Kỹ thuật nuôi cá quả

Chia sẻ bởi Phan Ut | Ngày 23/10/2018 | 57

Chia sẻ tài liệu: Kỹ thuật nuôi cá quả thuộc Bài giảng khác

Nội dung tài liệu:

Kĩ thuật nuôi cá quả (cá lóc)
 

1. Ðặc điểm sinh học và sinh sản
2. Phương pháp nuôi
3. Chú ý khi nuôi cá lóc con và cá lóc thịt
4. Nhân giống cá lóc đen
5. Nuôi cá lóc trong mùng lưới
6. Kỹ thuật nuôi cá lóc trong ao đất
7. Kỹ thuật nuôi cá lóc (lóc bông) 


Kĩ thuật nuôi cá quả (cá lóc)  
(Tạp chí khoa học và công nghệ thuỷ sản - 1/2001)
1. Ðặc điểm sinh học và sinh sản
Cá quả thường gặp và phân bố rộng có 2 loài là : Ophiocephalus maculatus và Ophiocephalus arbus, nhưng đối tượng nuôi quan trọng nhất là loài O.maculatus thuộc Bộ cá quả, họ cá quả, giống cá quả.
1.1 Ðặc điểm hình thái :
Vây lưng có 40 - 46 vây; vây hậu môn có 28 - 30 tia vây, vảy đường bên 41 - 55 cái. Ðầu cá quả O.maculatus có đường vân giống như chữ "nhất" và 2 chữ bát còn đầu cá O.arbus tương đối nhọn và dài giống như đầu rắn.
1.2 Tập tính sinh học :
Thích sống ở vùng nước đục có nhiều rong cỏ, thường nằm phục ở dưới đáy vùng nước nông có nhiều cỏ. Tính thích
nghi với môi trường xung quanh rất mạnh, nhờ có cơ quan hô hấp phụ nên nó có thể hít thở được O2 trong không khí. ở vùng nước hàm lượng O2 thấp cũng vẫn sống được, có khi không cần nước chỉ cần da và mang cá có độ ẩm nhất định vẫn có thể sống được thời gian khá lâu.
1.3 Tính ăn :
Cá quả thuộc loại cá dữ. Thức ăn là chân chèo và râu ngành; thân dài 3 - 8cm ăn côn trùng, cá con và tôm con; thân dài trên 8cm ăn cá con. Khi trọng lượng nặng 0,5 kg có thể ăn 100 - g cá. Trong điều kiện nuôi nó cũng ăn thức ăn chế biến. Mùa đông không bắt mồi.
1.4 Sinh trưởng :
Tương đối nhanh. Con lớn nhất đến 5 kg, nhìn chung cá 1 tuổi thân dài 19 - 39cm nặng 95 - 760g; Cá 2 tuổi thân dài 38,5-40cm, nặng 625 - 1.395g; cá 3 tuổi thân dài 45-59cm, nặng 1.467 - 2.031g (con đực và cái chênh lệch lớn); khi
nhiệt độ trên 20oC sinh trưởng nhanh, dưới 15oC sinh trưởng chậm.
1.5 Tập tính sinh sản :
Mùa vụ đẻ trứng từ tháng 4 - 7, rộ nhất trung tuần tháng 4 - 5. Cá tròn 1 tuổi, thân dài 20cm nặng 130g đã thành thục đẻ trứng. Số lượng trứng tuỳ theo cơ thể to nhỏ mà thay đổi. Cá nặng 0,5 kg số lượng trứng 8.000 - 10.000 cái, cá nặng 0,25 kg, số lượng trứng 4.000 - 6.000 cái.
a) Ðẻ tự nhiên : Diện tích ao đẻ từ 190 - 200m2. Ðáy ao chia làm 2 phần : Phần sâu 1m, phần nông 0,3m. Trong ao nên trồng một ít cây thực vật thuỷ sinh như rong, bèo bờ ao đầm nện chặt và cứ để cho cỏ mọc tự nhiên. Xung quanh ao rào cao 30 - 40cm đề phòng cá phóng ra ngoài. Thức ăn là cá con, lượng cho ăn 25g/con, hằng ngày cho ăn 1 lần, không nên cho ăn quá nhiều phòng cá quá béo. Mỗi m3 nước thả 1 con đực và 2 - 3 con cái. Những con cá đực thành thục thì thân dưới có màu tím hồng, bụng béo mềm,
lỗ sinh dục có màu phấn hồng. Con cái thành thục có bụng to, phần ngực căng tròn vẩy trắng, mồm hơi vàng, lỗ sinh dục to và lồi ra có hình tam giác. ở chỗ có nhiều rong cỏ cá cái dùng cỏ làm ổ, sau đó cá cái và cá đực kéo đến đẻ trứng và thụ tinh ở đây (đẻ trứng vào sáng sớm). Ðẻ xong cả con đực và cái không rời khỏi ổ mà nằm phục dưới đáy bảo vệ trứng cho đến khi nở thành con mới rời ổ và dẫn đàn con đi kiếm ăn, lúc này cũng là lúc mà cá bố mẹ ăn cả thịt những con cá con khác đã tách đàn , cho nên đến mùa sinh sản sáng sớm thăm ao hễ phát hiện thấy có cá con là vớt đem ương sang ao khác.
