Kinh veda
Chia sẻ bởi Nông Thị Vân |
Ngày 18/03/2024 |
15
Chia sẻ tài liệu: kinh veda thuộc Toán học
Nội dung tài liệu:
THẦN THOẠI ẤN ĐỘ
Phạm Thị Minh Lý
I. Khái quát thời đại Vêđa
- Gọi thời đại Vêđa vì từ 1500 - 1000 năm trước CN, bộ Kinh Vêđa của tôn giáo Balamôn ra đời. Nó có một sức sống lâu bề và có ảnh hưởng sâu rộng trong đời sống xã hội người Ấn Độ cổ xưa. Tôn giáo, triết học, khoa học và văn học nghệ thuật dựa trên cơ sở Kinh Vêđa mà phát triển, tạo dựng nên một thời đại rực rỡ trong nền văn minh Ấn Độ.
- Ba nghìn năm trước, người Arian từ Địa Trung Hải vượt qua dãy núi Himalya đến định cư ở miền Bắc Ấn Độ. Ở đây họ thiết lập lên chế độ công xã nông thôn, đặt ra chế độ đẳng cấp phân chia xã hội thành 4 đẳng cấp.
Trong 4 đẳng cấp trên, đẳng cấp Balamôn là cao quý và có quyền thế nhất, ngay các bậc quân vương cũng phải kính trọng và phục tùng đẳng cấp này. Chế độ đẳng cấp đặt ra nhiều luật lệ phân biệt đẳng cấp khá khắt khe theo quan niệm chủng tính. Đẻ củng cố địa vị và phát triển tôn giáo Balamôn, tăng lữ Balamôn bắt tay sưu tầm thu thập, bổ sung chỉnh lí các câu hát, lời ca. lời cầu nguyện, những mẩu chuyện thần thánh, những phù chú ma thuật trong dân gian biên soạn thành bộ kinh Vêđa. Đó là cuốn sách tôn giáo cổ nhất thế giới.
* Qúa trình phát triển và đặc điểm.
- Thần toại Ấn Độ là sáng tác dân gian truyền miệnh của nhiều chủng tộc, nhièu địa phương kế thừa lẫn nhau trong quá trình phát triển đất nước Ấn Độ. Nói đến Ấn Độ người ta nghĩ ngay đến thế giới thần bí kì ảo đó. Kho tàng văn học dân gian giữ lại nhiều tập thần thoại nổi tiếng như: Vêđa, Upanixat, Purana, Phật thoại Buđa…
- Thần thoại Ấn Độ phát triển qua nhiều thời kì khác nhau và mỗi thời kì đó dều mang đặc điểm riêng của nó.
+ Thời kì tiền Vêđa: Trước khi người Arian xâm nhập đất Ấn Dộ thì các chủng tộc ở đây tôn thờ thần Núi, thần Sông, thần Cây cối, thần Rắn (Naga), thần Bò mộng ( Nanđi) và ma quỷ yêu tinh khác. Đặc biệt hộ tín ngưỡng thần Mẹ và thờ cúng âm lực, coi âm vật (Yôni) là nguồn gốc của mọi sáng tạo. Cạnh Yôni họ thờ dương vật (Linga), giống người Việt Nam thờ thần Đực Cái. Người Ấn Độ xưa tín ngưỡng như vậy muốn miêu tả ý niệm về sự sinh tồn. Họ cho rằng sự sinh sôi nảy nở trong trời đất là do đực cái kết hợp với nhau. Tín ngưỡng này ẩn giấu tính chất duy vật thô sơ, tự phát nguyên thuỷ, về sau dần dần bị thần bí hoá.
+ Thời kì Vêđa: Đến thời kì này khoảng 1500 trước CN, khi người Arian ào đất Ấn, hoà hợp với các dạng chủng tộc khác thì thần thoại rải rác trong các bộ tộc các địa phương, sắp xếp có hệ thống, tập trung lại trong Rig Vêđa. Đó là những câu ca, bài hát ca ngợi các lực lượng thiên nhiên mà họ tôn thờ và sùng bái. Lời bài hát của người Arian trong sáng, hồn nhiên, chân thực và lành mạnh. Trí tưởng tượng của họ bay bổng diệu kì. Họ miêu tả các vị thần thiên nhiên và vũ trụ như hình ảnh của họ. Họ đồng hoá các hoạt động và tình cảm của họ với những rung động và biến chuyển của tạo vật.
Các thần linh rất gần gũi và dễ thoả mãn những lời cầu nguyện của họ. Người ta miêu tả các vị thần đến dự lễ từ trên xe bước xuống nệm cỏ thiêng nhận bơ sữa, lúa gạo do con người dâng cúng, thần nốc cạn những tô rượu Sôma lớn. Sau khi no say, các thần nhảy múa, vui hát thoải mái, ban ân phước cho người mang lễ. Các vị thần đó thực ra là những con người bình đẳng trong cộng đồng người Arian được mô tả bằng biểu tượng thiên nhiên cụ thể và sinh động. Nội dung Rig Vêđa còn thể hiện sự đồng cảm gắn bó giữa con người và tạo vật. Tính lạc quan yêu đời, yêu lao động, những yếu tố tư duy lành mạnh có tính chất duy vật tự phát, hồn nhiên và ngây thơ đó của con người Ấn Độ thời thơ ấu là nét đặc sắc của nội dung Rig Vêđa.
+ Thời kì hậu Vêđa: Đây là thời kì chế độ đẳng cấp ngày càng được củng cố và phát triển, là quá trình hình thành tôn giáo Balamôn và triết lí duy tâm thần bí, thần thoại Ấn Độ từ đây trở đi troẻ nên phức tạp, tối tăm trừu tượng, huyền bí, ngày càng xa rời cuộc sống chân thực của con người. Lúc đầu bất cú vị thần siêu nhiên nào ở trong Rig Vêđa cũng đều có quyền lực như nhau, sáng tạo ra của cải vật chất,phục vụ đời sống con người và được con người sùng bái như nhau.
Vai trò mỗi thần linh có thể nổi bật lên hoặc lu mờ đều tuỳ thuộc vào sự ngưỡng mộ, sùng bái của nhân dân tuỳ từng nơi, từng lúc khác nhau. Về sau người ta quy tất cả quyền lực đó vào một đấng sáng tạo tối cao. Đấng sáng tạo từ chỗ một con người cụ thể trong bộ lạc, có thể là một tù trưởng, tộc trưởng hay một dũng sĩ tài ba nào đó được họ trừu tượng hoá thành một linh hồn tuyệt đối làm nguyên nhân duy nhất cho mọi vật. Đó là quá trình từ đa thần giáo nhất thần giáo trong lịch sử tôn giáo nói chung. Như vậy nhất thần luận quy tất cả các thần thiên nhiên trong Rig Vêđa vào một thần duy nhất cao hơn hết nhue là tất cả những cái nan hoa đều hướng vào trục bánh xe.
II. Hệ thống thần thoại Rig Vêđa
- Vêđa do từ gốc là Vid trong tiếng Sánkít có nghĩa là hiểu biết, sự hiệu biết sâu xa về mọi mặt. Người Ấn Độ cổ xưa quan niệm rằng khi con người ra đời thì thần thánh đã ban cho sự hiểu biết rồi. Sự hiểu biết đó cứ thế mà phát triển liên tục. Con người cần phải tìm sự hiểu biết đó. Vì vậy người Ấn Độ rất coi trọng sự hiểu biết. Tất cả sự hiểu biết có được đều tập trung lại trong tập Thân ca Vêđa. Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng Thần ca ra đời vào khoảng 1500 đến 1000 năm trước CN.
- Thần ca Vêđa có bốn tập, trong đó Rig Vêđa mang tính chất văn học nhiều nhất, chứa đựng nhiều truyện thần thoại và ra đời sớm nhất.
- Rig có nghĩa là tụng niệm, sau Rig Vêđa có thêm Soma Vêđa (ca vịnh), Yảu Vêđa (tế tự), Anthava Vêđa (phù chú, ma thuật). Sau đây chúng ta lần lượt tìm hiểu một số thần thoại trong Rig Vêđa.
