Hoạt động của Bác Hồ từ năm 1911-1923
Chia sẻ bởi Lê Thị Luân |
Ngày 18/03/2024 |
9
Chia sẻ tài liệu: hoạt động của Bác Hồ từ năm 1911-1923 thuộc Lịch sử
Nội dung tài liệu:
HỒ CHÍ MINH
NHÀ LÃNH TỤ VĨ ĐẠI CỦA DÂN TỘC
Sự nghiệp hoạt động của bác hồ trong thời gian 1911- 1923
Sự nghiệp của Nguyễn Ái Quốc trong thời gian từ 1911-1923
Tiểu sử
Bối cảnh lịch sử
Hoạt động
Kết luận
Tiểu sử
Hồ Chí Minh sinh ngày 19/5/1890 trong một gia đình trí thức ở làng Kim Liên, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An.
Sinh ra và lớn lên được sự giáo dục của ông bà, cha mẹ, anh chị, được sống trong gia đình giàu lòng nhân ái và yêu nước sâu đậm.
Bối cảnh lịch sử
Bối cảnh lịch sử Việt Nam:
Việt Nam bị thực dân Pháp xâm lược. Nước ta trở thành nước thuộc địa nửa phong kiến.
Nhân dân bị áp bức, bóc lột nặng nề.
Có sự biến chuyển và phân hóa, giai cấp công nhân, tầng lớp tiểu tư sản và tư sản bắt đầu xuất hiện tạo ra những tiền đề bên trong cho phong trào yêu nước giải phóng dân tộc Việt Nam đầu thế kỷ 20
Bối cảnh quốc tế
Chủ nghĩa đế quốc ra đời, các nước đế quốc tiến hành xâm lược thuộc địa. Việt Nam là một trong những nước thuộc địa bị xâm lược để lại hậu quả rất nặng nề( bị cướp ruộng đất, bị bóc lột…)
Từ lúc thiếu thời đến tuổi trưởng thành, Nguyến Tất Thành đã tiếp thu truyền thống nhân ái của dân tộc, thương người, thương dân, khát vọng có được một cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc.
Chính chủ nghĩa yêu nước, dạt dào tình nhân ái đó, với ý chí và lòng quyết tâm, chỉ với hai bàn tay trắng, Nguyễn Tất Thành đã ra đi tìm đường cứu nước.
Hoạt động
Thời kỳ tìm tòi con đường cứu nước giải phóng dân tộc
Ngày 2-6-1911, vào lúc buổi trưa, trên bên nhà Rồng, cảng Sài Gòn, có một người thanh niên tên là Nguyễn Tất Thành đang đứng trên cảng chờ gặp người chủ tàu để xin việc làm.
Ông chủ tàu là người ngoại quốc nhưng rất nhã nhặn. Thấy người thanh niên nhỏ nhắn nhưng lịch thiệp, ông liền vui vẻ nhận anh vào làm phụ bếp.
Và ngày hôm sau, ngày 3-6-1911, Nguyễn Tất Thành với cái tên là Văn Ba chính thức được làm việc trên chiếc tàu buôn Đô đốc Latouche- Tre’ville.
Con tàu rời bến nhà Rồng đưa anh Văn Ba đi nhiều nơi trên thế giới.Theo hành trình của tàu, Nguyễn Tất Thành đã dừng chân ở cảng Mácxay, cảng Lơ Havơ rơ của Pháp.
Những ngày đầu tiên trên đất Pháp, được chứng kiến ở Pháp cũng có những người nghèo như ở Việt Nam, anh nhận thấy có những người Pháp trên đất Pháp tốt và lịch sự hơn những tên thực dân Pháp ở Đông Dương
Không dừng lại ở Pháp, năm 1912, Nguyễn Tất Thành làm thuê cho một chiếc tàu của hãng Sácgio Rêuyni đi vòng quanh Châu Phi, đã có dịp dừng lại ở những bến cảng của một số nước như Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Angieri, Tuynidi, Coonggo, Đahômây, Xeneegan, Rêuyniông…
Để thuận tiện cho việc giao lưu với những người nước ngoài, anh Văn Ba tranh thủ những lúc rỗi rãi để học, đọc và viết tiếng Pháp.
