Kieu

Chia sẻ bởi Lộc Minh Thu | Ngày 21/10/2018 | 90

Chia sẻ tài liệu: kieu thuộc Bài giảng khác

Nội dung tài liệu:

LỚP VĂN SỬ K16B KÍNH CHÀO THẦY CÔ VÀ CÁC BẠN
I.GIA THẾ VÀ SỰ NGHIỆP CỦA ĐẠI THI HÀO NGUYỄN DU
Nguyễn Du (1765-1820), tên tự Tố Như, hiệu Thanh Hiên, biệt hiệu Hồng Sơn lạp hộ,Nam Hải điếu đồ, là một nhà thơ nổi tiếng thời Lê Mạc, Nguyễn Sơ ở Việt Nam. Ông là một nhà thơ lớn ở Việt Nam, được người Việt kính trọng gọi là “Đại Thi hào dân tộc”. 1965 Nguyễn Du được UNESCO công nhận là danh nhân văn hóa thế giới.

- Cha là Nguyễn Nghiễm, sinh ở làng Tiên điền nay là xã Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh, tên tự là Hi Dy, hiệu là Nghi Hiên, có biệt hiệu là Hồng Ngự Cư sĩ. Đậu Nhị Giáp tiến sĩ làm quan đến chức Đại Tư Đồ ( tể tướng), Thượng thư bộ hộ triều Lê.
Mẹ là Trần Thị Tần (1740-1778) con gái người làm chức câu kế, quê làng Hoa Thiều , xã Minh Đạo, huyện Tiên Du (Đông Ngàn), xứ Kinh Bắc nay thuộc tỉnh Bắc Ninh. Bà Tần là vợ thứ 3 của Nguyễn Nghiễm ( kém chồng 32 tuổi sinh được 5 con, bốn trai và một gái).
Tổ tiên Nguyễn Du có nguồn gốc từ làng Canh Bạch, huyện Thanh Oai, trấn Sơn Nam nay thuộc Hà Nội sau di cư vào Hà Tĩnh, có truyền thống khoa bảng nổi danh ở Tiên Điền. Trước ông, có sáu bảy thế hệ viễn tổ đã từng đỗ đạt làm quan.
Năm Đinh Hợi (1767), Nguyễn Du được 1 tuổi, Nguyễn Nghiễm được thăng Thái tử Thái bảo, hàm tòng nhất phẩm, tước Xuân Quận Công nên Nguyễn Du có đời sống trong giàu sang phú quý.
Năm giáp ngọ (1774), cha Nguyễn Du xưng chức Tả Tướng từ đó Nguyễn Du chịu nhiều thiệt thòi, mất mát.
Năm 1775 anh trai cùng mẹ là Nguyễn Trụ qua đời( sinh năm 1757).
Năm 1776 ( Bính Thân) cha Nguyễn Du qua đời.
Năm 1778 (Mậu Tuất) bà Trần Thị Tần mẹ Nguyễn Du qua đời. Cũng trong năm này anh trai thứ hai của Nguyễn Du là Nguyễn Điều được bổ làm trấn thủ Hưng Hóa.
Năm canh Tý 1780, Nguyễn Khản là anh cả của Nguyễn Du làm trấn thủ Sơn Tây bị khép tội mưu bạo trong vụ án năm Canh Tý, bị bãi chức và bị giam ở nhà Châu Quận Công. Lúc này Nguyễn Du được một người thân của Nguyễn Nghiễm là Đoàn Nguyễn Tuấn đón về Sơn Nam Hạ (Nam Định) ăn học.
Năm Quý mão Nguyễn Du thi hương ở trường sơn nam, đậu Tam Trường ( tú tài). Ông lấy vợ là con gái Đoàn Nguyễn Thục và ông được tập ấm chức chánh thủ hiệu hiệu quân hùng hậu của cha nuôi họ Hà ở Thái Nguyên. Cũng trong năm này anh cùng mẹ của Nguyễn Du là Nguyễn Đề đỗ đầu kì thi hương ở điện Phụng Thiên (cử nhân) và Nguyễn Khản đầu năm thăng chức Thiếu Bảo, cuối năm thăng chức thâm tụng.
1789 Nguyễn Huệ đại phá quân Thanh, Đoàn Nguyễn Tuấn hợp tác với nhà Tây Sơn, giữ chức thị lang bộ lại. Lúc này Nguyễn Du về ở quê vợ( Quỳnh Côi, Thái Bình).
Năm 1791 anh thứ tư cùng cha khác mẹ với Nguyễn Du là Nguyễn Quýnh do chống Tây Sơn nên bị bắt và bị giết, dinh cơ họ Nguyễn ở Tiên Điền bị Tây Sơn phá hủy.

- Năm 1793, Nguyễn Du về thăm quê Tiên Điền và đến cuối năm ông vào kinh đô Phú Xuân thăm anh là Nguyễn Đề đang làm thái sử ở viện cơ mật và anh vợ là Đoàn Nguyễn Tuấn.
Năm 1794, Nguyễn Đề được thăng Tả Phụng nghi bộ binh vào Quy nhơn giữ chức Hiệp tán nhung vụ. Đến 1795 Nguyễn Đề đi sứ sang Yên Kinh dự lễ nhường ngôi của vua Càn Long nhà thanh đến 1796 trở về được thăng chức tả đồng nghị trung thư sảnh.
Mùa đông năm Bính Thìn 1796, Nguyễn Du chốn vào Gia Định theo Nguyễn Ánh nhưng bị quận công Nguyễn Thận bắt giam 3 tháng ở Nghệ An. Sau khi được tha ông về sống ở Tiên Điền. Trong thời gian bị giam ông có làm thơ My trung mạn hứng (cảm hứng trong tù).
Năm 1803,Nguyễn Du được cử lên Ải Nam Quan tiếp sứ nhà thanh sang phong sắc cho Gia Long.
Năm 1805 ông được thăng Đông các đại học sĩ (hàm ngũ phẩm), Tước Du đức hầu và nhận chức ở kinh đô Phú Xuân. 1807 được cử làm giám sát kì thi hương ở Hải Dương. 1808 ông xin về quê nghỉ.
Năm 1809 ông được bổ chức cai bạ (hàm tứ phẩm) ở Quảng Bình.
Năm 1813 ông được thăng cần chánh điện học sĩ và được cử làm chánh sứ sang nhà thanh. Năm 1814 ông đi sứ về, được thăng Hữu tham chi bộ lễ (hàm tam phẩm).
Năm 1816, anh rể Nguyễn Du và Vũ Trinh vì liên quan đến vụ tổng trấn nguyễn Văn Thành nên bị đày vào Quảng Nam.
Năm 1820 Minh Mạng qua đời Gia Long nối ngôi, ông được cử làm chánh sứ sang nhà thanh báo tang và cầu phong nhưng ông bị bệnh dịch chết ngày 10-8âm lịch thọ 54 tuổi.
Năm 1824, người ta cải táng ông đưa về quê nhà Tiên Điền, Hà Tĩnh.
II. SỰ NGHIỆP THƠ VĂN CỦA NGUYỄN DU
*) Khái quát