b) Sinh sản nhân tạo : Dùng não thuỳ cá chép, cá mè và prolan B để tiêm cho cá. Số lượng thuốc tiêm là 14 não cá mè/kg cá mẹ (1 não cá chép bằng 2,7 - 3 não mè). Tiêm lần thứ nhất 2/5 số lượng, lần thứ 2 tiêm số còn lại. Dùng prolan B thì 1.600 - 2.000 UI/kg cá mẹ, tiêm lần 1 là 1/3 số thuốc, lần 2 : số còn lại. Cá đực tiêm bằng 1/2 cá cái.
Tiêm xong ghép cá cái và đực vào bể đẻ, sau 14 tiếng cá động hớn và đẻ trứng, trứng thụ tinh mới đầu chìm dưới đáy bể sau khi hút nước trương lên nổi lơ lửng trong nước.
Vớt trứng thụ tinh cho vào bình ấp hoặc bể ấp. Dụng cụ ấp trước khi cho ấp phải tiêu độc bằng 0,1 ppm xanhmêtylen, tiêu độc xong lấy nước vào một đầu, đầu kia tháo nước ra giữ mức nước không thay đổi, trong thời gian ấp giữ nhiệt độ nước ít thay đổi, biên độ thay đổi chỉ dưới 2oC nếu không sẽ ảnh hưởng đến tỉ lệ nở. Nhiệt độ nước 25oC thời gian ấp nở là 36 tiếng, nhiệt độ 26 - 27oC thời gian 25 tiếng.
2. Phương pháp nuôi
2.1 Nuôi cá bột và giống :
Cũng giống như ương nuôi các loài cá bột khác, trước khi thả cá phải tẩy dọn ao sạch, gây nuôi thức ăn tự nhiên sẵn trong ao. Mật độ nuôi 5 - 10 vạn/666m2, thông thường là 6 - 7 vạn.
Trong 7 - 8 ngày đầu chưa cần cho ăn, sau đó vừa cho ăn vừa bón phân, mỗi vạn cá bột cho ăn 3 - 4kg tảo trần, nuôi như vậy 18 - 20 ngày khi toàn thân cá biến thành màu vàng bắt đầu xuất hiện vảy, sau đó biến thành màu đen, thân dài 3 - 6 cm, tỉ lệ sống 60 - 65%. Nuôi tiếp 20 ngày nữa, thân dài 6 cm, lúc này có thể cho ăn cá con, tôm con hoặc thức ăn chế biến giàu đạm. Sau 2 tháng nuôi cá đạt 9 - 12cm, lúc này có thể thả vào ao to để nuôi thành cá thịt.
2.2 Nuôi cá thịt :
a) Nuôi thô : Nuôi ghép trong các ao cá khác để tận dụng hết tiểm năng của vực nước và lợi dụng cá quả để tiêu diệt các loài cá tạp khác cạnh tranh thức ăn, không gian và dưỡng khí làm cho cá nuôi phát triển tốt. Ao có nuôi ghép cá quả bờ phải cao hơn mặt nước 30 - 40 cm, không có lỗ rò. Mỗi ao 666 m2 nuôi ghép 50 - 300 cá quả cỡ từ 3 cm hoặc cỡ 12cm. Sau 5 - 6 tháng nuôi cá lớn được 0,2 - 0,6 kg, tỉ lệ sống 80%.
b) Nuôi tinh (nuôi đơn) :
- Ao nuôi : Diện tích ao 600 - 1.300m2 để dễ quản lý. Xung quanh ao thả bèo tây hoặc bèo cái, dùng tre, nứa chắn giữ cá quả không nhảy ra ngoài ao, đồng thời cũng tạo được nơi nghỉ ngơi kín đáo cho cá. Ao sâu 2 - 1,5m, nguồn nước phong phú.
