KHAM PHA THANH CO LOA
Chia sẻ bởi Phạm Thị Thanh Vân |
Ngày 21/10/2018 |
47
Chia sẻ tài liệu: KHAM PHA THANH CO LOA thuộc Bài giảng khác
Nội dung tài liệu:
BIÊN TẬP: PHẠM THỊ THANH VÂN
GIỚI THIỆU CHUNG
Cổ Loa là một di tích lịch sử nổi tiếng ở huyện Đông Anh, cách trung tâm Hà Nội khoảng 17 km về hướng Tây Bắc.
Cổ Loa là kinh đô của nhà nước phong kiến Âu Lạc, dưới thời An Dương Vương vào khoảng thế kỉ III TCN và của nhà nước dưới thời Ngô Quyền thế kỷ X sau Công nguyên.
Từ Hà Nội, qua cầu Chương Dương, theo quốc lộ 1A cũ đến cây số 10 là cầu Đuống. Qua cầu là thị trấn Yên Viên, rẽ trái vào quốc lộ 3, đi 5km đến ngã rẽ vào Cổ Loa. Khoảng cách quốc lộ 3 đến Cổ Loa là 2km.
CẤU TRÚC THÀNH
Thành Cổ Loa theo tương truyền gồm 9 vòng xoáy trôn ốc, nhưng căn cứ trên dấu tích hiện còn, các nhà khoa học nhận thấy thành có 3 vòng, trong đó vòng thành nội rất có thể được làm về sau, dưới thời Ngô Quyền. Chu vi ngoài 8 km, vòng giữa 6,5 km, vòng trong 1,6 km, diện tích trung tâm lên tới 2 km². Thành được xây theo phương pháp đào đất đến đâu, khoét hào đến đó, thành đắp đến đâu, lũy xây đến đó. Mặt ngoài lũy, dốc thẳng đứng, mặt trong xoải để đánh vào thì khó, trong đánh ra thì dễ. Lũy cao trung bình từ 4 m-5 m, có chỗ cao đến 8 m-12 m. Chân lũy rộng 20 m-30 m, mặt lũy rộng 6 m-12 m. Khối lượng đất đào đắp ước tính 2,2 triệu mét khối.
Mỗi vòng thành đều có hào nước bao quanh bên ngoài, hào rộng trung bình từ 10m đến 30m, có chỗ còn rộng hơn. Các vòng hào đều thông với nhau và thông với sông Hoàng. Sự kết hợp của sông, hào và tường thành không có hình dạng nhất định, khiến thành như một mê cung, là một khu quân sự vừa thuận lợi cho tấn công vừa tốt cho phòng thủ.
Thành ngoại cũng không có hình dáng rõ ràng, dài hơn 8.000m, cao trung bình 3 m-4 m (có chỗ tới hơn 8 m).
Thành nội hình chữ nhật, cao trung bình 5 m so với mặt đất, mặt thành rộng từ 6 m-12 m, chân rộng từ 20 m-30 m, chu vi 1.650 m và có một cửa nhìn vào tòa kiến trúc Ngự triều di quy.
Thành trung là một vòng thành không có khuôn hình cân xứng, dài 6.500 m, nơi cao nhất là 10 m, mặt thành rộng trung bình 10 m, có năm cửa ở các hướng đông, nam, bắc, tây bắc và tây nam, trong đó cửa đông ăn thông với sông Hồng.
ĐỀN THỤC AN DƯƠNG VƯƠNG
Đền thờ An Dương Vương (còn gọi là đền Thượng) ở trên một quả đồi tương truyền là cung thất của nhà vua, đất rộng 19.138,6m2 . Tại vị trí lối lên cửa giữa của đền đặt đôi rồng đá, mang phong cách nghệ thuật thời Lê mạt. Trong đền còn lưu giữ được 5 tấm bia đá và 53 hiện vật có giá trị lịch sử, văn hóa và khoa học đặc sắc.
Kiến trúc đền gồm: tiền tế - 3 gian, 2 chái, hệ khung kết cấu gỗ, mái lợp ngói mũi hài. Trên hệ mái đắp các đầu đao cong, tượng nghê chầu. Các bộ vì chính được làm theo kiểu giá chiêng, sơn son thếp vàng, chạm họa tiết “rồng vờn mây”; trung đường đấu mái liền với hậu cung, tạo thành dạng thức kiến trúc kiểu “chuôi vồ”, bên trong đặt tượng An Dương Vương, bằng đồng, nặng khoảng 200kg.
ĐỀN THỤC AN DƯƠNG VƯƠNG
Ngay trước đền thờ là một hồ nước hình bán nguyệt, giữa là giếng Ngọc – gắn liền với truyền thuyết về mối tình Mỵ Châu - Trọng Thủy.