Đến đâu anh cũng thấy cảnh khổ cực của người lao động dưới sự áp bức, bóc lột, dã man, vô nhân đạo của bọn thống trị.
Những sự việc như vậy diễn ra khắp nơi trên đường anh đi qua, tạo nên ở anh mối đồng cảm sâu sắc với số phận chung của nhân dân các nước thuộc địa.
Tiếp tục đi theo tàu qua Mactinich(Trung Mỹ), Urugoay và Achentina( Nam Mỹ) và dừng lại ở Mỹ(cuối năm 1912).
Ở đây, Nguyễn Tất Thành có dịp tìm hiểu cuộc đấu tranh giành độc lập của nhân dân Mỹ với bản tuyên ngôn độc lập nổi tiếng. Người vừa phải làm thuê kiếm sống, vừa tìm hiểu đời sống của những người lao động Mỹ.(cuộc sống khổ cực, nạn phân biệt chủng tộc)
Khoảng đầu năm 1913, Nguyễn Tất Thành theo tàu rời Mỹ trở về Lơ Havoro, sau đó sang Anh.
Đến nước Anh, để kiếm tiền sinh sống, anh nhận cào tuyết cho một trường học, rồi làm thợ đốt lò. Công việc hết sức nặng nhọc, nhưng sau mỗi ngày anh đều tranh thủ thời gian học tiếng Anh.
Nguyễn Tất Thành đã vận dụng tiếng Anh làm cơ sở để tìm hiểu học hỏi nâng cao vốn hiểu biết cho bản thân lúc giấy giờ.
Cuối năm 1913, sau 2 tuần nghỉ việc vì bị cảm, Nguyến Tất Thành đến làm thuê ở khách sạn Đraytơn Cooc, đại lộ Đraytơn, khu Oét Ilinh, phía Tây Luân Đôn.
Một thời gian sau, Nguyễn Tất Thành lại chuyển sang làm phụ bếp ở khách sạn Cacsloton, phố Hây Maket, một khách sạn nổi tiếng Luân Đôn.
Tại Anh, Nguyễn Tất Thành đã hăng hái tham dự những cuộc diễn thuyết ngoài trời của nhiều nhà chính trị và triết học, tham gia hội những người lao động hải ngoại, ủng hộ cuộc đấu tranh yêu nước của nhân dân Airolen.
Trở lại Pháp, đến thủ đô Pari Nguyễn Tất Thành ở rất nhiều nơi.
Trong tháng 7-1921, Nguyễn Tất Thành chuyển đến nhà số 9, ngõ Coongpoanh (Compoint), quận 17, một trong những khu lao động nghèo nhất của thủ đô Pháp.
Nguyễn Tất Thành đã ở đây 20 tháng, từ 14-7-1921 đến 14-3-1923.
Thời gian đầu khi tới Pari, chưa có giấy tờ hợp pháp, Nguyễn Tất Thành được các đồng chí trong ban đón tiếp người lao động nhập cư của đảng xã hội Pháp giúp đỡ.
Trong khi chờ các đồng chí tìm cho giấy tờ quân dịch hợp pháp, anh phải sống ẩn náu, hạn chế đi lại để tránh sự kiểm tra của cảnh sát.
Cuộc sống của anh lúc đó gặp rất nhiều khó khăn. Vừa hoạt động chính trị, vừa phải kiếm sống một cách chật vật, khi thì làm thuê cho một hiệu ảnh, khi thì vẽ thuê cho một xưởng đồ cổ mỹ nghệ Trung Hoa, nhưng anh vẫn kiên trì, hăng say học tập và hoạt động.
Anh thường xuyên gặp gỡ với những người Việt Nam ở Pháp, có tư tưởng và khuynh hướng tiến bộ như Phan Châu Trinh, Phan Văn Trường. Nguyễn Tất Thành từng bước tham gia vào cuộc đấu tranh của phong trào công nhân và lao động Pháp.