- Mật độ nuôi : Cần dựa vào nguồn thức ăn và chất nước để quyết định, nhìn chung thả 10 con/m2 (cá 3 cm), sau đó xem tình hình sinh trưởng của cá, dùng lưới đánh bắt những con sinh trưởng quá nhanh để tránh tình trạng cá lớn nuốt cá bé, mật độ cuối cùng là 2 - 3 con/m2, nếu nguồn nước phong phú cũng có thể tăng thêm mật độ. Nếu thả cá cỡ 12 - 18 cm nuôi đến cuối năm có thể đạt 0,6 kg/con. Ngoài ra có thể thả ghép vào một ít cá mè để khống chế chất nước.
- Luyện cho ăn : Thức ăn sống và thức ăn chế biến cá đều có thể ăn được. Thức ăn sống gồm : tảo trần, cá rôphi con, tôm con, giun, dòi
Khi cho ăn cá con cần khống chế lượng thức ăn, quá nhiều dễ sinh ra hiện tượng nổi đầu. Nếu cho ăn thức ăn chế biến phải luyện ngay từ nhỏ (cỡ 2 cm) tốt nhất nuôi trong ao xi măng có nước chảy, mỗi m2 thả 500 con, bắt đầu cho ăn giun ít tơ, thức ăn cho vào sàn đặt cách mặt nước 10 cm khi cá đã quen ăn rồi dần dần giảm số lượng giun ít tơ tăng số lượng cá tạp nghiền nát cho đến khi cá quả quen với thức ăn chế biến thì thôi, lúc này cá đã đạt 4 - 5 cm (tỉ lệ sống 20%). Không được đang luyện cho ăn thức ăn chế biến lại cho thức ăn sống.
Thức ăn chế biến thường dùng 70% cá tạp nghiền nát; bột đậu tương hay bánh khô dầu 20%, men tiêu hoá 5%, một ít vi lượng và chất kháng sinh, vitamin. Mỗi ngày cho ăn 2 lần vào sáng và tối. Số lượng cho ăn 5 - 7% trọng lượng
thân. Mùa sinh trưởng nhanh cũng không cho ăn quá 10%. Nuôi 1 năm cá đạt 0,5 kg/con, sản lượng 300 kg/666m2.
- Quản lý chăm sóc : Cá quả có khả năng nhảy phóng rất cao (nhảy cao khỏi mặt nước 1,5m); nếu nước ở ngoài ao thấp hơn nước trong ao thì cá nhảy qua ao có nước thấp, nước chảy hoặc trời mưa càng kích thích cá quả nhảy đi. Vì vậy nhất là khi có mưa rào phải thăm ao. Cá quả cần thức ăn phải tươi và sạch, cho nên trước khi cho ăn phải dọn rửa sàn ăn. Tuy cá quả có khả năng chịu được môi trường nước kém 02, nhưng không phải vì thế mà để nước bẩn. Phải thường xuyên bổ sung thêm nước mới, bảo đảm nước trong sạch, tốt nhất có giòng chảy.
Minh Dung
Chú ý khi nuôi cá lóc con và cá lóc thịt
(NTNN, 31/10/2003 & 6/11/2003)
Căn cứ vào tính ăn của cá lóc có thể nuôi ghép với cá nuôi như cá mè, trôi, chép, trắm cỏ, rô phi, diếc để khống chế mật độ của những loài cá tạp và những cá sinh đẻ nhiều như cá rô phi, cá diếc nhằm đảm bảo thức ăn cho các loài cá kinh tế chủ yếu, cải tạo và nâng cao sức sản xuất các vùng nước. Tuy vậy, khi nuôi, cần tính cẩn trọng chú ý tỉ lệ, mật độ, kích cỡ cá thả.
Nuôi cá lóc con 
Trước khi nuôi cá lóc phải dọn tẩy ao sạch sẽ để cho sinh vật phù du phát triển mạnh mới thả cá bột vào ao. Mật độ ương 5-10 vạn con/mẫu. Sau khi thả 7-8 ngày chưa cần cho cá ăn, sau đó một mặt vừa bón phân vào ao, mặt khác vớt động vật phù du bổ sung vào cho cá ăn (3-4 kg động vật phù du cho một vạn cá). Nuôi như vậy 18-20 ngày thấy cá có màu vàng, trên thân xuất hiện vảy, sau đó
chuyển sang màu đen, thân dài 3-6cm, tỉ lệ sống khoảng 60-65%, nuôi tiếp 20 ngày nữa cá đạt 6cm, lúc này bắt đầu cho cá ăn tôm, tép, cá con hay thức ăn chế biến có đạm cao. Nuôi trong 2 tháng cá đạt cỡ 9-12cm thành cá giống đưa ra ao lớn nuôi thành cá thịt.
