐ, không có rào, cá cũng không đi, bán giá bình quân 30.000đ/kg (20.000 - 45.000 đ/kg) lời 70.000.000 đ/vụ.
- CRD (là loài cá ăn tạp nnghiêng về động vật do cấu tạo tiêu hóa ngắn so với chiều dài của thân cá 0,76 - 1,06. Cá có răng chắc, sắc, xếp thành dãy trên hai hàm, trên 2 hàm còn có răng nhỏ nhọn: hàm răng ở giữa to hơn hai bên và răng có trên xương lá mía. CRĐ có thể ăn các loài tép, tôm, cá, động vật không xương sống, côn trùng bay trong không khí, lúa, gạo, hạt cỏ, phân động vật,... CRĐ có thể tấn công các động vật nhỏ hơn chúng để ăn, nên được xếp loại cá dữ nhưng mức độ dữ có giới hạn.
- Các giai đoạn phát triển của CRĐ :
* Trứng sau khi thụ tinh 10 phút, noãn hoàng tách khỏi trứng.
* 12 giờ 30 phút, hình thành đốt cơ, phôi cử động liên tục.
* 17 giờ 20 phút, cá nở, cơ thể có nhiều sắc tố, noãn hoàng to, ống tiêu hóa thẳng, có đốt cơ.
* 60 giờ sau khi nở cá ăn được phiêu sinh động vật (moina) và thức nhân tạo.
* Ngày thứ 8 trở đi cá rượt đuổi những loài nhỏ hơn để ăn thịt.
Tính ăn động vật của cá thể hiện 8-10 ngày tuổi. Do đó ương CRĐ muốn có tỷ lệ sống cao phải cung cấp thức ăn đầy đủ, đặc biệt là thức ăn phải ở dạng lơ lửng trong nước vì cá không có tập tính sục đáy bể tìm thức ăn và cá giống khi ương nuôi phải hạn chế sự chênh lệch độ lớn về kích thước nhằm tránh cá ăn thịt lẫn nhau.
+ Ngày 10 cá dài 0,57 - 0,76cm.
+ Ngày 17 cá dài 0,96 - 1,2cm.
+ Ngày 30 cá dài 1,9 - 2,43cm.
+ Đến 20 ngày tuổi, CRĐ đã ngoi lên khỏi mặt nước đớp khí trời, điều đó chứng tỏ cơ quan hô hấp trên mang đã hình thành. Tốc độ tăng trưởng của CRĐ phụ thuộc vào thành phần và số lượng thức ăn cung c6áp, bón phân kết hợp cho ăn tăng trưởng của cá cao nhất.
- Sinh sản của CRĐ:
+ Ở điều kiện tự nhiên, mùa mưa bắt đầu là cá sinh sản, tập trung tháng 5-7 đến tháng 9 thoái hóa hoàn toàn. Trong sản xuất giống nhân tạo, chăm sóc cá cha mẹ tốt thời gian dài hơn 3 tháng. Cá đực thành thục sớm hơn cá cái, cuối vụ đực cái càng thoái hóa.
+ Sức sinh sản tuyêt đối: cá tự nhiên 10 - 11cm số trứng 8.656 trứng ± 1098, cá dài 18 - 19cm số trứng 42.847 trứng ± 972. Cá nuôi vỗ 12cm, số trứng 29.066 trứng khi đó ở tự nhiên có 16.559 trứng.
+ Đường kính của trứng 0,4-0,8mm, khi cá đã thụ tinh trứng trương lên 0,85 - 1,1mm.
+ CRĐ nuôi vỗ tái phát dục sau 3-4 tuần.
VIETLINH PTE. Official Homepage
Kinh nghiệm sản xuất giống cá rô đồng
Chọn cá bố mẹ: Nên chọn cỡ cá 30-70g hoặc lớn hơn, có cơ thể hoàn chỉnh, không bị dị tật, dị hình. Cá có nguồn gốc từ tự nhiên hoặc từ nguồn cá nuôi trong ao.
Cá đực thường nhỏ hơn cá cái và có thân dài, cá cái có bụng lớn và có tỷ lệ chiều dài thân trên chiều cao lớn hơn cá đực.
Nuôi vỗ cá bố mẹ: Ao nuôi vỗ: Nên dùng ao có diện tích 200-500m2, mức nước sau 0,8-1m.
Mật độ nuôi vỗ cá và tỷ lệ đực cái: Cứ 1 m2 ao nuôi vỗ 4-6 con cá bố mẹ. Ghép 2 cá đực với 1 cá cái.