Mặt trước đền
ĐỀN THỤC AN DƯƠNG VƯƠNG
Bàn thờ An Dương Vương
Tượng vua An Dương Vương
Bàn thờ thần Kim Quy với Nỏ thần
Bàn thờ Hoàng Hậu
AM MỴ CHÂU
Am Mỵ Châu (am Bà Chúa hay đền thờ Mỵ Châu): toạ lạc trên khu vực rộng 925,4m2. Mặt bằng kiến trúc được bố cục theo dạng “tiền Nhất, hậu Đinh”, gồm các tòa tiền tế, trung đường và hậu cung.
Trong căn phòng nhỏ phía sau có tượng công chúa Mỵ Châu – một khối đá tự nhiên hình người không đầu. Truyền thuyết kể rằng xác Mỵ Châu sau khi bị vua cha chặt đầu đã hóa thành đá và trôi về bãi Đường Cấm, phía Đông thành Cổ Loa. Dân trong thành thương cảm đem võng ra cáng bức tượng đá không đầu về đến gốc đa thì đứt võng. Người dân bèn lập am thờ Mỵ Châu ngay tại nơi tượng đá rơi xuống…
ĐÌNH LÀNG CỔ LOA
Đình Cổ Loa (Ngự Triều Di Quy): có bố cục mặt bằng nền hình chữ “Đinh”, gồm đại đình và hậu cung. Đại đình gồm 5 gian, 2 chái, kết cấu khung gỗ, mái lợp ngói mũi hài, với 4 góc đao cong vút. Các bộ vì nóc được kết cấu theo kiểu “giá chiêng, chồng rường”, với 6 hàng chân cột. Hậu cung nối liền với đại đình qua bộ cửa bức bàn phía dưới và đấu mái ở phía trên.
Theo truyền thuyết thì đó là nền cũ của điện ngự triều, nơi bá quan triều hội ngày xưa nên trong đình còn tấm hoành phi "Ngự triều di quy”.
VỀ QUÂN SỰ
Về mặt quân sự, thành Cổ Loa thể hiện sự sáng tạo độc đáo của người Việt cổ trong công cuộc giữ nước và chống ngoại xâm. Với các bức thành kiên cố, với hào sâu rộng cùng các ụ, lũy, Cổ Loa là một căn cứ phòng thủ vững chắc để bảo vệ nhà vua, triều đình và kinh đô. Đồng thời là một căn cứ kết hợp hài hòa thủy binh cùng bộ binh. Nhờ ba vòng hào thông nhau dễ dàng, thủy binh có thể phối hợp cùng bộ binh để vận động trên bộ cũng như trên nước khi tác chiến.
VỀ XÃ HỘI
Về mặt xã hội, với sự phân bố từng khu cư trú cho vua, quan, binh lính, thành Cổ Loa là một chứng cứ về sự phân hóa của xã hội thời ấy. Thời kỳ này, vua quan không những đã tách khỏi dân chúng mà còn phải được bảo vệ chặt chẽ, sống gần như cô lập hẳn với cuộc sống bình thường. Xã hội đã có giai cấp rõ ràng và xa hội có sự phân hóa giàu nghèo rõ ràng hơn thời Vua Hùng.
VỀ VĂN HÓA
Về mặt văn hóa, là một tòa thành cổ nhất còn để lại dấu tích, Cổ Loa trở thành một di sản văn hóa, một bằng chứng về sự sáng tạo, về trình độ kỹ thuật cũng như văn hóa của người Việt Cổ. Đá kè chân thành, gốm rải rìa thành, hào nước quanh co, ụ lũy phức tạp, hỏa hồi chắc chắn và nhất là địa hình hiểm trở ngoằn ngoèo, tất cả những điều làm chứng nghệ thuật và văn hóa thời An Dương Vương. Hàng năm, vào ngày 6 tháng giêng âm lịch, cư dân Cổ Loa tổ chức một lễ trang trọng để tưởng nhớ đến những người xưa đã có công xây thành, và nhất là để ghi ơn An Dương Vương.
KẾT LUẬN
Thành Cổ Loa là một công trình có tuổi thọ, quy mô, cấu trúc thuộc vào loại độc đáo nhất và cổ xưa nhất trong lich sử xây dựng thành lũy của người Việt cổ.
Thành thể hiện sự sáng tạo độc đáo của người Việt cổ trong công cuộc dựng nước và giữ nước.
Cùng với những di tích lịch sử khác, các truyền thuyết về thời kì Văn Lang – Âu Lạc, thành Cổ Loa góp phần gửi cho chúng ta về một bài học quý báu trong công cuộc dựng nước và giữ nước: Luôn phải đề cao cảnh giác truớc những âm mưu thâm độc của ngoại bang. Lúc chúng ta sơ hở, mất ý chí cảnh giác vì tin giặc là lúc chúng ta mất nước.