Nuôi cá thịt ở ao
 
Viện Nghiên cứu nuôi trồng thủy sản I đã nuôi thử nghiệm cá lóc với cá rô phi (dùng cá rô phi làm thức ăn cho cá lóc).
Diện tích ao: 35m2.
Độ sâu: 70-80cm.
Mật độ thả: 0,5-1con/m2.
Qua 4 tháng nuôi cỡ cá lóc 80-100g/con, lớn được 350g/con. Tính ra cứ 4 kg cá rô phi con được 1kg cá lóc thịt.
Nuôi cá lóc ghép với cá nuôi khác
 
Diện tích ao: 200m2. Trên bờ ao bằng phên nứa cao 0,4m, thả bèo tây chiếm 5% diện tích ao nuôi. Nuôi ghép cá lóc với cá mè, trôi, chép, rô phi, diếc. Thức ăn bằng phân lợn ủ, mỗi tuần bón 2 lần. Mỗi lần 0,1-0,15kg/m3 nước.
Kết quả qua 3 tháng nuôi sản lượng nuôi ghép cá lóc tốt hơn ao nuôi khác và khống chế được sự sinh sản của cá rô phi, cá diếc, chưa thấy ảnh hưởng đến sinh trưởng cá khác. Tốc độ lớn của các loài cá nuôi trong ao là: cá lóc 147g/con, cá mè 120g/con, cá trôi 40g/con, cá rô phi 70g/con.
Nhân giống cá lóc đen
NTNN, 16/6/2003
Tại khu vực ĐBSCL, kỹ thuật nhân giống cá lóc bằng cách dùng kích thích tố sinh sản đang được nông dân ứng dụng khá rộng rãi. Hiệu quả thu được từ nguồn giống này khá lớn: cứ 100% cá mẹ sinh sản, thu được 70 - 80% cá giống. Qua nghiên cứu cho thấy, yếu tố quyết định thành công là khâu chọn, nuôi vỗ cá bố mẹ và sử dụng kích thích tố đúng liều lượng.
Chọn và nuôi vỗ cá bố mẹ
Nên chọn cá bố mẹ có trọng lượng trung bình 0,3 - 0,8kg trong tự nhiên rồi tiếp tục nuôi vỗ thành thục sinh dục cá trong điều kiện nuôi ở lồng đặt trong ao đất có kích thước 2 x 2,5 x 2m và mật độ thả nuôi là 10 con/m2. Trong thời gian nuôi vỗ, nguồn thức ăn được sử dụng là cá biển và cá tạp nước ngọt, với khẩu phần ăn dao động từ 1,5-2% trọng
lượng cá/ngày (2 lần/ngày). Quá trình nuôi vỗ được định kỳ kiểm tra 30 ngày/lần, nhằm xác định độ chín muồi của tuyến sinh dục và sự phát triển về kích thước trứng.
Việc chọn cá bố mẹ thành thục để tham gia vào sinh sản nhân tạo là yếu tố quyết định đến kết quả sản xuất. Nếu chỉ dựa vào các biểu hiện bên ngoài để xác định cá lóc có tuyến sinh dục thành thục tốt hoặc không tốt là rất khó. Vì vậy, khi cho cá đẻ, tiêu chuẩn kỹ thuật cần thiết là cá đực phải có hình dáng thon, đầu nhỏ, lỗ sinh dục cách xa lỗ hậu môn và có màu hơi đỏ. Cá cái phải có bụng to, tròn đều, mềm vừa phải, dùng que thăm trứng thấy trứng có màu vàng tươi, kích thước trứng dao động từ 1,26 - 1,6mm, nhân có xu hướng chuyển cực.
Sử dụng kích thích tố sinh dục
Có thể sử dụng não thuỳ cá chép hoặc sử dụng hormon HHG. Hiệu quả sử dụng của 2 loại kích thích tố này tương
đương nhau (100% cá sinh sản, tỉ lệ thụ tinh trên 92%, tỉ lệ nở trên 66%). Sự khác biệt giữa 2 loại này là ở giá cả thị trường và sự tiện lợi trong quá trình sử dụng.
 
 
www.vietlinh.com.vn - www.vietlinh.vn
Nuôi cá lóc trong mùng lưới
Nuôi cá lóc thịt trong mùng lưới (vèo) xuất hiện ngẫu nhiên tại vùng lũ những năm gần đây. Người dân nuôi cá lóc đã nghĩ đến dùng lưới thưa để tiện việc quản lý và cho cá ăn nhằm hạn chế thiệt hại.