Mùa vụ: Bắt đầu nuôi vỗ từ tháng 12 năm trước.
Cho cá ăn và quản lý ao: Cứ 10kg cá bố mẹ mỗi ngày cho ăn 0,2kg thức ăn hỗn hợp (gồm 25% cám, 25% ruốc và 50% bột cá). Thường xuyên quan sát màu nước và hoạt động của cá. Sau khi nuôi vỗ cá bố mẹ 2 tháng có thể chọn cá cho sinh sản.
Cho cá đẻ nhân tạo: Bể cho cá đẻ: Có thể sử dụng bể xi măng, bể nhựa, lu sành, bể bạt... Tùy số lượng cá cho đẻ nhiều hay ít mà chọn bể có diện tích 10 -20m2.
Giữ mức nước trong bể từ 0.4-0,8m.
Chọn cá bố mẹ thành thục: Chọn những cá cái có bụng to, mềm và những con cá đực khỏe mạnh, linh hoạt để cho đẻ.
Tiêm kích dục tố: Tiêm cho 1 kg cá cái một trong hai loại kích dục tố với liều lượng như sau: 1 ống LRHa 0,2mg + 2 viên DOM (hoặc Motilium) hoặc 2.000-2.500 đơn vị HCG. Cũng tiêm cho cá đực 1 trong 2 loại thuốc trên nhưng với liều lượng chỉ bằng 1/2 của cá cái. Tiêm thuốc vào gốc vây của ngực cá. Sau khi tiêm kích dục tố thả ghép 2 cá đực với một cá cái vào bể đẻ.
Cá bắt đầu đẻ sau khi tiêm kích dực tố 6-8 giờ. Thời gian đẻ kéo dài 2-3 giờ. Vào chính vụ (tháng 5-7) tỷ lệ cá đẻ đạt 96-100%, tỷ lệ thụ tinh đạt 82-93%, tỷ lệ nở 87-98%.
Ấp trứng: Sau khi cá đẻ, trứng được vớt nhẹ nhàng chuyển vào chậu nhựa để ấp. Chậu nhựa có đường kính 50cm, mức nước trong chậu là 15 cm. Mỗi chậu có thể ấp được 50.000 trứng mà không cần phải sục khí.
Sau khi trứng nở thành cá bột được 2-3 ngày tuổi thì chuyển cá bột ra ương ngoài ao.
Ương cá bột thành cá giống: Diện tích ao ương: 500-1000m2
Chuẩn bị ao ương: Tháo cạn ao và phơi đáy. Cứ 100m2 ao ương bón 10kg vôi để diệt tạp, trừ mầm bệnh và bón lót 25-30kg phân chuồng.
Lấy nước vào ao qua lưới lọc trước khi thả cá bột 1-2 ngày. Cá bột được ương trong ao với mật độ 400-600 con/m2.
Cho cá ăn: Trong 10 ngày đầu tiên: Cứ 100.000 cá bột mỗi ngày cho ăn 5 lòng đỏ trứng vịt bóp nhuyễn và 400g bột đậu nành rang xay nhuyễn. Hòa thức ăn với nước tạt cho cá ăn 2 lần/ngày.
Từ ngày thứ 11 đến ngày thứ 20: Cứ 100.000 cá bột mỗi ngày cho ăn 300g bột đậu nành, 300g cám và 300g bột cá. Thức ăn được trộn đều và rải khắp ao cho cá ăn 2 lần/ngày.
Từ ngày thứ 21 đến ngày thứ 30: Mỗi ngày cho ăn 600g cám và 600g bột cá/100.000 cá bột. Trộn đều và rải cho cá ăn.
Từ ngày 31 đến ngày thứ 40, mỗi ngày cho ăn 1,5-2kg cám và bột cá/100.000 cá bột. Thành phần thức ăn là 50-70% cám và 30-50% bột cá.
Kết quả: Sau 50-60 ngày ương, cá đạt trọng lượng trung bình 1,5-2g, tỷ lệ sống đạt 20%.
Đoàn Giang (Bản tin Nông nghiệp - Vĩnh Long)
* Một số tài liệu cũ có thể bị lỗi font khi hiển thị do dùng bộ mã không phải Unikey ...
Người chia sẻ: Phan Ut
Dung lượng: |
Lượt tài: 2
Loại file:
Nguồn : Chưa rõ
(Tài liệu chưa được thẩm định)