1. Hệ thống thần vũ trụ, thiên nhiên.
- Hình ảnh gần gũi nhất mà người Ấn Độ xưa thờ là Trời - Đất, xem đó là đấng sáng tạo ra muôn loài. Họ gọi trời là Đyaux. Họ quan niệm trời đất luôn luôn gắn liền nhau. Đyaux và Ađiti (Đất mẹ)lấy nhau xinh ra các Ađitya. Các Ađitya đó là các thần linh gồm con người, cây cối, súc vật, tính nết, tình cảm. Lúc đầu có 7 Ađitya, sau lên tới mười hai và về sau là vô số.
- Ađitya được sinh ra để điều hành mọi sinh hoạt trong trời đất, trong vũ trụ, trong loài người. Các thần linh ở khắp ba cõi. Trời do thần mặt trời (Surya) cai quản, không trung hay cõi trung gian do thần Gío (Vâyu) cai quản. Đất hay hạ giới, do thần lửa (Agni) cai quản.
* Thần Surya ( Mặt trời) cai quản thiên giới. Surya có nguồn gốc trong tiếng Sanskit có nghĩa là sáng chói. Thần Surya có nguồn gốc của thời gian, là con mắt của vũ trụ, là nguyên nhân của ban ngày. Thần tồn tại mãi mãi, tất cả thần linh khác là thành phần của thần.
- Về hình tượng, Surya là thần mình màu đồng đỏ, tóc và râu mau vàng, ngự trên một chiếc xe chỉ có một bánh. Surya đội vương miệng và đeo vòng, tất cả đều toả hào quang chói lọi khắp mọi phương trời.
- Bằng những lời thơ giản dị và trong sáng, người Arian đã vẽ ra một bức tranh khá cụ thể và sinh động về một ngày hoạt động của thần Surya. Thần cuốn gọn màu đen u ám vứt xuống biển và toả sáng cho muôn loài.
Thần cưỡi chiếc xe có 7 con ngựa hồng dữ tợn kéo rất nhanh. Tối đến thần biến mất làm cho muôn loài mong đợi đến lúc nàng Rạng đông (Usa)bừng dậy dọn đường thì thần lại hiện ra. Thần tiếp tục mang niềm vui và ánh sáng cho muôn loài. Thần đi lửng lơ giữa không trung theo một con đường cố định. Có lúc thần phải giao chiến kịch liệt với quỷ sứ Mây và thần Mưa…Sau một ngày hoạt động mệt mỏi, thần được thần Đêm ôm ấp. Có lúc thần nô đùa suốt ngày với những làn mây nhẹ trên trời xanh, cuối cùng tắm mình trong hoàng hôn và biến mất. Hôm sau thần lại hiện ra và biến mất cứ như thế trên vòm trời.
- Thần thoại về Surya cho chúng ta nhiều tài liệu về chế độ hôn nhân trong thị tộc, về nguồn gốc của cải, y học và kĩ thuật nguuyên thuỷ của văn hoá Arian.
- Surya có 4 vợ: Samjnâ ( tri thức), Rajni ( hoàng hậu). Prabhây (ánh sáng), Châyâ (bóng tối). Surya có nhiều con trong đó có Yama (thần chết) và Manu (thuỷ tổ loài nguời). Người đầu tiên sống trên trần thế sau khi sinh ra Iksuaku, Iksuaku là người sáng lập ra triều đại mặt trời. Chàng sinh đuợc trăm ngươi con trai và trăm người con đó sinh ra vô số cháu chắt khác trong đó có người anh hùng Rama gần giống với Lạc Long Quân của Việt Nam
Có lúc thần rất oai hùng, có lúc thần rất hiền,
có lúc lại rất iận dữ hiếu chiến nhưng có lúc bé bỏng hôn
nhiên như trẻ thơ.
Những tia sáng chói đưa thần lên cao, thần biết hết khắp nơi.
Thần Surya, muôn loài trôn thấy được thần,
Những chòm sao không còn nháp nhánh,
Những kẻ gian đang lẩn trốn trước khi thần bừng lên nhìn
muôn loài.
Những tia sáng rọi từ xa rực rỡ trên thế giới của loài người.
Như những ngọn lửa bừng bừng cháy
( Rig Vêđa)
* Thần Gío (Vâyu) là thần cai quản không trung. đuợc coi là hơi thở của lửa, là sinh khí của vũ trụ, là mạch sống của muôn loài. Vâyu có nhiệm vụ làm trong sạch bầu trời và cùng với lửa chuyển các lễ vật cho thần linh.
- Về hình tượng: Vị thần mình trắng toát, hùng dũng, mang cung tên ngự trên một chiếc xe bằng vàng có ngựa kéo lao vút khắp bầu trời. Có lúc thần lang thang khắp nẻo đường trên không trung, thần không ngủ, không nghỉ chân lúc nào. Thân sinh ra trước muôn loài, thần là mầm sống của thế gian, là hồn sống của các thần, thần chuyển động và làm theo ý muốn của mình. Ngoài tính cách nhanh nhẹn, hùng mạnh Vâyu còn là một vị thần đa tình với các vũ nữ thiên thần.
Thần ngồi trên chiếc xe cùng các bộ hạ có hàng ngàn con ngựa kéo.
Thần bay vun vú, thần là vua của vũ trụ bao la.
Lang thang khắp các nẻo đường trên những tầng không,
Thần không nghỉ cũng không ngủ tí nào.
(Rig Vêđa)
Vâyu đã từng chọc ghẹo vũ nữ Angiana mà đẻ ra giống khỉ Hanuman, nhân vật có tài thân thông biến hoá được miêu tả trong sử thi Ramyana và Mahabharata.
* Thần Agni (thần Lửa)
- Trong thần thoại Ấn Độ thần Agni được coi là một vị thần khá quan trọng có ảnh hưởng rất lớn trong đời sống con người cho nên Agni được ca ngợi nhiều nhất. Trong Rig Vêđa có hơn 200 bài ca ngợi thần này.
- Về hình tượng: Agni có bảy đầu rực lửa, bảy đùi, bảy cánh tay, bảy lưỡi, Agni ở bảy nơi và được bảy người sùng bái, bảy anh em, bảy thức ăn. Trong Rig Vêđa Agni được miêu tả rất dịu dàng, hiền hậu, yêu thương mọi người, mọi vật, sẵn sàng cấp đồ ăn cho mọi người làm cho mọi người giàu có thêm
Hỡi Agni! Người giàu có, hãy cấp cho gấp chúng tôi nhiều của cải nhiều thịt như những người khác đã nhờ Agni mà có nhiều của cải, nhiều đồ ăn và con cái!
Hỡi Agni! Hãy đem ánh sáng đến đây và chia đều bò cái cho chúng tôi.
(Rig Vêđa)
Về sau tôn giáo Balamôn biến thần Ani thành thầy cúng làm cầu nối trời và đất, thần với người trong các buổi lễ hiến tế.
2. Hệ thống tần sáng tạo và thuỷ tổ loài người.
- Những con người đầu tiên của loà người được miêu tả trong thần thoại Ấn Độ là Visuakacma hay Toastri (người sáng chế), Pragiapati (Thuỷ tổ loài nguời), Purusa (Người khổng lồ) và Manu (Người nguyên thuỷ).
- Visuakacma có nghĩa là làm ra thế giới. Người Ấn Độ xưa cho rằng Visuakacma là người đầu tiên làm ra nhà ở, rèn đúc vũ khí và công cụ cho các thần dùng.
- Chuyện kể rằng xưa kia các thần sống thành ba gana (thị tộc): Vasu, Ruđra, Aditya. Ba gana này do đấng Pragiâpti sáng tạo ra, sau đó Pragiapati phát cho các thần một ngọn lửa để thờ chung. Một năm sau ngọn lửa đó sinh ra một con bò cái, Pragiapati giao con bò cái đó cho gana Vasu nuôi trước, con bò này đẻ ra được 333 con bò cái khác. Pragiapati lại giao con bò gốc cho gana Ruđra nuôi, gana này cũng được 333 con bò cái; Sau đó giao cho gana Ađitya nuôi, gana này cũng có số bò như vậy. Thế là nhờ có Pragiapati và sự cố gắng của các thần mà từ một con bò cái lại có thêm 999 con bò cái khác, cộng cả thảy 1000 con bò. Số bò đó nhập lại chia cho ba gana. Cứ như vậy các gana phát triển ngày càng đông đúc.