+> xét về nội dung: qua các sáng tác của Nguyễn Du, nét nổi bật chính là sự đề cao cảm xúc tức đề cao tình. Điều quan trọng hàng đầu là sự cảm thông sâu sắc của tác giả đối với cuộc sống và con người, đặc biệt là những người nhỏ bé bất hạnh, ( xem văn tế thập loại chúng sinh, sở kiến hành, thái bình mại ca giả,…) cái nhìn nhân đạo này khiến ông được đánh giá là “ tác giả tiêu biểu của trào lưu nhân đạo chủ nghĩa trong văn học cuối thế kỉ 18 đầu thế kỉ 19”. Riêng với truyện kiều “ tác phẩm này còn thấm đẫm tinh thần ngợi ca trân trọng vẻ đẹp kì diệu của tình yêu lứa đôi”.
*) Về mặt nghệ thuật, nguyễn du là nhà thơ có học vấn uyên bác nắm vững nhiều thể thơ Trung Quốc như: ngũ ngôn cổ thi, ngũ ngôn luật,ca, hành,… nên ở thể thơ nào ông cũng có bài xuất sắc. Đặc biệt hơn cả là tài làm thơ bằng chữ nôm của ông mà bằng chứng là truyện kiều, đã cho thấy thể thơ lục bát có khẳ năng truyền tải nội dung tự sự và trữ tình to lớn của thể loại.
Tính đến tháng 5 năm 2008, giới chuyên môn đã sưu tập được 249 bài thơ chữ hán của Nguyễn Du được chia ra như sau:
+ Thanh hiên thi tập ( tập thơ của Thanh Hiên) gồm 78 bài viết trong những năm tháng trước khi làm quan nhà Nguyễn.
+ Nam trung tạp âm ( ngâm nga lặt vặt lúc ở miền nam) gồm 40baì viết khi làm quan ở Huế, Quảng Bình và những địa danh phía nam Hà Tĩnh.
+ Bắc hành tạp lục ( ghi chép lung tung trong chuyến đi sang phương Bắc) gồm 131 bài thơ, viết trong chuyến đi xứ sang Trung Quốc.
Thơ chữ Hán của Nguyễn Du thể hiện tư tưởng , nhân cach của ông. Các bài thơ trong Thanh hiên thi tập và nam trung tạp ngâm tuy biểu hiện một tâm trạng buồn đau , dau dứt nhưng đã cho thấy rõ khuynh hướng quan sát, suy nghẫm về cuộc đời, về xã hội của tác giả. Trong Bắc hàng tạp lục những điểm đặc sắc về tư tưởng, tình cảm của Nguyễn Du được thể hiện rõ ràng hơn. Có ba nhóm đáng chú ý:
Một là ca ngợi, đồng cảm với nhân cách cao thượng và phê phán những nhân vật phản diện.
Hai là phê phán xã hội phong kiến chà đạp nên quyền sống của con người.
Ba là cảm thông với những nhân vật nhỏ bé đươi đáy xã hội bị đày đọa hắt hủi…

*) Thơ chữ Nôm:
Đoạn trường tân thanh ( tiếng kêu mới về nỗi đau đứt ruột, tên phổ biến là truyện kiều, được viết bằng chữ nôm gồm 3.254 câu thơ viết theo thể thơ lục bát. Nội dung của truyện dựa theo tác phẩm kim vân kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân, Trung Quốc. Nội dung chính của truyện xoay quanh quãng đời lưu lạc sau khi bán mình chuộc cha của Thúy Kiều, nhân vật chính trong truyện một nhân vật có tài có sắc.
Có thuyết ghi rằng Nguyễn Du sang tác sau chuyến đi sứ Trung Quốc (1814-1820), có thuyết nói ông viết trước khi đi sứ, có thể vào khoang thời gian làm cai bạ ở quảng Bình (1804-1809). Thuyết sau được nhiều người chấp nhận hơn
*) Văn chiêu hồn ( tức văn tế thập loại chúng sinh, dịch nghĩa văn tế mười loại chúng sinh), hiện chưa rõ thời điểm sáng tác
- Nguyễn Du viết bài thơ chiêu hồn cho nhiều loại người khác nhau kể cả những người thuộc tầng lớp phong kiến quý tộc. Song tấm lòng nhân đạo của nhà thơ vẫn hướng về những thân phận nhỏ bé, đướ đáy xã hội… do gia trị nhân đạo sâu sắc văn chiêu hòn đã được phỏ biến rộng rãi kể cả trong phạm vi nhà chùa.
Văn chiêu hồn
Tóm tắt Truyện Kiều
Nguyễn Du đem thuyết "tài mệnh tương đố" (tài và mệnh ghét nhau) làm luận đề cuốn truyện. Sau đó tác giả nói về gia thế và tả tài sắc hai chị em Vân - Kiều.

Trăm năm trong cõi người ta, 
Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau 
Trải qua một cuộc bể dâu, 
Những điều trông thấy mà đau đớn lòng. 
Lạ gì bỉ sắc tư phong 
Trời xanh quen thói má hồng đánh ghen.



