Ho chi minh day rat hay

Chia sẻ bởi Trần Thu Diễm | Ngày 07/05/2019 | 42

Chia sẻ tài liệu: ho chi minh day rat hay thuộc Học vần 1

Nội dung tài liệu:



Bài 9

KHÔNG NGỪNG PHẤN ĐẤU VÀ RÈN LUYỆN ĐỂ XỨNG ĐÁNG VỚI DANH HIỆU NGƯỜI ĐẢNG VIÊN ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM

Phần I. Vị trí, vai trò và nhiệm vụ của người đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam

Phần II. Không ngừng phấn đấu và rèn luyện để xứng đáng với danh hiệu đảng viên

Phần III. Công tác vận động nhân dân của người đảng viên
Phần I. Vị trí, vai trò và nhiệm vụ của người đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam


Phần I. Vị trí, vai trò và nhiệm vụ của người đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam


1. Vị trí, vai trò của người đảng viên

2. Nhiệm vụ của người đảng viên
1. Vị trí, vai trò của người đảng viên
- Đảng viên là chiến sỹ cách mạng trong đội quân tiên phong của giai cấp công nhân Việt Nam, của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam.
- Đội ngũ đảng viên là những người có trách nhiệm góp phần xây dựng đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng; đồng thời có trách nhiệm tổ chức thực hiện mọi đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng.
- Đảng viên dù ở cương vị nào, cũng vừa là người lãnh đạo, vừa là người phục vụ quần chúng.
- Đảng viên là người kiên định bảo vệ Đảng, bảo vệ đường lối, chủ trương của Đảng.
2. Nhiệm vụ của người đảng viên
1. Tuyệt đối trung thành với mục đích lý tưởng cách mạng của Đảng, chấp hành nghiêm chỉnh Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, nghị quyết, chỉ thị của Đảng, pháp luật của Nhà nước; hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao; phục tùng tuyệt đối sự phân công và điều động của Đảng.
2. Không ngừng học tập, rèn luyện, nâng cao trình độ kiến thức, năng lực công tác, phẩm chất chính trị, đạo đức cách mạng, có lối sống lành mạnh; đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân, cơ hội, cục bộ, quan liêu, tham nhũng, lãng phí và các biểu hiện tiêu cực khác.

3. Liên hệ chặt chẽ với nhân dân, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân; chăm lo đời sống vật chất, tinh thần và bảo vệ quyền lợi chính đáng của nhân dân; tích cực tham gia công tác quần chúng, công tác xã hội nơi làm việc và nơi ở; tuyên truyền vận động gia đình và nhân dân thực hiện đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước.
4. Tham gia xây dựng, bảo vệ đường lối, chính sách và tổ chức của Đảng; phục tùng kỷ luật, giữ gìn đoàn kết thống nhất trong Đảng; thường xuyên tự phê bình và phê bình, trung thực với Đảng; làm công tác phát triển đảng viên; sinh hoạt Đảng và đóng đảng phí đúng quy định.
Phần II. Không ngừng phấn đấu và rèn luyện để xứng đáng với danh hiệu đảng viên
Phần II. Không ngừng phấn đấu và rèn luyện để xứng đáng với danh hiệu đảng viên