- Ý nghĩa của câu chuyện trên.
+ Phản ánh sự phất triển các thị tộc, từ ba gana trở thành cộng đồng thị tộc. Nó được tổ chức theo tinh thần dân chủ bình đẳng nguyên thuỷ, mọi người cùng làm cùng hưởng.
+ Pragipati trong chuyện là một người cụ thể, có thể là tù trưởng bộ lạc điều khiển đời sống của cộng đồng. Prigiapati chưa phải là đấng sáng tạo trừu tượng, về sau tôn giáo Balamôn thần bí hoá tôn thờ như đấng sáng tạo.
+ Ngọn lửa mà các thần thờ chung tiêu biểu cho tinh thần cộng đồng nói trên. Quyền sở hữu của cộng đồng vẫn còn rất thiêng liêng. Những con xố 1, 3, 333, 999, 1000 thật không ngẫu nhiên mà nõ mang ý nghĩa tượng trưng đặc biệt về mặt phát triển xã hội loài người.
- Cuối thời đại Vêđa, người Ấn Độ xưa ca ngợi và thờ người khổng lồ (Purusa). Họ quan niệm rằng chính Người khổng lồ là nguồn gốc vũ trụ và muôn loài, sinh ra mọi thứ trên cõi đời từ chất béo cho đến bài ca trăng và rượu ngọt. Con người có mặt trong xã hội người Ấn Độ cũng do Purusa sinh ra và được xếp lại như sau: Mồm của người khổng lồ ư? Đó là người Balamôn. Tay ư? Là người Ragianya (về sau là Ksatrya, đẳng cấp quý tộc, vua chúa và võ sĩ). Đùi ư? Là người Vaisya (người chăn nuôi, canh tác, thủ công). Còn bàn chân ư? Là người Suđra (nô lệ cùng đinh). Đó là dấu hiệu xã hội người Ấn Độ xưa đã bắt đầu phân hoá thành đẳng cấp.
- Thần thoại cuối cùng về con người nguyên thuỷ là truyện Manu (Thuỷ tổ của loài người). Nghĩa gốc Manu là người.
+ Theo truyền thuyết, Pragiapati và Manu là con cháu của đấng Brahma. Tên Manu dùng để chỉ tổ tiên loài người thuộc thế hệ 14 đã cai quản trần thế. Mỗi Manu như vậy trị vì một thời gian dài 4.320.000 năm của trần thế
Gọi là thời đại Manu
+ Manu đầu tiên là tinh thần tuyệt đối của Brahma. Brahama tự tách mình làm đôi thành hai cực âm dương hay đực cái. Âm dương kết hợp nhau mà sinh ra Manu hay Suayabhuva là đấng tự tồn tự tại.
+ Manu đầu tiên làm ra bộ luật Manu, các Manu sau căn cứ vào đó mà cai quản thế giới.
Về sau có rất nhiều chuyện kể về Manu được ghi lại trong các tập thần thoại Satapatha Brahmana, trong sử thử Mahabharata. Những chuyện đó dần dần lẫn lộn giữa thần thoại và truyền thuyết.
3. Hệ thống thần tinh thần, tình cảm.
- Thần Kama: Là thần tình yêu
+ Người Arian quan niệm Kama là một sự vận động đầu tiên của vũ trụ, sau đó chuyển vào cuộc sống, làm phấn chấn và lôi cuốn muôn loài, muôn vật.
+ “Kama là mầm sống của lòng người, của trí tuệ, là sợi dây rằng buộc cái bản thể với cái không bản thể” (Rig Veda). Về sau họ xem Kama như biểu tượng thần linh cao cả và tự tại. “Kama có trước tất cẩ, Kama là tự tại, chẳng ai sinh ra nên gọi là Agia thần thánh, tổ tiên và là người đều ở dưới Kama ở sau Kama và do Kama đẻ ra cả”.
+ Kama tồn tại trong vũ trụ, ở xung quanh con người, có tác động rất lớn đến sự sống con người, vì vậy mà người đời luôn luôn ước mong Kama đến với mình, khao khát được gặp Kama. Kama trở thành vị thần trong tưởng tượng của người Ấn Độ xưa.
+ Về hình tượng, Kama được miêu tả như một chàng trai tuấn tú, ngồi trên chiếc xe do chim vẹt kéo, cầm chiếc cung, cánh bằng cây mía uốn cong, dây cung do đàn ong kết cánh lại với nhau, mũi tên làm bằng hoa soài mềm mại, cạnh chàng có vợ là nàng Rati (say đắm). Sau chàng có chúa xuân Vaxanta là bạn chàng, có các chàng trai thiên thần say đắm, yêu đương Ganđacva, và các vũ nữ Apxara.
+ Thần tình yêu được mô tả như vậy là một biểu hiện độc đáo của nghệ thuật dân gian Ấn Độ. Thiên nhiên gắn liền với tình cảm con người và dung cái đẹp thiên nhiên để làm biểu tượng cho cái đẹp của con người.
+ Thần Kama từ một khái niệm về sự sinh sôi, nảy nở của vũ trụ, của muôn loài trở thành nguồn trữ tình đắm đuối của con người. Cũng vì thế mà thần Kama dù là thần nhưng làm cho các thần theo chủ nghĩa khổ hạnh không còn giữ được phẩm chất.
+ Sau thần Kama, chúng ta tìm hiểu them thần thoại về ba nghệ nhân thiên thần Ganđacva, Kinnara, Apxara, những nhân vật yêu đương thiết tha, đều ở dưới quyền của Kama.
+ Ganđacva được thần thoại miêu tả như những nhân vật chúc rượu Sooma và ca hát nhảy múa trong các buổi yến tiệc của thần thánh trên thiên cung. Thực tế là những thanh niên thổ dân ở miền bắc Ấn Độ, nơi có phong cảnh đẹp đẽ, hữu tình, có nhiều rượu ngọt, giống người ở đó thích ca hát, nhảy múa. Họ sống tự do không chịu theo một lễ giáo mà chuyên đi tìm gái và tự do kết hôn không cần phép tắc của cha mẹ, xã hội. Lối kết hôn đó còn gọi là lối kết hôn Ganđacva. Về sau luật phấp nhà nước nô lệ, phong kiến cấm đoán lối luyến ái phóng túng này, chỉ dành riêng quyền đó cho vua chúa để họ tha hồ chọn cung tần, mĩ nữ. Thần thoại miêu tả Ganđacva đầu người, mình chim, còn thần đầu người mình ngựa là Kinnara.
+ Apxara, có nghĩa là lượn trong nước. Apxara thường sống dưới nước hình dáng rất đẹp, thích bơi lượn múa hát, thường bị các chàng trai Ganđacva đến trêu ghẹo, thu giấu áo quần khi các cô đang tắm dưới sông hồ. Apxara cũng hay khêu gợi, có khả năng phá các phép tu khổ hạnh cho nhiều tu sĩ phải siêu long.
Hình tượng Ganđacva, Kinnara, Apxara từ thần thoại đã đi vào nghệ thuật điêu khắc, hội họa. Điệu múa Apxara được phổ biến rộng khắp Đông Nam Á. Trong hệ thống thần tinh thần, tình cảm cìn có thần Yama (thần chết) cũng là vị thần quan trọng có quyền lực đối với muôn vật.