Chuẩn bị mùng 
Loại hình nuôi trong mùng lưới chỉ đặt trong ao là tốt nhất.
- Kích thước mùng lưới đặt trong ao phổ biến là 5x3x2m (không tính phần trên mặt nước) nuôi được khoảng 3.000-5.000 con. Từ mặt trên trở lên 1-1,5m dùng lưới cước may nối các phần dưới và căng thẳng các góc, cố định các góc trên và dưới tạo thành một cái mùng lật ngược. Khoảng cách từ đáy lưới đến đáy ao là 0,5m, không nên để sát đáy ao vì chất thải và thức ăn thừa sẽ tích tụ gây ô nhiễm nước.
- Lưới được chọn để may mùng là loại lưới được dệt có sợi chỉ lớn bằng nilon ít thấm nước và có độ chắc cao, bền vững,
tránh oxy hoá. Thông thường người nuôi chọn lưới sợi 3,6 ly, kích thước lỗ lưới 2,5cm, lưới có màu xanh rêu (lưới Thái), có thể sử dụng liên tiếp 3 vụ.
Thời vụ nuôi 
Cá lóc sinh sản quanh năm nên có thể nuôi 3 vụ/năm nếu chủ động được nguồn thức ăn. Song hiện nay do lượng thức ăn cung ứng nên có thể chọn vụ nuôi chính:
- Vụ 1: Bắt đầu từ tháng 4-5, thu hoạch vào tháng 8-9 âm lịch. Đây là thời vụ thích hợp nhất, nhiệt độ dịu mát, nguồn thức ăn dồi dào, dễ tìm, cá lớn nhanh.
- Vụ 2: Bắt đầu từ tháng 8-9, thu hoạch vào tháng 12 và tháng Giêng. Giai đoạn này có nhiều nguồn thức ăn từ nguồn phụ phẩm thuỷ sản tự nhiên.
- Vụ 3: Bắt đầu từ tháng Giêng đến tháng 7, nên hạn chế nuôi ở vụ này vì thời gian này cá chậm lớn, thức ăn cho cá hiếm và đắt, người nuôi không có lãi.
Thức ăn 
- Thức ăn cho cá lóc là những loại cá tạp, cua, ốc, tấm gạo nấu nhừ cho ăn lúc hiếm thức ăn. Khi cá lớn, cho ăn nguyên con hoặc xay nhuyễn, có thể pha chế được nhiều phụ phẩm thay thế làm thức ăn cho cá.
- Dụng cụ cho cá ăn là sàn tre đan lưới hơi thưa và nhẵn được đặt xâm xấp mặt nước, xung quanh gờ có chắn để tránh thức ăn tuột trôi ra ngoài, đồng thời cũng giúp cho cá lên mặt sàn để ăn.
- Tập cho cá ăn đúng giờ để dễ kiểm tra, phát hiện mọi biến đổi của cá để kịp thời phòng trị bệnh cá. Nên cho cá ăn ngày 2 lần: sáng từ 7-8 giờ, chiều từ 4-5 giờ. Định mức thức ăn: 8-10% trọng lượng cá.
Ưu điểm của loại hình nuôi này là rất an toàn trong mùa lũ, nước lên đến đâu nâng mùng lên đến đó. Khi đặt mùng lưới nuôi trong ao chỉ chiếm một phần diện tích ao, phần còn lại có thể thả loài cá khác để tận dụng thức ăn thừa rơi vãi và
sản phẩm thải từ cá nuôi mùng lưới, vừa đảm bảo môi trường nuôi khép kín và hạn chế được dịch bệnh, tăng thu nhập.
 NTNN, 22/4/2004
Thông tin kĩ thuật dành cho người nuôi thuỷ sản
Kỹ thuật nuôi cá lóc trong ao đất

 
I. Kỹ thuật ương nuôi cá lóc:
1. Ương cá bột 5 ngày tuổi (chiều dài khoảng 6 cm) thành cá giống 60 ngày tuổi (chiều dài khoảng 6-12 cm).
a. Điều kiện ao ương:
- Diện tích 200-1000 m2, giữ nước được trong mùa kiệt và không bị nậgp trong mùa lũ. Nguồn nước không bị nhiễm bẩn, nhiễm phèn. Cấp thoát nước chủ động, độ sâu 1,2-1,5 m.