Tả hai chị em
Vào khoảng thời vua Minh Thế Tông (1522-1566), trong một gia đình viên ngoại họ Vương có 3 người con, con cả là Vương Thuý Kiều, sau là Thuý Vân và Vương Quan là cậu út. Hai chị em Thuý Kiều và Thuý Vân thì "mỗi người một vẻ, mười phân vẹn mười", nhưng "so bề tài, sắc" thì Thúy Kiều lại hơn hẳn cô em.
Đầu lòng hai ả tố nga,
Thúy Kiều là chị em là Thúy Vân.
Mai cốt cách, tuyết tinh thần,
Mỗi người một vẻ, mười phân vẹn mười.
Chị em Thuý Kiều
Kiều thăm mộ Đạm Tiên

Vào khoảng thời vua Minh Thánh Tông (1522-1566), trong một gia đình viên ngoại họ Vương có 3 người con, con cả là Vương Thuý Kiều, sau là Thuý Vân và Vương Quan là cậu út. Hai chị em Thúy Kiều và Thuý Vân thì "mỗi người một vẻ, mười phân vẹn mười", nhưng "so bề tài, sắc" thì Thuý Kiều lại hơn hẳn cô em. Trong một lần đi tảo mộ vào tiết Thanh minh, khi đi qua mộ Đạm Tiên, một "nấm đất bên đàng", Kiều đã khóc thương và không khỏi cảm thấy ái ngại cho một "kiếp hồng nhan" "nổi danh tài sắc một thì" mà giờ đây "hương khói vắng tanh". Vốn là một con người giàu tình cảm và tinh tế nên Kiều cũng đã liên cảm tới thân phận của mình và của những người phụ nữ nói chung:

Đau đớn thay phận đàn bà 
Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung



Kiều gặp Kim Trọng

Cũng trong ngày hôm đó, Kiều đã gặp Kim Trọng, là một người "vốn nhà trâm anh", "đồng thân" với Vương Quan, từ lâu đã "trộm nhớ thầm yêu" nàng. Bên cạnh đó thì Kim Trọng cũng là người "vào trong phong nhã, ra ngoài hào hoa". Tuy chưa kịp nói với nhau một lời nhưng sau cuộc gặp gỡ này thì hai người "tình trong như đã, mặt ngoài còn e". Tiếp sau lần gặp gỡ ấy là mối tương tư:
Người đâu gặp gỡ làm chi 
Trăm năm biết có duyên gì hay không
Kim Trọng vì tương tư Kiều nên đã quên hết cả thú vui hàng ngày, tìm cách chuyển đến ở gần nhà Kiều. Sau đó mấy tuần trăng thì Kim Kiều đã gặp nhau, Kiều đã nhận lời Kim Trọng và họ đã trao đổi kỷ vật cho nhau. Nhiều lần Kim Trọng cũng muốn "vượt rào" nhưng Thuý Kiều là một người sắc sảo, cô đã thuyết phục được Kim Trọng:
Vội chi liễu ép hoa nài, 
Còn thân ắt lại đền bồi có khi! 
Thấy lời đoan chính dễ nghe, 
Chàng càng thêm nể thêm vì mười phân
Kiều và Kim Trọng
Kiều bán mình chuộc cha

Tai họa đã đột ngột ập đến Vương gia trong lúc người thiếu nữ còn đang thổn thức với mối tình đầu. Bọn sai nha đầu trâu, mặt ngựa đã đánh đập cha và em nàng một cách tàn nhẫn trong nỗi oan kêu trời không thấu. Trong hoàn cảnh bi đát như vậy, Kiều đành phải đi đến quyết định bán mình để chuộc cha, nhưng nàng không quên lời hẹn ước "trăm năm thề chẳng ôm cầm thuyền ai" với Kim Trọng trước khi chàng về Liêu Dương để thọ tang chú. Thuý Kiều đã nhờ cậy Thuý Vân thay mình trả lời hẹn ước với Kim Trọng:

Cậy em, em có chịu lời 
Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa

Trao duyên cho em xong, nàng cảm thấy xót thương cho thân phận của chính mình:

Phận sao phận bạc như vôi 
Đã đành nước chảy hoa trôi lỡ làng 
Ôi Kim Lang! Hỡi Kim Lang!` 
Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây



Do đau thương quá nên Thuý Kiều đã ngất đi trên tay người thân.

Kiều rơi vào tay Mã Giám Sinh và Tú bà Mã Giám Sinh vốn là "một đứa phong tình đã quen" cùng với Tú bà mở hàng "buôn phấn bán hương", chuyên đi mua gái ở các chốn về "lầu xanh". Thấy Thuý Kiều như là một món hàng ngon, nhất quyết mua về, lấy tiếng là làm vợ nhưng sau khi "con ong đã tỏ đường đi lối về", Thuý Kiều đã bị Tú bà bắt phải tiếp khách. Nàng nhất quyết không chịu, tự vẫn bằng dao nhưng không chết. Tú bà đành nhượng bộ cho nàng ra ở lầu Ngưng Bích. Ở nơi này, nỗi nhớ người thân luôn luôn ấp ủ trong lòng:
Xót người tựa cửa hôm mai
Quạt nồng ấp lạnh những ai đó giờ.




Và nỗi buồn của người thiếu nữ được thể hiện qua những câu thơ caất chứa đầy cảm xúc:

Buồn trông cửa bể chiều hôm
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa
Buồn trông ngọn nước mới sa
Hoa trôi man mác biết là về đâu
Buồn trông nội cỏ rầu rầu
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh
Buồn trông gió cuốn mặt duềnh
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi
Kiều ở Lầu Ngưng Bích
Kiều mắc lừa Sở Khanh.

Sống một mình giữa không gian mênh mông xa vắng đó nên khi gặp Sở Khanh, một gã có "hình dong chải chuốt, áo khăn dịu dàng" và cũng khá "văn vẻ", cô như người đang sắp chết đuối vớ được cọc mà không còn bình tĩnh nhận ra lời lường gạt sáo rỗng của Sở Khanh.

Than ôi! sắc nước hương trời, 
Tiếc cho đâu bỗng lạc loài đến đây?