4. Hệ thống thần thoại bộ ba thần tượng Trimurti:
Brahma – Visnus – Siva
a. Thần thoại Brahma
- Có nhiều truyện kể khác nhau về sự ra đời của thần Brahma. Có truyện kể rằng Brahma ra đời là do cuộc phối hợp giữa Đấng tối cao và năng lực của thần là Maya. Một truyện khác nói brahma sinh ra từ quả trứng vàng trôi lềnh bềnh trên biển nguyên thuỷ vô bờ bến. Sauk hi nằm trong trứng một năm, Brahma chia trứng làm đôi, nửa ạc hoá thành đất, nửa vàng hoá thành trời, màng dày của lòng trắng hoá thành núi non, màng mỏng của lòng đỏ hoá thành sương mù và mây, những tia máu thành sông, nước lòng đỏ thanhf biển. Một truyện thứ ba khá phổ biến cho rằng Brahma còn có tên là Nabhigia hoặc Abgiagia. Brahma có năm đầu, nhưng về sau bị thần Siva (thần phá huỷ huỷ mất một đầu).
- Người Blamôn quy tất cả công lao sang tạo về cho Đấng Brahma và miêu tả thần có màu da đỏ hồng. Brahma có 4 cánh tay, cánh tay thứ nhất cầm kinh Vêđa tay thứ hai cầm trượng, tay thứ ba cầm cung, tay thứ tư cầm bình nước. Hình ảnh thông thường là một người có bốn đầu mang hàm râu cưỡi con thiên nga.
Thần thoại Brahma ít hơn thần thoại Visnu và Siva, và nhân vật Brahma, có chỗ lẫn lộn với thần Visnu và Siva, và nhân vật Brahma trong trường hợp đó không quan trọng lắm đối với cốt truyện. Brahma vốn là ý niệm triết học duy tâm thần bí do đẳng cấp tu sĩ Balamôn đặt ra không phải bắt nguồn từ tín ngưỡng dân gian, cho nên thần tượng này càn trừu tượng, siêu hình.
b. Thần thoại Visnu ( thần Bảo vệ)
- Visnu có từ rất sớm trong Rig Vêđa. Lúc đầu Visnu là thuộc tính của mặt trời, là thần lực của mặt trời. Sau này Visnu thu hút cả thuộc tính Inđra, trở thành lực lượng chinh chiến hùng mạnh nhất bảo vệ thế gian. Lực lượng này được quy là thần bảo vệ, được đưa vào thần phả của đạo Hinđu, suy tôn thành đấng duy nhất tự tồn tự tại. Người ta còn mệnh danh Visnu bằng những danh hiệu vô cùng tốt đẹp như Thánh của các Thánh.
Hình tượng Visnu được miêu tả dưới nhiều hình dạng khác nhau. Hình ảnh thông thường nhất là Visnu nằm trên Rắn thần bồng bềnh trên mặt biển vô biên.
Sách Bharavata kể 20 kiếp nhưng phổ biến nhất là có 10 kiếp hoá thân của Visnu được lưu truyền đố là 5 kiếp vật và năm kiếp người. 5 kiếp vật là năm tù trưởng mang tên vật tổ của thị tộc mình đã có công gây dựng và bảo vệ bộ lạc. 5 kiếp người thực tế là 5 nhân vật truyền thuyết quan trọng của Ấn Độ cổ đại
+ Kiếp cá
+ Kiếp rùa
+ Kiếp lợn rừng
+ Kiếp sư tử
+ Kiếp người lùn
+ Kiếp Rama cầm rừu
+ Kiếp của hoàng tử Rama
+ Kiếp thần đồng Krisna
+ Kiếp của Đức phật Buda
+ Kiếp Kalki
Đó là mơ ước của con người Ấn Độ muốn thoát khỏi cảnh đau khổ của xã hội có giai cấp nhưng không nhận ra nguyên nhân đau khổ chính là ở chỗ xã hội có giai cấp người bóc lột người để nhắm vào đó mà đấu tranh tiêu diệt giai cấp xây dựng thiên đường hay “Niết Bàn” thực sự. Họ chỉ còn cách ngoảnh lại quá khứ xa săm luyến tiếc các thời đại cộng đồng nguyên thủy – Thời đại hoàng kim xa xưa ấy. Không có cách gì tái hiện nó trong đời sống thực tế nữa. Buộc con người Ấn Độ biến cái ước vọng đó thành những lí tưởng siêu hình mông lung của tôn giáo.
c. Thần Siva (thần Phá hủy)
- Siva mang đặc tính vừa thiện vừa ác, vừa hiền vừa dữ, vừa xây dựng vừa phá hủy đồng nhất trong một nhiệm vụ chính là phá hủy. Đó là quan niệm triết lí về sự sống sự chết sự tồn tại và hủy diệt của người Ấn Độ cổ xưa. Nói rõ hơn không có sự sống nào không tiến tới hủy diệt, chính do có hủy diệt mà có thể có đời sống. Sống và chết không chỉ nối tiếp nhau mà còn đồng nhất với nhau. Trong sự sống cũng có cái chết dần. Trong sự chết hủy diệt cũng có cái sống đang nảy mầm và nở lộc.
- Do đó Siva được coi là vị thần ác và là vị thần thiện reo rắc hạnh phúc cho con người. Hình tượng được phổ cập nhất là Siva đang đứng theo một điệu múa chân phải dẫm lên một người lùn, chân trái nâng cao và chéo sang bên phải. Siva có bốn cánh tay. Bàn tay phải cầm trống, bàn tay trái cầm ngọn lửa, bàn tay phải phía dưới xòe ra và chĩa lên trời biểu thị một ấn quyết, cánh tay trái đưa chéo sang bên phải và bàn tay chĩa xuống đất. Thần thoại Siva bao hàm ý niệm về sự sinh sôi nảy nở trong trời đất. Sự thờ cúng Siva gắn liền với nghề nông.
=> Thần thoại bộ ba thần tượng Trimurti biểu hiện ba thuộc tính vừa đối lập vừa thống nhất có mối liên hệ nhân quả với nhau trong từng chức năng. Sáng tạo để bảo vệ rồi hủy diệt, hủy diệt để sáng tạo rồi bảo vệ, bảo vệ rồi hủy diệt, rồi sáng tạo. Cứ như thế tiếp diễn thay đeo những chu kì luân hổi bất tận. Tuy chia ba chức năng nhưng các thần đều quy về một mối, chẳng phải chỉ đồng nhất trong bản thể và nguồn gốc vì thế mà trong nhiều ngôi đền Ấn Độ giáo người ta thấy hình ảnh ba vị thần đã thể hiện cái đầu ba mặt. Rút cục sự hòa hợp các giáo phát thành nhất thần luận bằng bộ ba Trimurti là ý muốn tốt đẹp của nhân dân Ấn Độ và trở thành truyền thống đấu tranh cho sự hòa hợp dân tộc.
III. Gía trị và hạn chế của thần thoại Ấn Độ
Tác giả của thần thoại Ấn Độ chính là nghệ sĩ dân gian ở các thời đại. Ngày nay nhiều nhà Ấn Độ học đánh giá cao giá trị nghệ thuật của thần thoại đó. Đặc biệt tập Rig Vêda là tác phẩm có giá trị đặc sắc nhất.
Mang gía trị hiện thực, là bức tranh sinh hoạt của người Ấn Độ cổ đại sinh động và chân thực.
Giàu hình ảnh tượng trưng và phóng đại. Nhiều thủ lĩnh quân sự, tù trưởng, các bộ lạc...đều được thần thoại mô tả bằng những hình ảnh tượng trưng và phóng đại qua cuộc đấu tranh thiên nhiên và xã hội. Đặc biệt là nghệ thuật nhân cách hóa trong thần thoại Ấn Độ cổ xưa thể hiện khiếu thẩm mĩ của họ thật đáng khâm phục.
Đề tài trong thần thoại Ấn Độ cũng rất phong phú, những bài ca những nguyện vọng, những thắc mắc và các điều lo âu sợ hãi, mừng vui, rung cảm...đều được miêu tả bằng thần thoại.
Về hình thức, thần thoại Ấn Độ rất đa dạng, có thể tìm thấy màu sắc, mầm mống sử thi trong những truyện miêu tả các thần linh như bài ca ca ngợi thần Indra hay hình thức kịch trong trong truyện đối đáp.
Bên cạnh đó ta con thấy một số hạn chế ở nội dung như: đều bị tư tưởng tôn giáo và triết lí thần bí chi phối.