1. Thực hiện tốt tiêu chuẩn đảng viên được quy định trong Điều lệ Đảng

2. Không ngừng tự phấn đấu, rèn luyện để xứng đáng với danh hiệu người đảng viên cộng sản

1. Thực hiện tốt tiêu chuẩn đảng viên được quy định trong Điều lệ Đảng

Một là, về lập trường giai cấp, bản lĩnh chính trị.
Đảng viên phải tuyệt đối trung thành với lý tưởng cộng sản, kiên định lập trường cách mạng của giai cấp công nhân, suốt đời phấn đấu cho mục tiêu, lý tưởng của Đảng là xây dựng chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản; vững vàng, không dao động trước bất kỳ khó khăn, thử thách nào. Có mục tiêu, lý tưởng là tiêu chí phân biệt giữa đảng viên và quần chúng.
Mục tiêu, nhiệm vụ chính trị cụ thể của người đảng viên Việt Nam hiện nay là phấn đấu thực hiện thắng lợi công cuộc đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển, thực hiện thành công công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Có thể nói, thái độ và sự tham gia tích cực thực hiện đường lối đổi mới là thước đo phẩm chất, năng lực, vai trò tiên phong, gương mẫu của mỗi đảng viên.
Hai là, về nhận thức, kiến thức, năng lực toàn diện thực hiện công cuộc đổi mới đất nước.
Lênin đã dặn đi dặn lại những người cộng sản Nga rằng: nếu chỉ có nhiệt tình và lòng dũng cảm không thôi thì không thể chiến thắng được chủ nghĩa tư bản, xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội, mặc dù nhiệt tình cách mạng và lòng dũng cảm là yếu tố cực kỳ quan trọng. Để chiến thắng chủ nghĩa tư bản, xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội, những người cộng sản còn phải có kiến thức, có trình độ văn hoá cao, có trí thông minh và năng lực làm việc. Muốn thế, phải không ngừng học tập, học tập một cách kiên trì và nghiêm túc; không bằng lòng với những kinh nghiệm của mình; kiêu ngạo cộng sản là báo hiệu một sự tụt hậu…
Đổi mới ở nước ta hiện nay là cuộc vận động cách mạng toàn diện và sâu sắc, diễn ra trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Ngày nay, cách mạng khoa học và công nghệ phát triển như vũ bão, kinh tế tri thức và quá trình toàn cầu hoá đang tạo ra thời cơ và thách thức với tất cả quốc gia, dân tộc. Rõ ràng, trong tình hình đó, đảng viên phải không ngừng bồi dưỡng những kiến thức văn hoá, khoa học - kỹ thuật, quản lý kinh tế - xã hội, pháp luật... để có đủ năng lực thực hiện tốt nhiệm vụ được giao.
Ba là, về phẩm chất đạo đức, lối sống, phong cách.
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn căn dặn cán bộ, đảng viên phải nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân, mà nội dung cốt lõi của đạo đức cách mạng là trung với nước, hiếu với dân; yêu thương con người; cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư; có tinh thần quốc tế trong sáng, luôn xứng đáng với người lãnh đạo và người đầy tớ trung thành của nhân dân... Những lời dạy đó của Người đến nay vẫn giữ nguyên vẹn giá trị và có ý nghĩa to lớn trong thời kỳ đổi mới.
Những chuẩn mực đạo đức mà người đảng viên cần có là lòng yêu nước sâu sắc, tôn trọng và hết lòng phục nhân dân, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, có thái độ tích cực ủng hộ xu thế đổi mới, tham gia vào công cuộc đổi mới do Đảng khởi xướng; thống nhất giữa lời nói và việc làm.
Đạo đức, lối sống mới yêu cầu dũng cảm vạch trần, phê phán những biểu hiện cơ hội, cá nhân chủ nghĩa, những mưu toan dựa vào xu thế và hoàn cảnh đổi mới để tìm kiếm lợi ích riêng cho bản thân mình.
Tư tưởng và ý thức đạo đức phải đi liền với hành động, trong lao động, trong công việc, trong quan hệ với con người, trong đấu tranh khắc phục mọi tệ nạn và làm lành mạng các quan hệ xã hội.
Bốn là, có ý thức tổ chức kỷ luật, giữ gìn sự đoàn kết thống nhất của Đảng trên cơ sở thực hiện đúng các nguyên tắc của Đảng, nhất là nguyên tắc tập trung dân chủ, thường xuyên tự phê bình và phê bình.

Đoàn kết trong đảng là yêu cầu tối quan trọng của Đảng Cộng sản. Trong Đảng Cộng sản không thể tồn tại nhiều phái, nhiều phe cánh với lập trường và lợi ích khác nhau. Đoàn kết đã trở thành một truyền thống quý báu của Đảng ta mà tất cả các tổ chức đảng và đảng viên phải ra sức giữ gìn, vun đắp như giữ gìn con ngươi của mắt mình. Nền tảng của sự đoàn kết trong Đảng là chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, Cương lĩnh, Điều lệ, đường lối và các nguyên tắc tổ chức Đảng.
Sức mạnh của Đảng là ở tính thống nhất: thống nhất quan điểm, thống nhất ý chí, thống nhất hành động. Tập trung dân chủ là nguyên tắc bảo đảm sự thống nhất của Đảng. Vì vậy, mọi cán bộ, đảng viên ở bất cứ cương vị nào đều phải tôn trọng và chấp hành đúng nguyên tắc tập trung dân chủ.
Đảng viên có trách nhiệm tích cực tham gia thảo luận các vấn đề thuộc về đường lối, chủ trương của Đảng, có quyền chất vấn, tranh luận một cách thẳng thắn; đồng thời chú ý lắng nghe và tôn trọng ý kiến của người khác. Khi đã thành quyết định của tập thể thì phải nghiêm túc chấp hành, không được phát ngôn tuỳ tiện hoặc lan truyền những ý kiến, quan điểm riêng của mình bên ngoài các hội nghị Đảng.
Năm là, có quan hệ mật thiết với quần chúng.