GIỚI THIỆU CHUNG
Cổ Loa là một di tích lịch sử nổi tiếng ở huyện Đông Anh, cách trung tâm Hà Nội khoảng 17 km về hướng Tây Bắc.
Cổ Loa là kinh đô của nhà nước phong kiến Âu Lạc, dưới thời An Dương Vương vào khoảng thế kỉ III TCN và của nhà nước dưới thời Ngô Quyền thế kỷ X sau Công nguyên.
Từ Hà Nội, qua cầu Chương Dương, theo quốc lộ 1A cũ đến cây số 10 là cầu Đuống. Qua cầu là thị trấn Yên Viên, rẽ trái vào quốc lộ 3, đi 5km đến ngã rẽ vào Cổ Loa. Khoảng cách quốc lộ 3 đến Cổ Loa là 2km.
CẤU TRÚC THÀNH
Thành Cổ Loa theo tương truyền gồm 9 vòng xoáy trôn ốc, nhưng căn cứ trên dấu tích hiện còn, các nhà khoa học nhận thấy thành có 3 vòng, trong đó vòng thành nội rất có thể được làm về sau, dưới thời Ngô Quyền. Chu vi ngoài 8 km, vòng giữa 6,5 km, vòng trong 1,6 km, diện tích trung tâm lên tới 2 km². Thành được xây theo phương pháp đào đất đến đâu, khoét hào đến đó, thành đắp đến đâu, lũy xây đến đó. Mặt ngoài lũy, dốc thẳng đứng, mặt trong xoải để đánh vào thì khó, trong đánh ra thì dễ. Lũy cao trung bình từ 4 m-5 m, có chỗ cao đến 8 m-12 m. Chân lũy rộng 20 m-30 m, mặt lũy rộng 6 m-12 m. Khối lượng đất đào đắp ước tính 2,2 triệu mét khối.
Mỗi vòng thành đều có hào nước bao quanh bên ngoài, hào rộng trung bình từ 10m đến 30m, có chỗ còn rộng hơn. Các vòng hào đều thông với nhau và thông với sông Hoàng. Sự kết hợp của sông, hào và tường thành không có hình dạng nhất định, khiến thành như một mê cung, là một khu quân sự vừa thuận lợi cho tấn công vừa tốt cho phòng thủ.
Thành ngoại cũng không có hình dáng rõ ràng, dài hơn 8.000m, cao trung bình 3 m-4 m (có chỗ tới hơn 8 m).
Thành nội hình chữ nhật, cao trung bình 5 m so với mặt đất, mặt thành rộng từ 6 m-12 m, chân rộng từ 20 m-30 m, chu vi 1.650 m và có một cửa nhìn vào tòa kiến trúc Ngự triều di quy.
Thành trung là một vòng thành không có khuôn hình cân xứng, dài 6.500 m, nơi cao nhất là 10 m, mặt thành rộng trung bình 10 m, có năm cửa ở các hướng đông, nam, bắc, tây bắc và tây nam, trong đó cửa đông ăn thông với sông Hồng.
ĐỀN THỤC AN DƯƠNG VƯƠNG
Đền thờ An Dương Vương (còn gọi là đền Thượng) ở trên một quả đồi tương truyền là cung thất của nhà vua, đất rộng 19.138,6m2 . Tại vị trí lối lên cửa giữa của đền đặt đôi rồng đá, mang phong cách nghệ thuật thời Lê mạt. Trong đền còn lưu giữ được 5 tấm bia đá và 53 hiện vật có giá trị lịch sử, văn hóa và khoa học đặc sắc.
Kiến trúc đền gồm: tiền tế - 3 gian, 2 chái, hệ khung kết cấu gỗ, mái lợp ngói mũi hài. Trên hệ mái đắp các đầu đao cong, tượng nghê chầu. Các bộ vì chính được làm theo kiểu giá chiêng, sơn son thếp vàng, chạm họa tiết “rồng vờn mây”; trung đường đấu mái liền với hậu cung, tạo thành dạng thức kiến trúc kiểu “chuôi vồ”, bên trong đặt tượng An Dương Vương, bằng đồng, nặng khoảng 200kg.
ĐỀN THỤC AN DƯƠNG VƯƠNG
Ngay trước đền thờ là một hồ nước hình bán nguyệt, giữa là giếng Ngọc – gắn liền với truyền thuyết về mối tình Mỵ Châu - Trọng Thủy.
Mặt trước đền
ĐỀN THỤC AN DƯƠNG VƯƠNG
Bàn thờ An Dương Vương
Tượng vua An Dương Vương
Bàn thờ thần Kim Quy với Nỏ thần
Bàn thờ Hoàng Hậu
AM MỴ CHÂU
Am Mỵ Châu (am Bà Chúa hay đền thờ Mỵ Châu): toạ lạc trên khu vực rộng 925,4m2. Mặt bằng kiến trúc được bố cục theo dạng “tiền Nhất, hậu Đinh”, gồm các tòa tiền tế, trung đường và hậu cung.