Phạm Thị Minh Lý
I. Khái quát thời đại Vêđa
- Gọi thời đại Vêđa vì từ 1500 - 1000 năm trước CN, bộ Kinh Vêđa của tôn giáo Balamôn ra đời. Nó có một sức sống lâu bề và có ảnh hưởng sâu rộng trong đời sống xã hội người Ấn Độ cổ xưa. Tôn giáo, triết học, khoa học và văn học nghệ thuật dựa trên cơ sở Kinh Vêđa mà phát triển, tạo dựng nên một thời đại rực rỡ trong nền văn minh Ấn Độ.
- Ba nghìn năm trước, người Arian từ Địa Trung Hải vượt qua dãy núi Himalya đến định cư ở miền Bắc Ấn Độ. Ở đây họ thiết lập lên chế độ công xã nông thôn, đặt ra chế độ đẳng cấp phân chia xã hội thành 4 đẳng cấp.
Trong 4 đẳng cấp trên, đẳng cấp Balamôn là cao quý và có quyền thế nhất, ngay các bậc quân vương cũng phải kính trọng và phục tùng đẳng cấp này. Chế độ đẳng cấp đặt ra nhiều luật lệ phân biệt đẳng cấp khá khắt khe theo quan niệm chủng tính. Đẻ củng cố địa vị và phát triển tôn giáo Balamôn, tăng lữ Balamôn bắt tay sưu tầm thu thập, bổ sung chỉnh lí các câu hát, lời ca. lời cầu nguyện, những mẩu chuyện thần thánh, những phù chú ma thuật trong dân gian biên soạn thành bộ kinh Vêđa. Đó là cuốn sách tôn giáo cổ nhất thế giới.
* Qúa trình phát triển và đặc điểm.
- Thần toại Ấn Độ là sáng tác dân gian truyền miệnh của nhiều chủng tộc, nhièu địa phương kế thừa lẫn nhau trong quá trình phát triển đất nước Ấn Độ. Nói đến Ấn Độ người ta nghĩ ngay đến thế giới thần bí kì ảo đó. Kho tàng văn học dân gian giữ lại nhiều tập thần thoại nổi tiếng như: Vêđa, Upanixat, Purana, Phật thoại Buđa…
- Thần thoại Ấn Độ phát triển qua nhiều thời kì khác nhau và mỗi thời kì đó dều mang đặc điểm riêng của nó.
+ Thời kì tiền Vêđa: Trước khi người Arian xâm nhập đất Ấn Dộ thì các chủng tộc ở đây tôn thờ thần Núi, thần Sông, thần Cây cối, thần Rắn (Naga), thần Bò mộng ( Nanđi) và ma quỷ yêu tinh khác. Đặc biệt hộ tín ngưỡng thần Mẹ và thờ cúng âm lực, coi âm vật (Yôni) là nguồn gốc của mọi sáng tạo. Cạnh Yôni họ thờ dương vật (Linga), giống người Việt Nam thờ thần Đực Cái. Người Ấn Độ xưa tín ngưỡng như vậy muốn miêu tả ý niệm về sự sinh tồn. Họ cho rằng sự sinh sôi nảy nở trong trời đất là do đực cái kết hợp với nhau. Tín ngưỡng này ẩn giấu tính chất duy vật thô sơ, tự phát nguyên thuỷ, về sau dần dần bị thần bí hoá.
+ Thời kì Vêđa: Đến thời kì này khoảng 1500 trước CN, khi người Arian ào đất Ấn, hoà hợp với các dạng chủng tộc khác thì thần thoại rải rác trong các bộ tộc các địa phương, sắp xếp có hệ thống, tập trung lại trong Rig Vêđa. Đó là những câu ca, bài hát ca ngợi các lực lượng thiên nhiên mà họ tôn thờ và sùng bái. Lời bài hát của người Arian trong sáng, hồn nhiên, chân thực và lành mạnh. Trí tưởng tượng của họ bay bổng diệu kì. Họ miêu tả các vị thần thiên nhiên và vũ trụ như hình ảnh của họ. Họ đồng hoá các hoạt động và tình cảm của họ với những rung động và biến chuyển của tạo vật.
Các thần linh rất gần gũi và dễ thoả mãn những lời cầu nguyện của họ. Người ta miêu tả các vị thần đến dự lễ từ trên xe bước xuống nệm cỏ thiêng nhận bơ sữa, lúa gạo do con người dâng cúng, thần nốc cạn những tô rượu Sôma lớn. Sau khi no say, các thần nhảy múa, vui hát thoải mái, ban ân phước cho người mang lễ. Các vị thần đó thực ra là những con người bình đẳng trong cộng đồng người Arian được mô tả bằng biểu tượng thiên nhiên cụ thể và sinh động. Nội dung Rig Vêđa còn thể hiện sự đồng cảm gắn bó giữa con người và tạo vật. Tính lạc quan yêu đời, yêu lao động, những yếu tố tư duy lành mạnh có tính chất duy vật tự phát, hồn nhiên và ngây thơ đó của con người Ấn Độ thời thơ ấu là nét đặc sắc của nội dung Rig Vêđa.
+ Thời kì hậu Vêđa: Đây là thời kì chế độ đẳng cấp ngày càng được củng cố và phát triển, là quá trình hình thành tôn giáo Balamôn và triết lí duy tâm thần bí, thần thoại Ấn Độ từ đây trở đi troẻ nên phức tạp, tối tăm trừu tượng, huyền bí, ngày càng xa rời cuộc sống chân thực của con người. Lúc đầu bất cú vị thần siêu nhiên nào ở trong Rig Vêđa cũng đều có quyền lực như nhau, sáng tạo ra của cải vật chất,phục vụ đời sống con người và được con người sùng bái như nhau.
Vai trò mỗi thần linh có thể nổi bật lên hoặc lu mờ đều tuỳ thuộc vào sự ngưỡng mộ, sùng bái của nhân dân tuỳ từng nơi, từng lúc khác nhau. Về sau người ta quy tất cả quyền lực đó vào một đấng sáng tạo tối cao. Đấng sáng tạo từ chỗ một con người cụ thể trong bộ lạc, có thể là một tù trưởng, tộc trưởng hay một dũng sĩ tài ba nào đó được họ trừu tượng hoá thành một linh hồn tuyệt đối làm nguyên nhân duy nhất cho mọi vật. Đó là quá trình từ đa thần giáo nhất thần giáo trong lịch sử tôn giáo nói chung. Như vậy nhất thần luận quy tất cả các thần thiên nhiên trong Rig Vêđa vào một thần duy nhất cao hơn hết nhue là tất cả những cái nan hoa đều hướng vào trục bánh xe.
II. Hệ thống thần thoại Rig Vêđa
- Vêđa do từ gốc là Vid trong tiếng Sánkít có nghĩa là hiểu biết, sự hiệu biết sâu xa về mọi mặt. Người Ấn Độ cổ xưa quan niệm rằng khi con người ra đời thì thần thánh đã ban cho sự hiểu biết rồi. Sự hiểu biết đó cứ thế mà phát triển liên tục. Con người cần phải tìm sự hiểu biết đó. Vì vậy người Ấn Độ rất coi trọng sự hiểu biết. Tất cả sự hiểu biết có được đều tập trung lại trong tập Thân ca Vêđa. Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng Thần ca ra đời vào khoảng 1500 đến 1000 năm trước CN.
- Thần ca Vêđa có bốn tập, trong đó Rig Vêđa mang tính chất văn học nhiều nhất, chứa đựng nhiều truyện thần thoại và ra đời sớm nhất.
- Rig có nghĩa là tụng niệm, sau Rig Vêđa có thêm Soma Vêđa (ca vịnh), Yảu Vêđa (tế tự), Anthava Vêđa (phù chú, ma thuật). Sau đây chúng ta lần lượt tìm hiểu một số thần thoại trong Rig Vêđa.