Kiều vội vàng trao thân cho Sở Khanh và cùng Sở Khanh trốn thoát khỏi lầu Ngưng Bích. Cô nào ngờ mình đã rơi vào lưới do Tú bà giăng sẵn để giữ cô lại vĩnh viễn ở lầu xanh. Chưa kịp cao chạy xa bay thì Tú bà đến và lúc này nàng mới rõ bản chất con người Sở Khanh:

Bạc tình, nổi tiếng lầu xanh, 
Một tay chôn biết mấy cành phù dung!
Đến lúc này, nàng đành phải chịu quy phục, mặc cho thể xác "đến phong trần, cũng phong trần như ai" và cảm thấy xót xa cho chính bản thân mình:

Khi tỉnh rượu, lúc tàn canh, 
Giật mình, mình lại thương mình xót xa


Kiều gặp Thúc Sinh

Thúc Sinh tuy đã có vợ là Hoạn Thư nhưng cũng là người "mộ tiếng Kiều nhi" từ lâu. Thúc Sinh trong tác phẩm này có lẽ là có diễn biến tình cảm, tâm tư mang tính của con người trong "đời thường" nhất, chứ không cách điệu nhiều như những nhân vật khác trong tác phẩm. Thế giới của Thúc Sinh là thế giới của đam mê và là sứ giả phong lưu của tình dục. Chưa có một "đấng nam nhi" nào trong truyện Kiều có cách nhìn nâng tấm thân đầy nhục dục của Kiều lên tầm thẩm mỹ như Thúc Sinh

Rõ màu trong ngọc trắng ngà! 
Dày dày sẵn đúc một tòa thiên nhiên.
Do vậy Kiều đã ham sống và tự tin hơn về tương lai số phận của mình. Hai người vui vẻ bên nhau "ý hợp tâm đầu".

Khi hương sớm khi trà trưa, 
Bàn vây điểm nước đường tơ họa đàn.


Thúc Sinh đã chuộc Thuý Kiều ra khỏi lầu xanh, chàng yêu Thuý Kiều bằng một tình yêu chân thực và trân trọng cô, điều này thể hiện tính nhân văn của truyện Kiều.

Tuy nhiên, vì là gái lầu xanh Kiều đã không được Thúc Ông (bố của Thúc Sinh) thừa nhận. Thúc Ông đã đưa Kiều lên quan xét xử:

Phong lôi nổi trận bời bời, 
Nặng lòng e ấp tính bài phân chia. 
Quyết ngay biện bạch một bề, 
Dạy cho má phấn lại về lầu xanh!


Kiều quyết tâm dan díu với Thúc Sinh không chịu quay về lầu xanh nên lại thêm một lần khốn khổ:

Dạy rằng: Cứ phép gia hình! 
Ba cây chập lại một cành mẫu đơn. 
Phận đành chi dám kêu oan, 
Đào hoen quẹn má liễu tan tác mày. 
Một sân lầm cát đã đầy, 
Gương lờ nước thủy mai gầy vóc sương.

May thay vị quan đó tuy tỏ ra nghiêm khắc nhưng cũng có tình người. Thấy Thúc Sinh đau khổ khi thấy Kiều vì mình mà gặp nạn, ông đã cho Kiều làm một bài thơ bày tỏ nỗi niềm. Đọc thơ của Kiều, vị quan khen ngợi rồi khuyên Thúc Ông nên rộng lượng chấp nhận Kiều lại cho đồ sính lễ cưới xin. Nhờ thế Kiều thoát kiếp thanh lâu nhưng chưa được bao lâu thì nàng lại mắc vạ với Hoạn Thư, vợ chính của Thúc Sinh.

Kiều và Hoạn Thư

Khi biết chuyện, cha mẹ Thúc Sinh nổi giận đòi trả Kiều trở về chốn cũ, nhưng khi biết Thuý Kiều tài sắc vẹn toàn, có tài làm thơ, bố của Thúc Sinh đã phải thốt lên:

Thương vì hạnh trọng vì tài 
Thúc ông thôi cũng dẹp lời phong ba

Kiều đã ở cùng Thúc Sinh suốt 1 năm ròng và vẫn luôn khuyên Thúc Sinh về thăm vợ cả Hoạn Thư, họ vẫn chưa có con chung sau nhiều năm sống cùng nhau. Sau chuyến đi thăm và quay trở lại gặp Kiều, Thúc Sinh không ngờ rằng Hoạn Thư đã sai gia nhân đi tắt đường biển để bắt Thuý Kiều về tra hỏi. Thuý Kiều bị tưới thuốc mê bắt mang đi, còn mọi người trong nhà lúc đó cứ ngỡ cô bị chết cháy sau trận hỏa hoạn.
 Kiều trở thành thị tì nhà Hoạn Thư với cái tên là Hoa Nô. Lúc Thúc Sinh về nhà, nhìn thấy Thuý Kiều bị bắt ra chào mình, "phách lạc hồn xiêu", chàng nhận ra rằng mình mắc lừa của vợ cả. Hoạn Thư đã bắt Kiều phải hầu hạ, đánh đàn cho bữa tiệc của hai vợ chồng. Đánh đàn mà tâm trạng của Kiều đau đớn:

Bốn giây như khóc như than 
Khiến người trong tiệc cũng tan nát lòng 
Cũng trong một tiếng tơ đồng 
Người ngoài cười nụ, người trong khóc thầm

Thế rồi, do thấy Kiều khóc nhiều, Hoạn Thư bảo Thúc Sinh tra khảo vì lý do gì. Thuý Kiều viết tờ khai nói rằng vì cha bị oan khiên, phải bán mình và bị lừa vào lầu xanh, sau đó có người chuộc ra làm vợ, rồi chồng đi vắng, nàng bị bắt đưa vào cửa nhà quan... rất tủi nhục, bây giờ chỉ mong được vào chùa tu cho thoát nợ trần. Đọc tờ khai xong, Hoạn Thư đồng ý cho Hoa Nô vào Quan Âm các sau vườn để chép kinh.


Thực ra, Hoạn Thư đánh kiều rất nhiều, Nguyễn Du miêu tả về "đòn ghen" của Hoạn Thư là "nhẹ như bấc, nặng như chì". Hoạn Thư đã ứng xử theo thường tình hiện hữu của dân gian, là "chút dạ đàn bà, ghen tưông thì cũng người ta thường tình!", "Chồng chung, chưa dễ ai chiều cho ai". Hoạn Thư khéo léo phá vỡ dây tơ giữa Kiều và Thúc Sinh, làm Kiều ra đi một cách tự nguyện.