Khoảng đầu năm 1919, Nguyễn Tất Thành gia nhập Đảng xã hội Pháp. Thời gian này người lấy tên là Nguyễn Ái Quốc
Mùa hè 1919, Nguyễn Ái Quốc thành lập một tổ chức mới cho những người Việt sống tại Pháp: Hội những người An Nam yêu nước.
Khi đó anh chưa được nhiều người biết đến.Do đó Phan Châu Trinh và Phan Văn Trường giữ vị trí lãnh đạo hội.
Tuy nhiên với vai trò thư ký, Nguyễn Ái Quốc gần như là động lực chính của hội.
Năm 1918, chiến tranh thế giới thứ nhất kết thúc.
Ngày 18-6-1919, đại biểu các nước đế quốc tham gia chiến tranh họp Hội nghị ở Vécxay (Pháp).
Văn kiện chính của hội nghị là hiệp ước Vecsxay xác định sự thất bại của nước Đức và các nước đồng minh của Đức, phân chia lại bản đồ thế giới theo hướng có lợi cho các nước đế quốc thắng trận, chủ yếu là Mỹ, Anh, Pháp.
Thay mặt hội những người yêu nước Việt Nam tại Pháp, Nguyễn Ái Quốc cùng Phan Châu Trinh, Phan Văn Trường thảo ra bản yêu sách của nhân dân An Nam gửi tới hội nghị Vécxây.
Dưới bản yêu sách, người đã ký tên mình là Nguyễn Ái Quốc.Đây là lần đầu tiên tên gọi Nguyễn Ái Quốc xuất hiện.
Nguyễn Ái Quốc tới lâu đài Véc xây gửi bản yêu sách cho văn phòng Hội nghị, sau đó lần lượt gửi bản yêu sách đến các đoàn đại biểu, các nước Đồng minh dự Hội nghị.
Bản yêu sách gồm 8 điểm như sau:
Tổng ân xá cho tất cả những người bản xứ bị án tù chính trị
Cải cách nền pháp lý ở Đông Dương bằng cách cho người bản xứ cũng được quyền hưởng những đảm bảo về mặt pháp luật như người Châu Âu, xóa bỏ hoàn toàn các tòa án đặc biệt dùng làm công cụ để khủng bố và áp bức bộ phận trung thực nhất trong nhân dân An Nam
Tự do báo chí và tự do ngôn luận
Tự do lập hội và hội họp
Tự do cư trú ở nước ngoài và tự do xuất dương
Tự do học tập, thành lập các trường kỹ thuật và chuyên nghiệp ở tất cả các tỉnh cho người bản xứ
Thay chế độ ra các sắc lệnh bằng chế đọ ra các đạo luật
Doàn đại biểu thường trực của người bản xứ, do người bản xứ bầu ra, tại Nghị Viện Pháp để giúp cho Nghị Viện biết được những nguyện vọng của người bản xứ.
Bản yêu sách phản ánh nguyện vọng của nhân dân Việt Nam không được hội nghị xem xét.
Đối với dư luận Pháp, yêu sách cũng không có tiếng vang như mong muốn, nhưng lại tác động mạnh mẽ đến người Việt trong nước và nước ngoài
Một người Việt Nam với tên gọi Nguyễn Ái Quốc đã dũng cảm đưa vấn đề chính trị của Việt Nam ra quốc tế, đòi cho Việt Nam có những quyền cơ bản chính đáng, thiết thực.
Đây là dấu hiệu mới của cuộc đấu tranh của nhân dân Việt Nam trên đường đi tới độc lập dân tộc.
Tháng 7-1920, Nguyễn Ái Quốc lần đầu tiên đọc được “Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về các vấn đề dân tộc và thuộc đia” của Lênin.
Người đã sáng tỏ nhiều điều về con đường giải phóng dân tộc.
Ảnh hưởng của CMT10 Nga và những tư tưởng của Lênin về vấn đề dân tộc và thuộc địa đã làm cho người hoàn toàn tin theo Lê nin và người đã tin và đứng về phía quốc tế 3.