1. Hệ thống thần vũ trụ, thiên nhiên.
- Hình ảnh gần gũi nhất mà người Ấn Độ xưa thờ là Trời - Đất, xem đó là đấng sáng tạo ra muôn loài. Họ gọi trời là Đyaux. Họ quan niệm trời đất luôn luôn gắn liền nhau. Đyaux và Ađiti (Đất mẹ)lấy nhau xinh ra các Ađitya. Các Ađitya đó là các thần linh gồm con người, cây cối, súc vật, tính nết, tình cảm. Lúc đầu có 7 Ađitya, sau lên tới mười hai và về sau là vô số.
- Ađitya được sinh ra để điều hành mọi sinh hoạt trong trời đất, trong vũ trụ, trong loài người. Các thần linh ở khắp ba cõi. Trời do thần mặt trời (Surya) cai quản, không trung hay cõi trung gian do thần Gío (Vâyu) cai quản. Đất hay hạ giới, do thần lửa (Agni) cai quản.
* Thần Surya ( Mặt trời) cai quản thiên giới. Surya có nguồn gốc trong tiếng Sanskit có nghĩa là sáng chói. Thần Surya có nguồn gốc của thời gian, là con mắt của vũ trụ, là nguyên nhân của ban ngày. Thần tồn tại mãi mãi, tất cả thần linh khác là thành phần của thần.
- Về hình tượng, Surya là thần mình màu đồng đỏ, tóc và râu mau vàng, ngự trên một chiếc xe chỉ có một bánh. Surya đội vương miệng và đeo vòng, tất cả đều toả hào quang chói lọi khắp mọi phương trời.
- Bằng những lời thơ giản dị và trong sáng, người Arian đã vẽ ra một bức tranh khá cụ thể và sinh động về một ngày hoạt động của thần Surya. Thần cuốn gọn màu đen u ám vứt xuống biển và toả sáng cho muôn loài.
Thần cưỡi chiếc xe có 7 con ngựa hồng dữ tợn kéo rất nhanh. Tối đến thần biến mất làm cho muôn loài mong đợi đến lúc nàng Rạng đông (Usa)bừng dậy dọn đường thì thần lại hiện ra. Thần tiếp tục mang niềm vui và ánh sáng cho muôn loài. Thần đi lửng lơ giữa không trung theo một con đường cố định. Có lúc thần phải giao chiến kịch liệt với quỷ sứ Mây và thần Mưa…Sau một ngày hoạt động mệt mỏi, thần được thần Đêm ôm ấp. Có lúc thần nô đùa suốt ngày với những làn mây nhẹ trên trời xanh, cuối cùng tắm mình trong hoàng hôn và biến mất. Hôm sau thần lại hiện ra và biến mất cứ như thế trên vòm trời.
- Thần thoại về Surya cho chúng ta nhiều tài liệu về chế độ hôn nhân trong thị tộc, về nguồn gốc của cải, y học và kĩ thuật nguuyên thuỷ của văn hoá Arian.
- Surya có 4 vợ: Samjnâ ( tri thức), Rajni ( hoàng hậu). Prabhây (ánh sáng), Châyâ (bóng tối). Surya có nhiều con trong đó có Yama (thần chết) và Manu (thuỷ tổ loài nguời). Người đầu tiên sống trên trần thế sau khi sinh ra Iksuaku, Iksuaku là người sáng lập ra triều đại mặt trời. Chàng sinh đuợc trăm ngươi con trai và trăm người con đó sinh ra vô số cháu chắt khác trong đó có người anh hùng Rama gần giống với Lạc Long Quân của Việt Nam
Có lúc thần rất oai hùng, có lúc thần rất hiền,
có lúc lại rất iận dữ hiếu chiến nhưng có lúc bé bỏng hôn
nhiên như trẻ thơ.
Những tia sáng chói đưa thần lên cao, thần biết hết khắp nơi.
Thần Surya, muôn loài trôn thấy được thần,
Những chòm sao không còn nháp nhánh,
Những kẻ gian đang lẩn trốn trước khi thần bừng lên nhìn
muôn loài.
Những tia sáng rọi từ xa rực rỡ trên thế giới của loài người.
Như những ngọn lửa bừng bừng cháy
( Rig Vêđa)
* Thần Gío (Vâyu) là thần cai quản không trung. đuợc coi là hơi thở của lửa, là sinh khí của vũ trụ, là mạch sống của muôn loài. Vâyu có nhiệm vụ làm trong sạch bầu trời và cùng với lửa chuyển các lễ vật cho thần linh.
- Về hình tượng: Vị thần mình trắng toát, hùng dũng, mang cung tên ngự trên một chiếc xe bằng vàng có ngựa kéo lao vút khắp bầu trời. Có lúc thần lang thang khắp nẻo đường trên không trung, thần không ngủ, không nghỉ chân lúc nào. Thân sinh ra trước muôn loài, thần là mầm sống của thế gian, là hồn sống của các thần, thần chuyển động và làm theo ý muốn của mình. Ngoài tính cách nhanh nhẹn, hùng mạnh Vâyu còn là một vị thần đa tình với các vũ nữ thiên thần.
Thần ngồi trên chiếc xe cùng các bộ hạ có hàng ngàn con ngựa kéo.
Thần bay vun vú, thần là vua của vũ trụ bao la.
Lang thang khắp các nẻo đường trên những tầng không,
Thần không nghỉ cũng không ngủ tí nào.
(Rig Vêđa)
Vâyu đã từng chọc ghẹo vũ nữ Angiana mà đẻ ra giống khỉ Hanuman, nhân vật có tài thân thông biến hoá được miêu tả trong sử thi Ramyana và Mahabharata.
* Thần Agni (thần Lửa)
- Trong thần thoại Ấn Độ thần Agni được coi là một vị thần khá quan trọng có ảnh hưởng rất lớn trong đời sống con người cho nên Agni được ca ngợi nhiều nhất. Trong Rig Vêđa có hơn 200 bài ca ngợi thần này.
- Về hình tượng: Agni có bảy đầu rực lửa, bảy đùi, bảy cánh tay, bảy lưỡi, Agni ở bảy nơi và được bảy người sùng bái, bảy anh em, bảy thức ăn. Trong Rig Vêđa Agni được miêu tả rất dịu dàng, hiền hậu, yêu thương mọi người, mọi vật, sẵn sàng cấp đồ ăn cho mọi người làm cho mọi người giàu có thêm
Hỡi Agni! Người giàu có, hãy cấp cho gấp chúng tôi nhiều của cải nhiều thịt như những người khác đã nhờ Agni mà có nhiều của cải, nhiều đồ ăn và con cái!
Hỡi Agni! Hãy đem ánh sáng đến đây và chia đều bò cái cho chúng tôi.
(Rig Vêđa)
Về sau tôn giáo Balamôn biến thần Ani thành thầy cúng làm cầu nối trời và đất, thần với người trong các buổi lễ hiến tế.
2. Hệ thống tần sáng tạo và thuỷ tổ loài người.
- Những con người đầu tiên của loà người được miêu tả trong thần thoại Ấn Độ là Visuakacma hay Toastri (người sáng chế), Pragiapati (Thuỷ tổ loài nguời), Purusa (Người khổng lồ) và Manu (Người nguyên thuỷ).
- Visuakacma có nghĩa là làm ra thế giới. Người Ấn Độ xưa cho rằng Visuakacma là người đầu tiên làm ra nhà ở, rèn đúc vũ khí và công cụ cho các thần dùng.
- Chuyện kể rằng xưa kia các thần sống thành ba gana (thị tộc): Vasu, Ruđra, Aditya. Ba gana này do đấng Pragiâpti sáng tạo ra, sau đó Pragiapati phát cho các thần một ngọn lửa để thờ chung. Một năm sau ngọn lửa đó sinh ra một con bò cái, Pragiapati giao con bò cái đó cho gana Vasu nuôi trước, con bò này đẻ ra được 333 con bò cái khác. Pragiapati lại giao con bò gốc cho gana Ruđra nuôi, gana này cũng được 333 con bò cái; Sau đó giao cho gana Ađitya nuôi, gana này cũng có số bò như vậy. Thế là nhờ có Pragiapati và sự cố gắng của các thần mà từ một con bò cái lại có thêm 999 con bò cái khác, cộng cả thảy 1000 con bò. Số bò đó nhập lại chia cho ba gana. Cứ như vậy các gana phát triển ngày càng đông đúc.