- Bón vôi để diệt tạp, diệt mầm bệnh và tăng pH (không bị phèn). Liều lượng vôi: 10-15 kg/100 m2 ao (ao mới đào).
b. Bón phân tạo thức ăn tự nhiên:
- Bón phân chuồng (phân gà, bò, heo....) ủ cho hoai, liều lượng 10-15kg/100 m2 ao.
- Bón phân đạm (phân urê) 300 gram/100 m2 ao, phân lân 100 gr/ 100 m2 ao. Khi  phân bón lót đã phân hủy hết (6-7 ngày) nước có màu xanh đọt chuối thì tiến hành thả cá vào ương.
c. Mật độ thả ương:
Mật độ thả cá ương từ 5.000- 10.000 con cá bột/100m2 ao. Nếu ương cá bằng vèo đặt trong ao (có những điều kiện như trên) mật độ ương là 800- 1000 con/ 1 m2 vèo.
d. Cho ăn và chăm sóc:
- Giai đoạn cá 5-15 ngày tuổi: Chủ yếu cho ăn động vật phù du (trứng nước), kết hợp với bón phân tạo màu nước xanh đọt trước.
Trong trường hợp thiếu hợp những loại thức ăn trên có thể cho cá ăn cua, cá tạp xay nhuyễn: 1 kg cua, cá tạp/ 10.000 cá con/ngày.
- Giai đoạn cá 18-25 ngày tuổi: Vẫn sử dụng những loại thức ăn trên và bổ sung thêm Vitamin C, Vitamin ADE. Lúc này
cá đã có màu vàng, trên thân xuất hiện vẫy, cá mẹ không còn quanh quẩn bên cá con và cá con cũng bắt đầu tách đàn sống độc lập.
- Giai đoạn cá 25-35 ngày tuổi: Cá đã có màu đen giống cá trưởng thành, chiều dài 2-6 cm. Ăn được cá tạp xay nhuyễn, lượng cho ăn khoảng 10% trọng lượng thân cá. Tỉ lệ sống đến giai đoạn này khoảng 80%.
- Giai đoạn cá  35- 60 ngày tuổi: Thân dài 6-12 cm đạt tiêu chuẩn cá giống. Cho cá ăn các loại cá tạp, tôm tép, liều lượng 8% trọng lượng cá. Tỉ lệ sống trong giai đoạn này khoảng 60%. Lúc này đã có thể tuyển lựa cá đồng cở đưa ra ao lớn nuôi thành cá thịt.
2. Nuôi cá lóc thương phẩm:
- Vì là loài cá dữ chuyên bắt mồi sống nên giai đoạn nuôi thịt không cần bón phân gây màu nước. Trong ao nuôi, ngoài sử dụng các loại cá tạp, cá còn có thể ăn các thức ăn chế biến
có hàm lượng đạm cao, lượng cho ăn chiếm từ 5-6% trọng lượng cá.
- Nuôi 8 tháng cá đạt trọng lượng trung bình 600 gr/con.
- Hệ số thức ăn của cá lóc là 5-6 kg thức ăn/1 kg cá.
3. Nuôi cá lóc trong bè:
Chọn những nơi có chất nước tốt, không bị ô nhiễm có mực nước sâu. Cần tránh nững nơi có tàu bè qua lại, đặc biệt cần tránh xa nguồn nước thải của các nhà máy công nghiệp hóa chất, nhà máy sản xuất thuốc trừ sâu.....
Để giảm hao hụt và thuận tiện khi nuôi nên thả cá lớn (15-30 gr/con đối với cá lóc bông, 10-15 gr/con đối với cá lóc thường) và cá đã quên sử dụng thức ăn chế biến. Nếu cá nhỏ hơn cần có bè nuôi riêng cho đến khi cá đạt kích thước trên. Mật độ thả nuôi trung bình từ 120-130 con/m3. Kích cở cá đều nhau, khỏe mạnh, cơ thể cân đối.
Về vấn đề lâu dài cần phải dùng thức ăn chế biến hoặc thức ăn tự chế để nuôi cá lóc trong bè. Bởi vì loại thức ăn này dễ bảo quản, chuyên chở thuận tiện và tận dụng được nguồn phế liệu phụ phẩm của nhà máy chế biến.
Khả năng sử dụng thức ăn của cá thay đổi theo từng giai đoạn phát triển của cơ thể cá. Lúc cá còn nhỏ cần cho ăn nhiều hơn cá lớn, có thể tham khảo theo bảng (ở trang sau).
Cần thường xuyên kiểm tra bè nuôi nhất là nơi có đặt “ mặt đục” bằng lưới, dây neo. Đồng thời tiến hành làm vệ sinh bè để được thông thoáng, không thả cá mật độ quá dày.