Quyết tâm đi theo con đường của Lê nin, Nguyễn Ái Quốc xin gia nhập Ủy ban Quốc tế III, do một số đồng chí trong Đảng xã hội Pháp lập ra, nhằm tuyên truyền, vận động gia nhập quốc tế III
Tháng 12-1920, đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ 18 Đảng xã Hội Pháp họp từ ngày 25 đến ngày 30-12-1920, tại thành phố Tua (Pháp).
Nguyễn Ái Quốc tham dự đại hội với tư cách là đại biểu chính thức và duy nhất của các nước thuộc địa Đông Dương.
Toàn cảnh Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ 18 Đảng Xã hội Pháp ở thành Tours (1920) đồng chí Nguyễn Ái Quốc tham dự với tư cách đại biểu Đông Dương.
Tại phiên họp buổi chiều ngày 26-12-1920, Nguyễn Ái Quốc được mời phát biểu.
Trong bài phát biểu, người lên án chủ nghĩa đế quốc Pháp, vì lợi ích của nó, đã dùng lưỡi lê chinh phục Đông Dương và trong suốt nửa thế kỷ, nhân dân Đông dương không những bị áp bức và bóc lột một cách nhục nhã mà còn bị hành hạ và đầu độc một cách thê thảm.
Tại đại hội lịch sử này, cùng với những người cách mạng chân chính của nước Pháp, Nguyễn Ái Quốc đã bỏ phiếu tán thành tham gia quốc tế III Quốc tế Cộng sản, trở thành một trong những người sáng lập Đảng cộng sản Pháp
Người cũng trở thành người cộng sản Việt Nam đầu tiên.
Đó là một sự kiện chính trị vô cùng quan trọng trong đời hoạt động cách mạng của Nguyến Ái Quốc và trong lịch sử cách mạng nước ta.
Phong trào hoạt động cách mạng của Người
Năm 1921, Nguyễn Ái Quốc tham gia sáng lập hội liên hiệp thuộc địa. Đây là lần đầu tiên xuất hiện một tổ chức liên minh các dân tộc bị đế quốc áp bức, để đấu tranh giải phóng dân tộc, ra đời ngay tại trung tâm của chính CNĐQ
Đầu năm 1922, tại Paris, thủ đô của nước Pháp lần đầu tiên xuất hiện tờ báo in tiếng Pháp mang tên “Paria” với danh nghĩa: “ Diễn đàn của các dân tộc thuộc địa” do Nguyễn Ái Quốc, người cộng sản đầu tiên của Việt Nam sáng lập và tổ chức xuất bản.
Những bài báo của Người trong thời gian từ năm 1919-1924 đã tố cáo, lên án chế độ thực dân tàn ác ở các thuộc địa, kêu gọi các Đảng cộng sản ở các chính quốc giúp đỡ phong trào ở các thuộc địa.
Người thành lập tờ báo Le Paria (Người cùng khổ), cơ quan ngôn luận của Hội, vừa là người sáng lập, kiêm chủ bút, biên tập và phát hành báo. Nhờ công lao của Nguyễn Ái Quốc, tờ báo đã góp phần quan trọng vào việc tuyên truyền, giác ngộ chủ nghĩa Mác-Lênin ở các nước thuộc địa.
Ngày 13/6/1923, Đảng cộng sản Pháp tổ chức cho Nguyễn Ái Quốc bí mật rời Pari sang Nga để dự hội nghị Quốc tế và phát biểu về vấn đề thuộc đia
Lev Trotsky và Nguyễn Ái Quốc năm 1924 ở Moskva
Kết luận
Như vậy từ năm 1911- 1923 là thời kỳ Nguyễn Ái Quốc khảo sát, nghiên cứu để lựa chọn con đường giải phóng dân tộc Việt Nam khỏi ách nô lệ của bọn thực dân, phong kiến.
Trải qua thực tế lao động, học tập, thâm nhập đời sống những người lao động, phân tích tình hình chính trị thế giới, tiếp cận với chủ nghĩa Mác Lê nin, Nguyễn Ái Quốc đã lựa chọn con đường cứu nước đúng đắn. Đó là con đường cách mạng vô sản sau này của Người.