Kiều trốn khỏi Quan Âm các và đã gặp Sư trưởng Giác Duyên (duyên giác ngộ?). Bà đã cho Kiều sang ở tạm nhà Bạc Bà, một Phật tử thường hay lui tới chùa. "Ai ngờ Bạc Bà cùng với Tú Bà đồng môn", Bạc Bà đã khuyên kiều lấy cháu mình là Bạc Hạnh. Qua tay Bạc Hạnh, một lần nữa Kiều lại bị bán vào lầu xanh.

Kiều gặp Từ Hải

Ở lầu xanh, Kiều "ngậm đắng nuốt cay" sóng cuộc sống ô nhục. Một ngày đẹp trời, có mọt người khách ghé qua chơi, đó là Từ Hải, một hải tặc lừng danh thời đó: "Râu hùm hàm én mày ngài, vai năm tấc rộng, thân mười thước cao", tài năng phi thường "đường đường một đấng anh hào, côn quyền hơn sức lược thao gồm tài". Hai bên đã phải lòng nhau và Từ Hải chuộc Kiều về chốn lầu riêng. Sống với nhau được nửa năm, Từ Hải lại "động lòng bốn phương", muốn ra nơi biên thuỳ chinh chiến. Thuý Kiều muốn xin đi cùng nhưng Từ Hải không cho đi:

Nàng rằng phận gái chữ tòng 
Chàng đi thiếp cũng một lòng xin đi 
Từ rằng tâm phúc tương tri 
Sao chưa thoát khỏi nữ nhi thường tình

Trong lúc Từ Hải đi chinh chiến, nàng ở nhà nhớ tới bố mẹ chắc đã "da mồi tóc sương", còn em Thuý Vân chắc đang "tay bồng tay mang" vui duyên với Kim Trọng.

Từ Hải sau đó đã chiến thắng trở về, mang binh tướng tới đón Kiều làm lễ vu quy.
Kiều và Từ Hải
Kiều báo ân báo oán

Lúc vui mừng cũng là lúc Thuý Kiều nghĩ đến những ngày "hàn vi", nàng kể hết mọi chuyện cho Từ Hải và muốn có sự "ân đền oán trả". Những Bạc Bà, Bạc Hạnh, Sở Khanh,... đều bị chịu gia hình, còn những vị sư đã giúp đỡ Kiều trong cơn hoạn nạn đều được thưởng. Riêng Hoạn Thư nhờ khéo nói "Rằng tôi chút phận đàn bà. Ghen tuông thì cũng người ta thường tình" nên được tha. Sau đó Kiều có gặp sư Giác Duyên, được bà báo rằng 5 năm nữa hai người sẽ gặp nhau vì Kiều còn phải trải qua nhiều lận đận nữa.

Kiều tự vẫn

Hồ Tôn Hiến bấy giờ là một quan tổng đốc của triều đình, mang nhiệm vụ đến khuyên giải Từ Hải đầu hàng và quy phục triều đình. Hồ Tôn Hiến đã bày mưu mua chuộc Thuý Kiều, đánh vào ham muốn có một cuộc sống "an bình" của phụ nữ, nàng đã thật dạ tin người và xiêu lòng nghe theo lời Hồ Tôn Hiến về thuyết phục Từ Hải ra hàng:

Trên vì nước dưới vì nhà, 
Một là đắc hiếu hai là đắc trung.

Sau đó, Hồ Tôn Hiến đã thừa cơ bao vây, nhìn thấy Từ Hải, Thuý Kiều định lao tới để tự vẫn nhưng chàng bị mắc mưu và đã "chết đứng giữa đàng". Thuý Kiều cảm thấy hối tiếc và dằn vặt bản thân:

Mặt nào trông thấy nhau đây? 
Thà liều sống thác một ngày với nhau!

Hồ Tôn Hiến đang đà thắng đã ép Kiều phải "thị yến dưới màn", Thuý Kiều đã khóc thương và xin được mang Từ Hải đi chôn cất. Hồ Tôn Hiến đã chấp nhận cho "cảo táng di hình bên sông". Biết nàng giỏi đàn, Hồ Tôn Hiến bắt nàng phải chơi, Kiều đã thể hiện nỗi lòng mình qua tiếng đàn:

Một cung gió thảm mưa sầu, 
Bốn dây nhỏ máu năm đầu ngón tay! 
Ve ngâm vượn hót nào tày, 
Lọt tai Hồ cũng nhăn mày rơi châu.

Sáng hôm sau, để tránh lời đàm tiếu về mình, Hồ Tôn Hiến đã gán ngay Kiều cho người Thổ quan. Trên con thuyền, Kiều nhớ tới lời của Đạm Tiên xưa đã nói với mình trong mộng "Sông Tiền đường sẽ hẹn hò về sau", nàng đã quyết định nhảy xuống sông tự vẫn.

Từ Hải mắc mưu Hồ Tôn Hiến
Kim Trọng đi tìm Kiều

Về phần Kim Trọng, sau khi hộ tang chú xong, quay trở lại thì biết tin gia đình Kiều gặp nạn, Kiều đã bán mình chuộc cha. Kim Trọng đau xót:

Vật mình, vẫy gió, tuôn mưa 
Dầm dề giọt ngọc, thẫn thờ hồn mai 
Đau đòi đoạn, ngất đòi thôi 
Tỉnh ra lại khóc, khóc rồi lại mê

Mọi người trong nhà khuyên can hết lẽ, chàng nghe theo lời dặt của Kiều và đón cha mẹ Kiều cùng Thuý Vân sang nhà chăm lo phụng dưỡng, đồng thời vẫn đưa tin tìm kiếm nàng khắp nơi. Tuy "sâu duyên mới" nhưng chàng lại "càng dào tình xưa". Vương Quan và Kim Trọng sau đó đều đỗ đạt và làm quan. Sau nhiều ngày tháng tìm kiếm thì hai người mới dò la được thông tin của Thuý Kiều là đã trầm mình dưới sông Tiền Đường. Ra đến sông, mọi người gặp sư Giác Duyên ở đó, được biết là Thuý Kiều đã được bà cứu mang về cưu mang. Sau đó, mọi người được dẫn về gặp lại nàng Kiều, "mừng mừng tủi tủi".