Trong căn phòng nhỏ phía sau có tượng công chúa Mỵ Châu – một khối đá tự nhiên hình người không đầu. Truyền thuyết kể rằng xác Mỵ Châu sau khi bị vua cha chặt đầu đã hóa thành đá và trôi về bãi Đường Cấm, phía Đông thành Cổ Loa. Dân trong thành thương cảm đem võng ra cáng bức tượng đá không đầu về đến gốc đa thì đứt võng. Người dân bèn lập am thờ Mỵ Châu ngay tại nơi tượng đá rơi xuống…
ĐÌNH LÀNG CỔ LOA
Đình Cổ Loa (Ngự Triều Di Quy): có bố cục mặt bằng nền hình chữ “Đinh”, gồm đại đình và hậu cung. Đại đình gồm 5 gian, 2 chái, kết cấu khung gỗ, mái lợp ngói mũi hài, với 4 góc đao cong vút. Các bộ vì nóc được kết cấu theo kiểu “giá chiêng, chồng rường”, với 6 hàng chân cột. Hậu cung nối liền với đại đình qua bộ cửa bức bàn phía dưới và đấu mái ở phía trên.
Theo truyền thuyết thì đó là nền cũ của điện ngự triều, nơi bá quan triều hội ngày xưa nên trong đình còn tấm hoành phi "Ngự triều di quy”.
VỀ QUÂN SỰ
Về mặt quân sự, thành Cổ Loa thể hiện sự sáng tạo độc đáo của người Việt cổ trong công cuộc giữ nước và chống ngoại xâm. Với các bức thành kiên cố, với hào sâu rộng cùng các ụ, lũy, Cổ Loa là một căn cứ phòng thủ vững chắc để bảo vệ nhà vua, triều đình và kinh đô. Đồng thời là một căn cứ kết hợp hài hòa thủy binh cùng bộ binh. Nhờ ba vòng hào thông nhau dễ dàng, thủy binh có thể phối hợp cùng bộ binh để vận động trên bộ cũng như trên nước khi tác chiến.
VỀ XÃ HỘI
Về mặt xã hội, với sự phân bố từng khu cư trú cho vua, quan, binh lính, thành Cổ Loa là một chứng cứ về sự phân hóa của xã hội thời ấy. Thời kỳ này, vua quan không những đã tách khỏi dân chúng mà còn phải được bảo vệ chặt chẽ, sống gần như cô lập hẳn với cuộc sống bình thường. Xã hội đã có giai cấp rõ ràng và xa hội có sự phân hóa giàu nghèo rõ ràng hơn thời Vua Hùng.
VỀ VĂN HÓA
Về mặt văn hóa, là một tòa thành cổ nhất còn để lại dấu tích, Cổ Loa trở thành một di sản văn hóa, một bằng chứng về sự sáng tạo, về trình độ kỹ thuật cũng như văn hóa của người Việt Cổ. Đá kè chân thành, gốm rải rìa thành, hào nước quanh co, ụ lũy phức tạp, hỏa hồi chắc chắn và nhất là địa hình hiểm trở ngoằn ngoèo, tất cả những điều làm chứng nghệ thuật và văn hóa thời An Dương Vương. Hàng năm, vào ngày 6 tháng giêng âm lịch, cư dân Cổ Loa tổ chức một lễ trang trọng để tưởng nhớ đến những người xưa đã có công xây thành, và nhất là để ghi ơn An Dương Vương.
KẾT LUẬN
Thành Cổ Loa là một công trình có tuổi thọ, quy mô, cấu trúc thuộc vào loại độc đáo nhất và cổ xưa nhất trong lich sử xây dựng thành lũy của người Việt cổ.
Thành thể hiện sự sáng tạo độc đáo của người Việt cổ trong công cuộc dựng nước và giữ nước.
Cùng với những di tích lịch sử khác, các truyền thuyết về thời kì Văn Lang – Âu Lạc, thành Cổ Loa góp phần gửi cho chúng ta về một bài học quý báu trong công cuộc dựng nước và giữ nước: Luôn phải đề cao cảnh giác truớc những âm mưu thâm độc của ngoại bang. Lúc chúng ta sơ hở, mất ý chí cảnh giác vì tin giặc là lúc chúng ta mất nước.
* Một số tài liệu cũ có thể bị lỗi font khi hiển thị do dùng bộ mã không phải Unikey ...
Người chia sẻ: Phạm Thị Thanh Vân
Dung lượng: |
Lượt tài: 0
Loại file:
Nguồn : Chưa rõ
(Tài liệu chưa được thẩm định)