Cảm ơn các bạn đã quan tâm theo dõi
NHÀ LÃNH TỤ VĨ ĐẠI CỦA DÂN TỘC
Sự nghiệp hoạt động của bác hồ trong thời gian 1911- 1923
Sự nghiệp của Nguyễn Ái Quốc trong thời gian từ 1911-1923
Tiểu sử
Bối cảnh lịch sử
Hoạt động
Kết luận
Tiểu sử
Hồ Chí Minh sinh ngày 19/5/1890 trong một gia đình trí thức ở làng Kim Liên, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An.
Sinh ra và lớn lên được sự giáo dục của ông bà, cha mẹ, anh chị, được sống trong gia đình giàu lòng nhân ái và yêu nước sâu đậm.
Bối cảnh lịch sử
Bối cảnh lịch sử Việt Nam:
Việt Nam bị thực dân Pháp xâm lược. Nước ta trở thành nước thuộc địa nửa phong kiến.
Nhân dân bị áp bức, bóc lột nặng nề.
Có sự biến chuyển và phân hóa, giai cấp công nhân, tầng lớp tiểu tư sản và tư sản bắt đầu xuất hiện tạo ra những tiền đề bên trong cho phong trào yêu nước giải phóng dân tộc Việt Nam đầu thế kỷ 20
Bối cảnh quốc tế
Chủ nghĩa đế quốc ra đời, các nước đế quốc tiến hành xâm lược thuộc địa. Việt Nam là một trong những nước thuộc địa bị xâm lược để lại hậu quả rất nặng nề( bị cướp ruộng đất, bị bóc lột…)
Từ lúc thiếu thời đến tuổi trưởng thành, Nguyến Tất Thành đã tiếp thu truyền thống nhân ái của dân tộc, thương người, thương dân, khát vọng có được một cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc.
Chính chủ nghĩa yêu nước, dạt dào tình nhân ái đó, với ý chí và lòng quyết tâm, chỉ với hai bàn tay trắng, Nguyễn Tất Thành đã ra đi tìm đường cứu nước.
Hoạt động
Thời kỳ tìm tòi con đường cứu nước giải phóng dân tộc
Ngày 2-6-1911, vào lúc buổi trưa, trên bên nhà Rồng, cảng Sài Gòn, có một người thanh niên tên là Nguyễn Tất Thành đang đứng trên cảng chờ gặp người chủ tàu để xin việc làm.
Ông chủ tàu là người ngoại quốc nhưng rất nhã nhặn. Thấy người thanh niên nhỏ nhắn nhưng lịch thiệp, ông liền vui vẻ nhận anh vào làm phụ bếp.
Và ngày hôm sau, ngày 3-6-1911, Nguyễn Tất Thành với cái tên là Văn Ba chính thức được làm việc trên chiếc tàu buôn Đô đốc Latouche- Tre’ville.
Con tàu rời bến nhà Rồng đưa anh Văn Ba đi nhiều nơi trên thế giới.Theo hành trình của tàu, Nguyễn Tất Thành đã dừng chân ở cảng Mácxay, cảng Lơ Havơ rơ của Pháp.
Những ngày đầu tiên trên đất Pháp, được chứng kiến ở Pháp cũng có những người nghèo như ở Việt Nam, anh nhận thấy có những người Pháp trên đất Pháp tốt và lịch sự hơn những tên thực dân Pháp ở Đông Dương
Không dừng lại ở Pháp, năm 1912, Nguyễn Tất Thành làm thuê cho một chiếc tàu của hãng Sácgio Rêuyni đi vòng quanh Châu Phi, đã có dịp dừng lại ở những bến cảng của một số nước như Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Angieri, Tuynidi, Coonggo, Đahômây, Xeneegan, Rêuyniông…
Để thuận tiện cho việc giao lưu với những người nước ngoài, anh Văn Ba tranh thủ những lúc rỗi rãi để học, đọc và viết tiếng Pháp.
Đến đâu anh cũng thấy cảnh khổ cực của người lao động dưới sự áp bức, bóc lột, dã man, vô nhân đạo của bọn thống trị.