Đoàn tụ

Sau 15 năm lưu lạc, Thuý Kiều đã trở về đoàn viên với gia đình. Nhưng nàng chính là người sợ việc đoàn viên hơn ai cả. Trong việc tái ngộ này, Thuý Vân chính là người đầu tiên đã lên tiếng vun vào cho chị. Nhưng trong đêm gặp lại ấy, Thuý Kiều đã tâm sự với Kim Trọng:
Thân tàn gạn đục khơi trong 
Là nhờ quân tử khác lòng người ta

Nàng ghi nhận tấm lòng của Kim Trọng nhưng tự thấy mình không còn xứng đáng với chàng nữa. Hai người trở thành bạn "chẳng trong chăn gối, cũng ngoài cầm thơ".

Nguyễn Du đã gửi gắm toàn bộ thế giới quan của mình về xã hội phong kiến lúc đó qua các câu thơ nhận xét về cuộc đời lưu lạc của Thuý Kiều:
Ngẫm hay muôn sự tại trời 
Trời kia đã bắt làm người có thân. 
Bắt phong trần phải phong trần 
Cho thanh cao mới được phần thanh cao



Giá trị nhân đạo của truyện kiều
Mộng Liên Đường Chủ Nhân (1820) bình luận: "... Lời văn tả ra hình như máu chảy ở đầu ngọn bút, nước mắt thấm ở trên tờ giấy, khiến ai đọc đến cũng phải thấm thía ngậm ngùi, đau đớn đứt ruột... Tố Như Tử dụng tâm đã khổ, tự sự đã khéo, tả cảnh đã hệt, đàm tình đã thiết, nếu không phải có con mắt trong thấu sáu cõi, tấm lòng nghĩ suốt cả nghìn đời, thì tài nào có cái bút lực ấy".

Nếu là một tâm hồn không bị sóng gió vùi dập, một trái tim không thổn thức trước những nỗi đắng cay của bức tranh thế sự, một lương tâm không phẫn nộ trước những thói đời vô nhân bạc nghĩa, thì Nguyễn Du, dẫu có tài ba lỗi lạc đến đâu cũng không tìm ra được nhưng âm điệu, những vần thơ khiến cho người đọc trong cuộc nghe như khóc, như than, như uất ức, như oán hờn.
Quả đúng như vậy, Truyện Kiều không chỉ là vấn đề số phận con người bị áp bức trong xã hội, mà còn là tiếng nói nhân đạo chủ nghĩa cất lên tha thiết từ xã hội đó. Đó là tiếng nói của tầng lớp người đau khổ, đòi tự do yêu đương, đòi công lý.
Tinh thần nhân đạo bao la trong Truyện Kiều là sự kết tinh truyền thống nhân đạo cao đẹp của dân tộc hằng bao thế kỷ.
Truyện Kiều là tiếng nói thiết tha bảo vệ quyền sống con người. Trong vô số nạn nhân của xã hội xưa; Nguyễn Du đặc biệt trân trọng và xót thương cho số kiếp mỏng manh của người phụ nữ có tài, có sắc. Với Nguyễn Du, họ là hình ảnh kết tinh về số kiếp bi đát của con người trong cuộc đời bế tắc.
Tiêu biểu là Thuý Kiều, một người con gái tài sắc vẹn toàn, nhân hậu, thuỷ chung, trong sạch, cao thượng nhưng phải ngụp lặn triền miên trong vũng bùn ô nhục của cuộc đời.
Kiều đã từng trãi qua hầu hết những kiếp đời oan khổ của người phụ nữ dười chế độ phong kiến : tình duyên tan vỡ, làm gái lầu xanh, làm nô tì, làm vợ lẻ, bị làm nhục khi chồng vừa chết . Và khi Từ Hải chết, lòng Kiều đã tắt hết mọi niềm ước ao hạnh phúc trên cõi đời
"Còn chi nữa cánh hoa tàn
Tơ lòng đã đứt dây đàn Tiểu Lân
Rộng thương còn mảnh hồng quần
Hơi tàn được thấy gốc phần là may."
Người ngoài cuộc nghe tiếng nói của Kiều cũng phải thổn thức cùng nỗi niềm tuyệt vọng ẩn chứa trong ước mơ bé nhỏ ấy! Cuộc đời nàng được nhà thơ vĩ đại giàu lòng nhân đạo tổng kết bằng những lời thơ đau xót :
"Thương thay cũng một kiếp người
Hại thay mang lấy sắc tài làm chi
Những là oan khổ lưu li
Chờ cho hết kiếp còn gì là thân".

Tuy nhiên, Thuý Kiều không chỉ xuất hiện với tư cách là một nạn nhân đau khổ mà còn là hình tượng tiêu biểu cho giá trị phẩm chất, cho tinh thần chiến đấu, tiêu biểu ở thái độ chống lễ giáo phong kiến, dám vươn lên tìm lấy hạnh phúc chính đáng .

Chỉ phút đầu gặp gỡ với chàng Kim; Kiều đã rung động, ước mơ thầm kín nhưng vô cùng tha thiết : "Người đâu gặp gỡ làm chi - Trăm năm biết có duyên gì hay không?" mặc dù Kiều vẫn biết rằng : "Nên chăng thì cũng tại lòng mẹ cha". Khi Kim Trọng tỏ tình, Kiều mạnh dạn nhận lời gắn bó .
Khi thuận lợi, Kiều chủ động vượt rào sang nhà người yêu tình tự "Xăm xăm băng nẻo vườn khuya một mình .Vì hoa nên phải đánh đường tìm hoa".

Mối tình vượt lễ giáo phong kiến ấy lại là một mối tình rất trong sạch, thuỷ chung.