- Ý nghĩa của câu chuyện trên.
+ Phản ánh sự phất triển các thị tộc, từ ba gana trở thành cộng đồng thị tộc. Nó được tổ chức theo tinh thần dân chủ bình đẳng nguyên thuỷ, mọi người cùng làm cùng hưởng.
+ Pragipati trong chuyện là một người cụ thể, có thể là tù trưởng bộ lạc điều khiển đời sống của cộng đồng. Prigiapati chưa phải là đấng sáng tạo trừu tượng, về sau tôn giáo Balamôn thần bí hoá tôn thờ như đấng sáng tạo.
+ Ngọn lửa mà các thần thờ chung tiêu biểu cho tinh thần cộng đồng nói trên. Quyền sở hữu của cộng đồng vẫn còn rất thiêng liêng. Những con xố 1, 3, 333, 999, 1000 thật không ngẫu nhiên mà nõ mang ý nghĩa tượng trưng đặc biệt về mặt phát triển xã hội loài người.
- Cuối thời đại Vêđa, người Ấn Độ xưa ca ngợi và thờ người khổng lồ (Purusa). Họ quan niệm rằng chính Người khổng lồ là nguồn gốc vũ trụ và muôn loài, sinh ra mọi thứ trên cõi đời từ chất béo cho đến bài ca trăng và rượu ngọt. Con người có mặt trong xã hội người Ấn Độ cũng do Purusa sinh ra và được xếp lại như sau: Mồm của người khổng lồ ư? Đó là người Balamôn. Tay ư? Là người Ragianya (về sau là Ksatrya, đẳng cấp quý tộc, vua chúa và võ sĩ). Đùi ư? Là người Vaisya (người chăn nuôi, canh tác, thủ công). Còn bàn chân ư? Là người Suđra (nô lệ cùng đinh). Đó là dấu hiệu xã hội người Ấn Độ xưa đã bắt đầu phân hoá thành đẳng cấp.
- Thần thoại cuối cùng về con người nguyên thuỷ là truyện Manu (Thuỷ tổ của loài người). Nghĩa gốc Manu là người.
+ Theo truyền thuyết, Pragiapati và Manu là con cháu của đấng Brahma. Tên Manu dùng để chỉ tổ tiên loài người thuộc thế hệ 14 đã cai quản trần thế. Mỗi Manu như vậy trị vì một thời gian dài 4.320.000 năm của trần thế
Gọi là thời đại Manu
+ Manu đầu tiên là tinh thần tuyệt đối của Brahma. Brahama tự tách mình làm đôi thành hai cực âm dương hay đực cái. Âm dương kết hợp nhau mà sinh ra Manu hay Suayabhuva là đấng tự tồn tự tại.
+ Manu đầu tiên làm ra bộ luật Manu, các Manu sau căn cứ vào đó mà cai quản thế giới.
Về sau có rất nhiều chuyện kể về Manu được ghi lại trong các tập thần thoại Satapatha Brahmana, trong sử thử Mahabharata. Những chuyện đó dần dần lẫn lộn giữa thần thoại và truyền thuyết.
3. Hệ thống thần tinh thần, tình cảm.
- Thần Kama: Là thần tình yêu
+ Người Arian quan niệm Kama là một sự vận động đầu tiên của vũ trụ, sau đó chuyển vào cuộc sống, làm phấn chấn và lôi cuốn muôn loài, muôn vật.
+ “Kama là mầm sống của lòng người, của trí tuệ, là sợi dây rằng buộc cái bản thể với cái không bản thể” (Rig Veda). Về sau họ xem Kama như biểu tượng thần linh cao cả và tự tại. “Kama có trước tất cẩ, Kama là tự tại, chẳng ai sinh ra nên gọi là Agia thần thánh, tổ tiên và là người đều ở dưới Kama ở sau Kama và do Kama đẻ ra cả”.
+ Kama tồn tại trong vũ trụ, ở xung quanh con người, có tác động rất lớn đến sự sống con người, vì vậy mà người đời luôn luôn ước mong Kama đến với mình, khao khát được gặp Kama. Kama trở thành vị thần trong tưởng tượng của người Ấn Độ xưa.
+ Về hình tượng, Kama được miêu tả như một chàng trai tuấn tú, ngồi trên chiếc xe do chim vẹt kéo, cầm chiếc cung, cánh bằng cây mía uốn cong, dây cung do đàn ong kết cánh lại với nhau, mũi tên làm bằng hoa soài mềm mại, cạnh chàng có vợ là nàng Rati (say đắm). Sau chàng có chúa xuân Vaxanta là bạn chàng, có các chàng trai thiên thần say đắm, yêu đương Ganđacva, và các vũ nữ Apxara.
+ Thần tình yêu được mô tả như vậy là một biểu hiện độc đáo của nghệ thuật dân gian Ấn Độ. Thiên nhiên gắn liền với tình cảm con người và dung cái đẹp thiên nhiên để làm biểu tượng cho cái đẹp của con người.
+ Thần Kama từ một khái niệm về sự sinh sôi, nảy nở của vũ trụ, của muôn loài trở thành nguồn trữ tình đắm đuối của con người. Cũng vì thế mà thần Kama dù là thần nhưng làm cho các thần theo chủ nghĩa khổ hạnh không còn giữ được phẩm chất.
+ Sau thần Kama, chúng ta tìm hiểu them thần thoại về ba nghệ nhân thiên thần Ganđacva, Kinnara, Apxara, những nhân vật yêu đương thiết tha, đều ở dưới quyền của Kama.
+ Ganđacva được thần thoại miêu tả như những nhân vật chúc rượu Sooma và ca hát nhảy múa trong các buổi yến tiệc của thần thánh trên thiên cung. Thực tế là những thanh niên thổ dân ở miền bắc Ấn Độ, nơi có phong cảnh đẹp đẽ, hữu tình, có nhiều rượu ngọt, giống người ở đó thích ca hát, nhảy múa. Họ sống tự do không chịu theo một lễ giáo mà chuyên đi tìm gái và tự do kết hôn không cần phép tắc của cha mẹ, xã hội. Lối kết hôn đó còn gọi là lối kết hôn Ganđacva. Về sau luật phấp nhà nước nô lệ, phong kiến cấm đoán lối luyến ái phóng túng này, chỉ dành riêng quyền đó cho vua chúa để họ tha hồ chọn cung tần, mĩ nữ. Thần thoại miêu tả Ganđacva đầu người, mình chim, còn thần đầu người mình ngựa là Kinnara.
+ Apxara, có nghĩa là lượn trong nước. Apxara thường sống dưới nước hình dáng rất đẹp, thích bơi lượn múa hát, thường bị các chàng trai Ganđacva đến trêu ghẹo, thu giấu áo quần khi các cô đang tắm dưới sông hồ. Apxara cũng hay khêu gợi, có khả năng phá các phép tu khổ hạnh cho nhiều tu sĩ phải siêu long.
Hình tượng Ganđacva, Kinnara, Apxara từ thần thoại đã đi vào nghệ thuật điêu khắc, hội họa. Điệu múa Apxara được phổ biến rộng khắp Đông Nam Á. Trong hệ thống thần tinh thần, tình cảm cìn có thần Yama (thần chết) cũng là vị thần quan trọng có quyền lực đối với muôn vật.
4. Hệ thống thần thoại bộ ba thần tượng Trimurti:
Brahma – Visnus – Siva
a. Thần thoại Brahma
- Có nhiều truyện kể khác nhau về sự ra đời của thần Brahma. Có truyện kể rằng Brahma ra đời là do cuộc phối hợp giữa Đấng tối cao và năng lực của thần là Maya. Một truyện khác nói brahma sinh ra từ quả trứng vàng trôi lềnh bềnh trên biển nguyên thuỷ vô bờ bến. Sauk hi nằm trong trứng một năm, Brahma chia trứng làm đôi, nửa ạc hoá thành đất, nửa vàng hoá thành trời, màng dày của lòng trắng hoá thành núi non, màng mỏng của lòng đỏ hoá thành sương mù và mây, những tia máu thành sông, nước lòng đỏ thanhf biển. Một truyện thứ ba khá phổ biến cho rằng Brahma còn có tên là Nabhigia hoặc Abgiagia. Brahma có năm đầu, nhưng về sau bị thần Siva (thần phá huỷ huỷ mất một đầu).