Những sự việc như vậy diễn ra khắp nơi trên đường anh đi qua, tạo nên ở anh mối đồng cảm sâu sắc với số phận chung của nhân dân các nước thuộc địa.
Tiếp tục đi theo tàu qua Mactinich(Trung Mỹ), Urugoay và Achentina( Nam Mỹ) và dừng lại ở Mỹ(cuối năm 1912).
Ở đây, Nguyễn Tất Thành có dịp tìm hiểu cuộc đấu tranh giành độc lập của nhân dân Mỹ với bản tuyên ngôn độc lập nổi tiếng. Người vừa phải làm thuê kiếm sống, vừa tìm hiểu đời sống của những người lao động Mỹ.(cuộc sống khổ cực, nạn phân biệt chủng tộc)
Khoảng đầu năm 1913, Nguyễn Tất Thành theo tàu rời Mỹ trở về Lơ Havoro, sau đó sang Anh.
Đến nước Anh, để kiếm tiền sinh sống, anh nhận cào tuyết cho một trường học, rồi làm thợ đốt lò. Công việc hết sức nặng nhọc, nhưng sau mỗi ngày anh đều tranh thủ thời gian học tiếng Anh.
Nguyễn Tất Thành đã vận dụng tiếng Anh làm cơ sở để tìm hiểu học hỏi nâng cao vốn hiểu biết cho bản thân lúc giấy giờ.
Cuối năm 1913, sau 2 tuần nghỉ việc vì bị cảm, Nguyến Tất Thành đến làm thuê ở khách sạn Đraytơn Cooc, đại lộ Đraytơn, khu Oét Ilinh, phía Tây Luân Đôn.
Một thời gian sau, Nguyễn Tất Thành lại chuyển sang làm phụ bếp ở khách sạn Cacsloton, phố Hây Maket, một khách sạn nổi tiếng Luân Đôn.
Tại Anh, Nguyễn Tất Thành đã hăng hái tham dự những cuộc diễn thuyết ngoài trời của nhiều nhà chính trị và triết học, tham gia hội những người lao động hải ngoại, ủng hộ cuộc đấu tranh yêu nước của nhân dân Airolen.
Trở lại Pháp, đến thủ đô Pari Nguyễn Tất Thành ở rất nhiều nơi.
Trong tháng 7-1921, Nguyễn Tất Thành chuyển đến nhà số 9, ngõ Coongpoanh (Compoint), quận 17, một trong những khu lao động nghèo nhất của thủ đô Pháp.
Nguyễn Tất Thành đã ở đây 20 tháng, từ 14-7-1921 đến 14-3-1923.
Thời gian đầu khi tới Pari, chưa có giấy tờ hợp pháp, Nguyễn Tất Thành được các đồng chí trong ban đón tiếp người lao động nhập cư của đảng xã hội Pháp giúp đỡ.
Trong khi chờ các đồng chí tìm cho giấy tờ quân dịch hợp pháp, anh phải sống ẩn náu, hạn chế đi lại để tránh sự kiểm tra của cảnh sát.
Cuộc sống của anh lúc đó gặp rất nhiều khó khăn. Vừa hoạt động chính trị, vừa phải kiếm sống một cách chật vật, khi thì làm thuê cho một hiệu ảnh, khi thì vẽ thuê cho một xưởng đồ cổ mỹ nghệ Trung Hoa, nhưng anh vẫn kiên trì, hăng say học tập và hoạt động.
Anh thường xuyên gặp gỡ với những người Việt Nam ở Pháp, có tư tưởng và khuynh hướng tiến bộ như Phan Châu Trinh, Phan Văn Trường. Nguyễn Tất Thành từng bước tham gia vào cuộc đấu tranh của phong trào công nhân và lao động Pháp.
Khoảng đầu năm 1919, Nguyễn Tất Thành gia nhập Đảng xã hội Pháp. Thời gian này người lấy tên là Nguyễn Ái Quốc
Mùa hè 1919, Nguyễn Ái Quốc thành lập một tổ chức mới cho những người Việt sống tại Pháp: Hội những người An Nam yêu nước.