Kiều chính là người phụ nữ trong trắng, đoan trang :
"Đã cho vào bậc bố kinh
Đạo tòng phu lấy chữ trinh làm đầu
Ra tuồng trên bộc trong dâu
Thì con người ấy ai cầu làm chi"
Khi buộc phải cách xa, nàng khắc sâu hình bóng chàng Kim . Tất cả đều nói lên rằng những thế lực hắc ám của chế độ phong kiến chỉ có thể làm tan nát hạnh phúc của Kiều nhưng không thể tiêu diệt tình yêu trong trái tim chung thuỷ ấy, đúng như lời Chu Mạnh Trinh đã viết :

"Tấm lòng này như tuyết, như băng, mối sầu nọ qua ngày, qua tháng . Ngọc kia không vết, giá liên thành khôn xiết so bì. Nước đã trôi xuôi, hồn cựu mộng hãy còn vơ vẩn . "

Mối tình Kim Trọng - Thuý Kiều là thiên diễm tình tuyệt đẹp trong văn học thời phong kiến !
Chế Lan Viên viết : "Tố Như ơi ! Lệ chảy quanh thân Kiều."
Quả vậy, tấm lòng thương người cao cả, sâu sắc của nhà thơ như "máu chảy ở đầu ngọn bút, nước mắt thấm ở trên tờ giấy.", như hoà trong từng chữ, từng câu thơ xé ruột. Ở đoạn "Mã Giám Sinh mua Kiều", Thuý Kiều là hiện thân của con người bị chà đạp, của sắc tài bị vùi dập thảm thương.
Miêu tả đúng tâm trạng của Kiều trong cảnh mua bán - đó là hiện thực; nhưng nói lên được nỗi đau xót khôn cùng khi sắc tài bị vùi dập - đó lại là nhân đạo và nhân văn sâu sắc. Nguyễn Du đã từng trân trọng tài sắc con người khi miêu tả chị em Thuý Kiều; giờ đây ông lại đau đớn lòng trước tài sắc bị vùi dập bởi những thế lực bạo tàn mà tiêu biểu chính là tên buôn người vô lương tàn ác với sức mạnh tàn nhẫn, lạnh lùng của đồng tiền trong xã hội cũ : "Tiền lưng đã sẵn, việc gì chẳng xong"

Và, khi Kiều ở lầu Ngưng Bích, bị Tú Bà "khoá xuân", trong cái nỗi buồn mênh mang vô tận, không thể gì làm vơi bớt, không có ai để sẻ chia - nỗi buồn của một con người hoàn toàn cô đơn giữa một khung cảnh cô đơn, vắng lặng; Kiều chỉ còn biết nhớ về người thân. Nhà thơ lại đảo tình lên hiếu, trái với trật tự cương thường của đạo lý phong kiến khi miêu tả Kiều nhớ Kim Trọng trước, nhớ cha mẹ sau.
Nếu trước kia, Nguyễn Du đã không tiếc lời ngợi ca thiên diễm tình tuyệt đẹp vượt lễ giáo phong kiến thì giờ đây, khi mối tình đầu trong sáng ấy "trâm gẫy bình tan"; chính ông lại đồng cảm hết sức với tâm sự của người con gái đang yêu buộc phải xa cách người yêu. Nguyễn Du thật thấu hiểu nhân tình !
Nỗi nhớ người thân cũng không làm Kiều khuây khoả nỗi buồn rợn ngợp. Buồn mà trông ra cảnh vật :

Buồn trông cửa biển chiều hôm Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa. Buồn trông ngọn nước mới sa
Hoa trôi man mác biết là về đâu Buồn trông nội cỏ rầu rầu
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh
Buồn trông gió cuốn mặt duềnh
Ầm ầm tiếng sóng quanh quanh ghế ngồi
Tám câu thơ dựng lên bốn bức tranh buồn được bắt đầu bằng hai chữ "Buồn trông". Dường như ở đây không có con người, chỉ có cái nhìn hay đúng hơn, chỉ có tâm trạng. Tâm trạng của Kiều mà cũng là tâm trạng của Nguyễn Du. Lòng nhà thơ tưởng như cũng hoà vào với lòng nhân vật, cùng đồng cảm, buồn thương, đau xót với nhân vật .
Không dừng lại ở sự ca ngợi, đồng cảm với người trong cuộc bể dâu . Nhà thơ còn dựng lên cả một bức tượng đồng Từ Hải - tượng trưng cho công bằng, công lý, dân chủ trong xã hội phong kiến xấu xa, mục nát.
Đó là một bậc anh hùng cái thế với tính chất phi thường về diện mạo, vóc dáng : Râu hùm , hàm én, mày ngài Vai năm tấc rộng thân mười thước cao
Phi thường cả về bản lĩnh, tài năng, phong độ, chí khí :

Đường đường một đấng anh hào
Côn quyền hơn sức lược thao gồm tài
Đội trời đạp đất ở đời
Họ Từ tên Hải vốn người Việt Đông
Giang hồ quen thói vẫy vùng
Gươm đàn nửa gánh, non sông một chèo

Từ Hải chính là nhân vật phản ánh ước mơ tự do và công lí. Từ Hải là một người anh hùng cái thế, tài cao trí cả, dũng mãnh vô song, rất mực phóng túng ngang tàng, sống chí khí "đội trời đạp đất", "Dọc ngang trời rộng vẫy vùng biển khơi". Từ Hải thiết tha với lí tưởng : "Chọc trời khuấy nước mặc dầu - Dọc ngang nào biết trên đầu có ai"
Với giọng điệu anh hùng ca, Nguyễn Du kể về sự nghiệp anh hùng của Từ Hải :
"Thừa cơ trúc chẻ ngói tan
Binh uy từ ấy sấm ran trong ngoài
Triều đình riêng một góc trời
Gồm hai văn vũ, rạch đôi sơn hà!"
Thái độ vô quân ấy, về nhiều mặt có ý nghĩa phản phong khá mạnh mẽ . Hình tượng Từ Hải là một minh chứng cho sự sụp đổ của quyền lực phong kiến .
Đặc biệt, Từ Hải còn là con người có tấm lòng bao dung, nhân ái hào hiệp, tình cảm nhân văn bình dị tôn trọng phẩm giá con người, đường hoàng cứu vớt Kiều ra khỏi lầu xanh, đem lại cho Kiều cuộc sống hạnh phúc :
Vinh hoa bõ lúc phong trần
Chữ tình ngày lại thêm xuân một ngày .
Từ Hải là ân nhân lớn nhất của Kiều, là người duy nhất có thể đem Kiều từ thân phận một cô gái lầu xanh lên địa vị một phu nhân ngồi ở ghế quan tòa để báo ân, báo oán :