 
II. Phòng trị bệnh cá lóc
- Cá ương ở giai đoạn dưới 25 ngày tuổi, bệnh thường gặp là bệnh do ký sinh trùng gây nên, phòng bệnh này bằng cách định kỳ 10-15 ngày bón vôi bột (CaCO3) liều lượng 3-4kg/100m2 hòa với nước, lóng trong, sau đó lấy nước trong đó tạt vào ao (làm nhiều lần), đối với bè treo túi vôi  thì liều lượng khoảng từ 2-4kg/10m3. Giữ cho nước có màu vàng lợt hoặc xanh đọt chuối. Cấp, thay nước và tạo dòng chảy để đảm bảo đủ lượng oxy cho ao, tránh ương mật độ dày. Thường xuyên dùng muối ăn tưới ao, liều lượng 1-2 kg/m3 nước ao.
- Cá ương ở giai đoạn lớn hơn 25 ngày tuổi đến 60 ngày tuổi: Ở giai đoạn này cá hao hụt nhiều nhất. Bệnh thường gặp là viêm ruột do cá chuyển loại thức ăn.
Kỹ thuật nuôi cá lóc bông 
Cá Lóc bông (Channa micropeltes Cuvier & Valencienes 1831) là loài cá dữ, nhưng thịt thơm ngon và rất được ưa chuộng. Kích cỡ cá lớn nhất đạt tới chiều dài 130cm, nặng 20kg. Cá thành thục vào 23 - 24 tháng tuổi. Khoảng nhiệt độ thích hợp nhất cho sinh trưởng từ 20 - 300C. Ðộ mặn 0 - 16 thích hợp cho phát triển của cá Lóc bông. Cá có thể chịu đựng được pH = 4. Cá có khả năng chịu đựng tốt ở môi trường thiếu ôxy. Hiện nay, nhiều địa phương đã chủ động sản xuất nhân tạo con giống nuôi.
I. Kỹ thuật sản xuất giống
1. Ao nuôi vỗ cá bố mẹ
Ao có diện tích từ 500m2 trở lên, độ sâu 1,5m, bờ cao, chắc, có lưới chắn, có cống để chủ động cấp thoát nước.
- Tát cạn ao, vét bớt bùn, rải vôi bột đáy và mái bờ (8 - 10kg/100m2). Phơi đáy 2 - 3 ngày, sau đó cấp nước vào ao.
2. Tiêu chuẩn cá bố mẹ
Cá 1,5 tuổi trở lên (trên 2kg/con). Mật độ thả nuôi 10m2/cặp. Tỷ lệ đực cái 1:1. Trước khi thả, nên tắm nước muối 25-30 cho cá.
3. Thức ăn cho cá bố mẹ
Thức ăn là cá tạp, đưa xuống sàn ăn. Khẩu phần ăn 3 - 5%, mỗi ngày cho ăn 2 - 3 lần. Cần thay nước bằng
thuỷ triều hoặc bơm cấp mỗi tuần một lần, mỗi lần 30% thể tích nước trong ao.
4. Kỹ thuật cho cá đẻ
Cho cá đẻ tự nhiên trong ao không cần tiêm kích dục tố.
Mật độ thả trong ao cho đẻ là 10 - 15m2/một cặp cá bố mẹ. Phải tạo tổ đẻ có giá thể để cá đẻ trứng, kích thước tổ mỗi cạnh 0,8 - 1m, cao 0,6 - 0,8m. Giá thể làm bằng cỏ, lục bình, rau muống, dừa nước đặt bên trong tổ. Ðặt ổ đẻ cách nhau ít nhất 2m và cách bờ 0,5 1m. Ao cho cá đẻ cần được giữ thật yên tĩnh.
5. Ấp trứng
Ấp trứng trong chậu, bể xi măng nhỏ, thay nước mỗi ngày 2 4 lần, mật độ ấp 10.000 -15.000 trứng/m2 (cho 1 ổ trứng). Nhiệt độ thích hợp từ 28 – 300C, trứng nở thành cá bột sau 30 - 40 giờ.
6. Kỹ thuật ương nuôi cá giống
a. Ương trong bể
Bể ương có diện tích tối thiểu 5 - 20m2. Ðộ sâu nước 0,8 - 1m. Mật độ thả ương là 5.000 - 6.000 cá bột/m2. Có thể ương cá trong giai bằng lưới cước đặt trong ao, diện tích 2-10m2. Mật độ ương 8.000 - 10.000 cá bột/m2.