Khi đó anh chưa được nhiều người biết đến.Do đó Phan Châu Trinh và Phan Văn Trường giữ vị trí lãnh đạo hội.
Tuy nhiên với vai trò thư ký, Nguyễn Ái Quốc gần như là động lực chính của hội.
Năm 1918, chiến tranh thế giới thứ nhất kết thúc.
Ngày 18-6-1919, đại biểu các nước đế quốc tham gia chiến tranh họp Hội nghị ở Vécxay (Pháp).
Văn kiện chính của hội nghị là hiệp ước Vecsxay xác định sự thất bại của nước Đức và các nước đồng minh của Đức, phân chia lại bản đồ thế giới theo hướng có lợi cho các nước đế quốc thắng trận, chủ yếu là Mỹ, Anh, Pháp.
Thay mặt hội những người yêu nước Việt Nam tại Pháp, Nguyễn Ái Quốc cùng Phan Châu Trinh, Phan Văn Trường thảo ra bản yêu sách của nhân dân An Nam gửi tới hội nghị Vécxây.
Dưới bản yêu sách, người đã ký tên mình là Nguyễn Ái Quốc.Đây là lần đầu tiên tên gọi Nguyễn Ái Quốc xuất hiện.
Nguyễn Ái Quốc tới lâu đài Véc xây gửi bản yêu sách cho văn phòng Hội nghị, sau đó lần lượt gửi bản yêu sách đến các đoàn đại biểu, các nước Đồng minh dự Hội nghị.
Bản yêu sách gồm 8 điểm như sau:
Tổng ân xá cho tất cả những người bản xứ bị án tù chính trị
Cải cách nền pháp lý ở Đông Dương bằng cách cho người bản xứ cũng được quyền hưởng những đảm bảo về mặt pháp luật như người Châu Âu, xóa bỏ hoàn toàn các tòa án đặc biệt dùng làm công cụ để khủng bố và áp bức bộ phận trung thực nhất trong nhân dân An Nam
Tự do báo chí và tự do ngôn luận
Tự do lập hội và hội họp
Tự do cư trú ở nước ngoài và tự do xuất dương
Tự do học tập, thành lập các trường kỹ thuật và chuyên nghiệp ở tất cả các tỉnh cho người bản xứ
Thay chế độ ra các sắc lệnh bằng chế đọ ra các đạo luật
Doàn đại biểu thường trực của người bản xứ, do người bản xứ bầu ra, tại Nghị Viện Pháp để giúp cho Nghị Viện biết được những nguyện vọng của người bản xứ.
Bản yêu sách phản ánh nguyện vọng của nhân dân Việt Nam không được hội nghị xem xét.
Đối với dư luận Pháp, yêu sách cũng không có tiếng vang như mong muốn, nhưng lại tác động mạnh mẽ đến người Việt trong nước và nước ngoài
Một người Việt Nam với tên gọi Nguyễn Ái Quốc đã dũng cảm đưa vấn đề chính trị của Việt Nam ra quốc tế, đòi cho Việt Nam có những quyền cơ bản chính đáng, thiết thực.
Đây là dấu hiệu mới của cuộc đấu tranh của nhân dân Việt Nam trên đường đi tới độc lập dân tộc.
Tháng 7-1920, Nguyễn Ái Quốc lần đầu tiên đọc được “Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về các vấn đề dân tộc và thuộc đia” của Lênin.
Người đã sáng tỏ nhiều điều về con đường giải phóng dân tộc.
Ảnh hưởng của CMT10 Nga và những tư tưởng của Lênin về vấn đề dân tộc và thuộc địa đã làm cho người hoàn toàn tin theo Lê nin và người đã tin và đứng về phía quốc tế 3.
Quyết tâm đi theo con đường của Lê nin, Nguyễn Ái Quốc xin gia nhập Ủy ban Quốc tế III, do một số đồng chí trong Đảng xã hội Pháp lập ra, nhằm tuyên truyền, vận động gia nhập quốc tế III
Tháng 12-1920, đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ 18 Đảng xã Hội Pháp họp từ ngày 25 đến ngày 30-12-1920, tại thành phố Tua (Pháp).