- Người Blamôn quy tất cả công lao sang tạo về cho Đấng Brahma và miêu tả thần có màu da đỏ hồng. Brahma có 4 cánh tay, cánh tay thứ nhất cầm kinh Vêđa tay thứ hai cầm trượng, tay thứ ba cầm cung, tay thứ tư cầm bình nước. Hình ảnh thông thường là một người có bốn đầu mang hàm râu cưỡi con thiên nga.
Thần thoại Brahma ít hơn thần thoại Visnu và Siva, và nhân vật Brahma, có chỗ lẫn lộn với thần Visnu và Siva, và nhân vật Brahma trong trường hợp đó không quan trọng lắm đối với cốt truyện. Brahma vốn là ý niệm triết học duy tâm thần bí do đẳng cấp tu sĩ Balamôn đặt ra không phải bắt nguồn từ tín ngưỡng dân gian, cho nên thần tượng này càn trừu tượng, siêu hình.
b. Thần thoại Visnu ( thần Bảo vệ)
- Visnu có từ rất sớm trong Rig Vêđa. Lúc đầu Visnu là thuộc tính của mặt trời, là thần lực của mặt trời. Sau này Visnu thu hút cả thuộc tính Inđra, trở thành lực lượng chinh chiến hùng mạnh nhất bảo vệ thế gian. Lực lượng này được quy là thần bảo vệ, được đưa vào thần phả của đạo Hinđu, suy tôn thành đấng duy nhất tự tồn tự tại. Người ta còn mệnh danh Visnu bằng những danh hiệu vô cùng tốt đẹp như Thánh của các Thánh.
Hình tượng Visnu được miêu tả dưới nhiều hình dạng khác nhau. Hình ảnh thông thường nhất là Visnu nằm trên Rắn thần bồng bềnh trên mặt biển vô biên.
Sách Bharavata kể 20 kiếp nhưng phổ biến nhất là có 10 kiếp hoá thân của Visnu được lưu truyền đố là 5 kiếp vật và năm kiếp người. 5 kiếp vật là năm tù trưởng mang tên vật tổ của thị tộc mình đã có công gây dựng và bảo vệ bộ lạc. 5 kiếp người thực tế là 5 nhân vật truyền thuyết quan trọng của Ấn Độ cổ đại
+ Kiếp cá
+ Kiếp rùa
+ Kiếp lợn rừng
+ Kiếp sư tử
+ Kiếp người lùn
+ Kiếp Rama cầm rừu
+ Kiếp của hoàng tử Rama
+ Kiếp thần đồng Krisna
+ Kiếp của Đức phật Buda
+ Kiếp Kalki
Đó là mơ ước của con người Ấn Độ muốn thoát khỏi cảnh đau khổ của xã hội có giai cấp nhưng không nhận ra nguyên nhân đau khổ chính là ở chỗ xã hội có giai cấp người bóc lột người để nhắm vào đó mà đấu tranh tiêu diệt giai cấp xây dựng thiên đường hay “Niết Bàn” thực sự. Họ chỉ còn cách ngoảnh lại quá khứ xa săm luyến tiếc các thời đại cộng đồng nguyên thủy – Thời đại hoàng kim xa xưa ấy. Không có cách gì tái hiện nó trong đời sống thực tế nữa. Buộc con người Ấn Độ biến cái ước vọng đó thành những lí tưởng siêu hình mông lung của tôn giáo.
c. Thần Siva (thần Phá hủy)
- Siva mang đặc tính vừa thiện vừa ác, vừa hiền vừa dữ, vừa xây dựng vừa phá hủy đồng nhất trong một nhiệm vụ chính là phá hủy. Đó là quan niệm triết lí về sự sống sự chết sự tồn tại và hủy diệt của người Ấn Độ cổ xưa. Nói rõ hơn không có sự sống nào không tiến tới hủy diệt, chính do có hủy diệt mà có thể có đời sống. Sống và chết không chỉ nối tiếp nhau mà còn đồng nhất với nhau. Trong sự sống cũng có cái chết dần. Trong sự chết hủy diệt cũng có cái sống đang nảy mầm và nở lộc.
- Do đó Siva được coi là vị thần ác và là vị thần thiện reo rắc hạnh phúc cho con người. Hình tượng được phổ cập nhất là Siva đang đứng theo một điệu múa chân phải dẫm lên một người lùn, chân trái nâng cao và chéo sang bên phải. Siva có bốn cánh tay. Bàn tay phải cầm trống, bàn tay trái cầm ngọn lửa, bàn tay phải phía dưới xòe ra và chĩa lên trời biểu thị một ấn quyết, cánh tay trái đưa chéo sang bên phải và bàn tay chĩa xuống đất. Thần thoại Siva bao hàm ý niệm về sự sinh sôi nảy nở trong trời đất. Sự thờ cúng Siva gắn liền với nghề nông.
=> Thần thoại bộ ba thần tượng Trimurti biểu hiện ba thuộc tính vừa đối lập vừa thống nhất có mối liên hệ nhân quả với nhau trong từng chức năng. Sáng tạo để bảo vệ rồi hủy diệt, hủy diệt để sáng tạo rồi bảo vệ, bảo vệ rồi hủy diệt, rồi sáng tạo. Cứ như thế tiếp diễn thay đeo những chu kì luân hổi bất tận. Tuy chia ba chức năng nhưng các thần đều quy về một mối, chẳng phải chỉ đồng nhất trong bản thể và nguồn gốc vì thế mà trong nhiều ngôi đền Ấn Độ giáo người ta thấy hình ảnh ba vị thần đã thể hiện cái đầu ba mặt. Rút cục sự hòa hợp các giáo phát thành nhất thần luận bằng bộ ba Trimurti là ý muốn tốt đẹp của nhân dân Ấn Độ và trở thành truyền thống đấu tranh cho sự hòa hợp dân tộc.
III. Gía trị và hạn chế của thần thoại Ấn Độ
Tác giả của thần thoại Ấn Độ chính là nghệ sĩ dân gian ở các thời đại. Ngày nay nhiều nhà Ấn Độ học đánh giá cao giá trị nghệ thuật của thần thoại đó. Đặc biệt tập Rig Vêda là tác phẩm có giá trị đặc sắc nhất.
Mang gía trị hiện thực, là bức tranh sinh hoạt của người Ấn Độ cổ đại sinh động và chân thực.
Giàu hình ảnh tượng trưng và phóng đại. Nhiều thủ lĩnh quân sự, tù trưởng, các bộ lạc...đều được thần thoại mô tả bằng những hình ảnh tượng trưng và phóng đại qua cuộc đấu tranh thiên nhiên và xã hội. Đặc biệt là nghệ thuật nhân cách hóa trong thần thoại Ấn Độ cổ xưa thể hiện khiếu thẩm mĩ của họ thật đáng khâm phục.
Đề tài trong thần thoại Ấn Độ cũng rất phong phú, những bài ca những nguyện vọng, những thắc mắc và các điều lo âu sợ hãi, mừng vui, rung cảm...đều được miêu tả bằng thần thoại.
Về hình thức, thần thoại Ấn Độ rất đa dạng, có thể tìm thấy màu sắc, mầm mống sử thi trong những truyện miêu tả các thần linh như bài ca ca ngợi thần Indra hay hình thức kịch trong trong truyện đối đáp.
Bên cạnh đó ta con thấy một số hạn chế ở nội dung như: đều bị tư tưởng tôn giáo và triết lí thần bí chi phối.
* Một số tài liệu cũ có thể bị lỗi font khi hiển thị do dùng bộ mã không phải Unikey ...
Người chia sẻ: Nông Thị Vân
Dung lượng: |
Lượt tài: 0
Loại file:
Nguồn : Chưa rõ
(Tài liệu chưa được thẩm định)