Trướng hùm mở giữa trung quân
Từ công sánh với phu nhân cùng ngồi
Tiên nghiêm, trống chửa dứt hồi
Điểm danh trước dẫn chực ngoài cửa viên
Từ rằng : "Ân oán hai bên
Mặc nàng xử quyết báo đền cho minh"

Từ Hải đã thiết lập một toà án, một pháp trường để xét xử những kẻ gian manh, độc ác đã từng giày xéo, đọa đày Kiều. Phiên tòa ấy thể hiện khát vọng lẽ công bằng, công lí sẽ chiến thắng.
Từ Hải đến và đi trong cuộc đời Kiều như một ngôi sao vụt sáng; là giấc mơ dẹp tan mọi bất bình, xoá sạch những bất công ngang trái, sống tự do ngoài khuôn khổ chật hẹp của xã hội phong kiến. GIẤC MƠ TỪ HẢI !
Vừa đau xót, thông cảm; vừa ca ngợi đồng tình với những con người bị chà đạp, áp bức; Nguyễn Du đã biểu lộ trong Truyện Kiều tinh thần nhân đạo sâu xa của một nghệ sĩ thiên tài.

Truyện Kiều là bức tranh hiện thực về 1 xa hội bất cong ,tàn bạo, là tiếng nói thương cảm trước số phận bi kịch của con người. Tiếng nói lên án , tố cáo những thế lực tàn bạo, xấu xa, tiếng nói khẳnng định , đề cao tài năng nhân phẩm, những khát vọng chân chính của con người như khát vọng về quyền được aống, khát vọng tự do, công lý , khát vọng tình yêu , hạnh phúc ,...
Soạn giảng: Kiều ở lầu Ngưng Bích




KIỀU Ở LẦU NGƯNG BÍCH
(Trích Truyện Kiều -Nguyễn Du)
BÀI: KIỀU Ở LẦU NGƯNG BÍCH
(Trích “Truyện Kiều” -Nguyễn Du)
I/Đọc-Tìm hiểu chung:
1/ Vị trí : Nằm ở phần 2, gồm 22 câu (từ câu 1033- 1054).
2/ Đại ý : Tâm trạng đau khổ, buồn tủi của Kiều khi ở lầu Ngưng Bích.
3/Kết cấu đoạn trích: 3 đoạn

Trước lầu Ngưng Bích khóa xuân Buồn trông cửa bể chiều hôm,
Vẻ non xa tấm trăng gần ở chung. Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa ?
Bốn bề bát ngát xa trông Buồn trông ngọn nước mới sa,
Cát vàng cồn nọ bụi hồng dặm kia. Hoa trôi man mác biết là về đâu ?
Bẽ bàng mây sớm đèn khuya Buồn trông nội cỏ rầu rầu,
Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng. Chân mây mặt đất một màu xanh xanh
Tưởng người dưới nguyệt chén đồng, Buồn trông gió cuốn mặt duềnh
Tin sương luống những rày trông mai chờ. Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi.
Bên trời góc bể bơ vơ, ( Nguyễn Du – Truyện Kiều )
Tấm son gột rửa bao giờ cho phai
Xót người tựa cửa hôm mai,
Quạt nồng ấp lạnh những ai đó giờ ?
Sân Lai cách mấy nắng mưa,
Có khi gốc tử đã vừa người ôm.

BÀI: KIỀU Ở LẦU NGƯNG BÍCH
(Trích “Truyện Kiều” – Nguyễn Du)

I/Đọc-Tìm hiểu chung:
II/Phân tích:
1/Cảnh lầu Ngưng Bích:

1.Cảnh lầu Ngưng Bích : ( 6 câu đầu )
Trước lầu Ngưng Bích khóa xuân
Vẻ non xa tấm trăng gần ở chung.
Bốn bề bát ngát xa trông
Cát vàng cồn nọ bụi hồng dặm kia.
Bẽ bàng mây sớm đèn khuya
Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng.

BÀI: KIỀU Ở LẦU NGƯNG BÍCH
(Trích “Truyện Kiều”-Nguyễn Du)
I/Đọc-Tìm hiểu chung:
II/Phân tích:
1/Cảnh lầu Ngưng Bích: ( 6 câu đầu )
*Cảnh:
-Non xa
-Trăng gần
ở chung
-Cát vàng
-Bụi hồng
bát ngát
* Cảnh đẹp, thoáng đãng nên thơ nhưng mênh mông, vắng lặng.

BÀI: KIỀU Ở LẦU NGƯNG BÍCH
(Trích “Truyện Kiều”-Nguyễn Du)
I/ Đọc-Tìm hiểu chung:
II/ Phân tích:
1./Cảnh lầu Ngưng Bích : (6 câu đầu )
*Tình:
mây sớm
đèn khuya
Bẽ bàng
Tâm trạng : chán nản, buồn tủi, cô đơn.
*Nghệ thuật:
Tả cảnh ngụ tình

BÀI: KIỀU Ở LẦU NGƯNG BÍCH
(Trích “Truyện Kiều”-Nguyễn Du)
I/Đọc-Tìm hiểu chung:
II/Phân tích:
1/Cảnh lầu Ngưng Bích: ( 6 câu đầu )

-Không gian : bốn bề bát ngát, cát vàng cồn nọ, bụi hồng dặm kia , cảnh vật hoang vắng, cô đơn, trơ trọi.
-Tâm trạng Kiều : nàng cảm thấy buồn bã, đau đớn trong lòng.
BÀI: KIỀU Ở LẦU NGƯNG BÍCH
(Trích “Truyện Kiều” – Nguyễn Du)
* Một số tài liệu cũ có thể bị lỗi font khi hiển thị do dùng bộ mã không phải Unikey ...

Người chia sẻ: Lộc Minh Thu
Dung lượng: | Lượt tài: 1
Loại file:
Nguồn : Chưa rõ
(Tài liệu chưa được thẩm định)