Nguyễn Ái Quốc tham dự đại hội với tư cách là đại biểu chính thức và duy nhất của các nước thuộc địa Đông Dương.
Toàn cảnh Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ 18 Đảng Xã hội Pháp ở thành Tours (1920) đồng chí Nguyễn Ái Quốc tham dự với tư cách đại biểu Đông Dương.
Tại phiên họp buổi chiều ngày 26-12-1920, Nguyễn Ái Quốc được mời phát biểu.
Trong bài phát biểu, người lên án chủ nghĩa đế quốc Pháp, vì lợi ích của nó, đã dùng lưỡi lê chinh phục Đông Dương và trong suốt nửa thế kỷ, nhân dân Đông dương không những bị áp bức và bóc lột một cách nhục nhã mà còn bị hành hạ và đầu độc một cách thê thảm.
Tại đại hội lịch sử này, cùng với những người cách mạng chân chính của nước Pháp, Nguyễn Ái Quốc đã bỏ phiếu tán thành tham gia quốc tế III Quốc tế Cộng sản, trở thành một trong những người sáng lập Đảng cộng sản Pháp
Người cũng trở thành người cộng sản Việt Nam đầu tiên.
Đó là một sự kiện chính trị vô cùng quan trọng trong đời hoạt động cách mạng của Nguyến Ái Quốc và trong lịch sử cách mạng nước ta.
Phong trào hoạt động cách mạng của Người
Năm 1921, Nguyễn Ái Quốc tham gia sáng lập hội liên hiệp thuộc địa. Đây là lần đầu tiên xuất hiện một tổ chức liên minh các dân tộc bị đế quốc áp bức, để đấu tranh giải phóng dân tộc, ra đời ngay tại trung tâm của chính CNĐQ
Đầu năm 1922, tại Paris, thủ đô của nước Pháp lần đầu tiên xuất hiện tờ báo in tiếng Pháp mang tên “Paria” với danh nghĩa: “ Diễn đàn của các dân tộc thuộc địa” do Nguyễn Ái Quốc, người cộng sản đầu tiên của Việt Nam sáng lập và tổ chức xuất bản.
Những bài báo của Người trong thời gian từ năm 1919-1924 đã tố cáo, lên án chế độ thực dân tàn ác ở các thuộc địa, kêu gọi các Đảng cộng sản ở các chính quốc giúp đỡ phong trào ở các thuộc địa.
Người thành lập tờ báo Le Paria (Người cùng khổ), cơ quan ngôn luận của Hội, vừa là người sáng lập, kiêm chủ bút, biên tập và phát hành báo. Nhờ công lao của Nguyễn Ái Quốc, tờ báo đã góp phần quan trọng vào việc tuyên truyền, giác ngộ chủ nghĩa Mác-Lênin ở các nước thuộc địa.
Ngày 13/6/1923, Đảng cộng sản Pháp tổ chức cho Nguyễn Ái Quốc bí mật rời Pari sang Nga để dự hội nghị Quốc tế và phát biểu về vấn đề thuộc đia
Lev Trotsky và Nguyễn Ái Quốc năm 1924 ở Moskva
Kết luận
Như vậy từ năm 1911- 1923 là thời kỳ Nguyễn Ái Quốc khảo sát, nghiên cứu để lựa chọn con đường giải phóng dân tộc Việt Nam khỏi ách nô lệ của bọn thực dân, phong kiến.
Trải qua thực tế lao động, học tập, thâm nhập đời sống những người lao động, phân tích tình hình chính trị thế giới, tiếp cận với chủ nghĩa Mác Lê nin, Nguyễn Ái Quốc đã lựa chọn con đường cứu nước đúng đắn. Đó là con đường cách mạng vô sản sau này của Người.
Cảm ơn các bạn đã quan tâm theo dõi
* Một số tài liệu cũ có thể bị lỗi font khi hiển thị do dùng bộ mã không phải Unikey ...
Người chia sẻ: Lê Thị Luân
Dung lượng: |
Lượt tài: 0
Loại file:
Nguồn : Chưa rõ
(Tài liệu chưa được thẩm định)