Thức ăn : Tuần đầu cho ăn Moina 0,2 - 0,3 kg/10.000 cá bột. Tuần thứ hai cho ăn trùn chỉ 1,5 - 2kg/10.000 cá bột. Sau 15 ngày thì cho ăn chủ yếu là cá xay, lượng cho ăn từ 3 - 4 kg cho 10.000 cá. Thay nước theo thuỷ triều hoặc định kỳ bơm cấp thay nước mới. Kết hợp sục khí trong bể và giai.
ương 20 - 25 ngày, cá đạt cỡ 4 - 5 cm, ương tiếp 1 tháng cá đạt cỡ 8 - 10 cm.
b. Ương cá Lóc bông trong ao
Diện tích ao > 200m2, nước sâu từ 1 - 1,2m. Mật độ ương từ 150 - 200 con/m2.
Thức ăn chủ yếu là động vật phù du (Moina, Daphnia) trong ao, bổ sung 0,1 - 0,2 kg moina/10.000 cá bột/ngày, sau một tuần cho cá ăn thêm trùn chỉ (1 - 1,5kg/10.000 cá). Từ ngày thứ 10 cho cá ăn cá xay (3,5 - 4kg/10.000 cá).
Sau 20 - 21 ngày ương, cá đạt cỡ chiều dài 5 - 6cm, lọc bỏ cá nhỏ, còi cọc hoặc cá lớn trội rồi ương tiếp tục từ 3 - 4 tuần để cá đạt cỡ 8 - 10cm.
II. Kỹ thuật nuôi thương phẩm
1. Nuôi cá Lóc bông trong ao
a. Chuẩn bị ao
Ao nuôi cá Lóc bông có diện tích từ 500m2 trở lên, độ sâu từ 2,5 - 3m.
Trước khi thả, tát cạn ao, vét bùn đáy, lấp hết hang hốc. Rải vôi đáy ao từ 10 - 15kg/100m2, phơi nắng 2 - 3 ngày rồi cấp nước vào ao.
Ở Nam Bộ, có thể nuôi quanh năm. Các tỉnh miền Bắc nên nuôi một vụ, thả vào tháng 3-4 và thu hoạch cá trước mùa đông.
Cá giống đều cỡ, từ 15 - 20 gam/con. Trước khi thả tắm nước muối 25 - 30.
Mật độ thả nuôi từ 20 - 25 con/m2.
b. Thức ăn, quản lý và chăm sóc
Thức ăn là cá tạp, vụn, cua, ốc và phụ phẩm lò mổ. Khẩu phần ăn 3 - 5%. Cá càng lớn khẩu phần ăn cũng giảm dần.
Có thể cho ăn thức ăn chế biến từ các nguyên liệu trên nấu với cám, tấm, trong đó cá tạp chiếm 50%.
Hàm lượng đạm trong thức ăn phải đảm bảo từ 25 - 35%. Khẩu phần ăn với thức ăn chế biến từ 5 - 7%.
c. Quản lý môi trường ao nuôi
Cần thay nước thường xuyên cho ao theo thuỷ triều hoặc bơm cấp định kỳ hàng tuần 30% lượng nước.
d. Nuôi cá Lóc bông trong bè
Thể tích bè nuôi từ 80 - 280m3, độ ngập nước của bè từ 2,5 - 4m. Ðặt nơi có mức nước sâu, vận tốc chảy nhẹ.
Cỡ giống nuôi : từ 15 - 20gam/con. Mật độ 100 - 130con/m3 bè.
e. Thức ăn cho cá
Thức ăn tươi sống như cá tạp, vụn, cua, ốc. Khẩu phần 3 - 5%/ngày. Có thể cung cấp cho cá thức ăn chế biến (như nuôi trong ao).
Thường xuyên theo dõi, kiểm tra cá, vệ sinh sàng ăn
sau khi cá ăn. Kiểm tra đáy bè để loại bỏ thức ăn thừa, lắng đọng ở đáy bè.
f. Thu hoạch
Nuôi từ 8 - 10 tháng, cá đạt cỡ thương phẩm 0,8 = 1,5 kg.
Phải ngưng cho ăn trước một ngày. Dùng lưới bắt từ từ, chuyển cá đi nhanh.
Theo Trung tâm Khuyến ngư Quốc gia
* Một số tài liệu cũ có thể bị lỗi font khi hiển thị do dùng bộ mã không phải Unikey ...

Người chia sẻ: Phan Ut
Dung lượng: | Lượt tài: 1
Loại file:
Nguồn : Chưa rõ
(Tài liệu chưa được thẩm định)