Sức mạnh vô địch của Đảng là ở mối liên hệ chặt chẽ với quần chúng nhân dân. Phát huy dân chủ, vừa là mục tiêu, vừa là động lực của công cuộc đổi mới. Vì vậy, mỗi đảng viên, trước hết là đảng viên giữ cương vị lãnh đạo, có chức, có quyền, phải tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của dân, chăm lo đời sống hàng ngày của dân, tìm hiểu nguyện vọng và lắng nghe ý kiến dân, giúp đỡ dân khi gặp khó khăn, kiên quyết đấu tranh chống bệnh quan liêu, mệnh lệnh, gia trưởng, độc đoán, đặc quyền đặc lợi, trù dập, ức hiếp dân và mọi hành vi vi phạm quyền dân chủ của dân. Đây là một vấn đề hết sức quan trọng, một yêu cầu rất cần thiết đối với người đảng viên trong điều kiện Đảng lãnh đạo chính quyền.
Sự gắn bó với quần chúng, mối liên hệ mật thiết với quần chúng không chỉ là một tiêu chuẩn của nhân cách đảng viên, mà còn là sự thử thách đặc biệt thể hiện năng lực hoạt động chính trị - thực tiễn, phương pháp và phong cách làm việc của mỗi đảng viên
Sáu là, kết hợp chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân.
Trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Đảng ta luôn luôn kết hợp chặt chẽ giữa chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa quốc tế. Những thắng lợi của cách mạng Việt Nam cũng có nguyên nhân từ đường lối quốc tế đúng đắn của Đảng. Nhiệm vụ của người đảng viên là phải thực hiện đúng đắn đường lối đó của Đảng.
Bước vào giai đoạn mới, vấn đề đoàn kết quốc tế của cách mạng Việt Nam mang nội dung mới. Đó là, kết hợp chặt chẽ giữa chủ nghĩa yêu nước với chủ nghĩa quốc tế trong sáng, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, nguồn lực bên trong và bên ngoài, làm tốt nghĩa vụ quốc tế trong hoàn cảnh mới.
2. Khụng ng?ng t? ph?n d?u, rốn luy?n d? x?ng dỏng v?i danh hi?u ngu?i d?ng viờn c?ng s?n
Khái niệm “đảng viên” bao hàm hai mặt: cá nhân một con người mang danh hiệu đảng viên và một thành viên của Đảng (của một tổ chức đảng cụ thể và của toàn Đảng nói chung). Người đảng viên chỉ xứng đáng với danh hiệu cao quý của mình khi làm tròn bổn phận trên cả hai tư cách đó, nhờ sự phấn đấu của bản thân và sự giúp đỡ, tạo điều kiện của tổ chức đảng.
Về mặt cá nhân: Trước hết mỗi người đảng viên phải rèn luyện mình theo những đức tính của con người Việt Nam, đó là:

Có tinh thần yêu nước, tự cường dân tộc, phấn đấu vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, có ý chí vươn lên đưa đất nước thoát khỏi nghèo nàn lạc hậu, đoàn kết với nhân dân thế giới trong sự nghiệp đấu tranh vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.
Có ý thức tập thể, đoàn kết, phấn đấu vì lợi ích chung.
Có lối sống lành mạnh, nếp sống văn minh, cần kiệm, trung thực, nhân nghĩa, tôn trọng kỷ cương phép nước, quy ước của cộng đồng; có ý thức bảo vệ và cải thiện môi trường sinh thái.
Lao động chăm chỉ với lương tâm nghề nghiệp, có kỹ thuật, sáng tạo, năng suất cao vì lợi ích của bản thân, gia đình, tập thể và xã hội.
Thường xuyên học tập, nâng cao hiểu biết, trình độ chuyên môn, trình độ thẩm mỹ và thể lực.
Về tư cách đảng viên thành viên của tổ chức đảng:

Chủ tịch Hồ Chí Minh nói: “Trước mặt quần chúng, không phải ta cứ viết lên trán chữ “cộng sản” mà ta được họ yêu mến. Quần chúng chúng chỉ quý mến những người có tư cách, đạo đức..., làm mực thước cho người ta bắt chước”. Đối với Đảng, “Chúng ta vào Đảng là để hết lòng hết sức phục vụ giai cấp, phục vụ nhân dân, làm trọn nhiệm vụ của người đảng viên”
Yêu cầu của sự phấn đấu là giữ vững, tự khẳng định tư cách người cộng sản của mình và không ngừng vượt lên chính mình. Chủ tịch Hồ Chí Minh dạy: “tất cả các đảng viên, cán bộ và chi bộ cần phải thường xuyên ôn lại, tự liên hệ và giữ đúng những tiêu chuẩn của người đảng viên...”, coi đó là cách tốt nhất để xứng đáng với danh hiệu người cộng sản.
Trong nhiệm vụ năng cao năng lực lãnh đạo và nâng cao sức chiến đấu của Đảng, Nghị quyết Đại hội X chỉ rõ: từng cán bộ, đảng viên…phải có ý chí phấn đấu vươn lên, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao; thường xuyên rèn luyện phẩm chất đạo đức, không nể nang, né tránh; kiên quyết đấu tranh với những hiện tượng tiêu cực, tham nhũng, suy thoái ở ngay trong bản thân mỗi đảng viên, trong từng tổ chức đảng, cơ quan nơi mình sinh hoạt, công tác, ở trong Đảng và trong xã hội; dũng cảm đấu tranh chống các tư tưởng, quan điểm sai trái, thù địch.

Về vấn đề đảng viên làm kinh tế tư nhân:

Vấn đề đảng viên làm kinh tế tư nhân ở nước ta đã xuất hiện từ lâu trong quá trình tiến hành công cuộc đổi mới. Trên cơ sở tổng kết thực tiễn, Đại hội X đã thảo luận, biểu quyết và thông qua chủ trương: “Đảng viên làm kinh tế tư nhân phải gương mẫu chấp hành pháp luật, chính sách của Nhà nước, nghiêm chỉnh chấp hành Điều lệ Đảng và quy định của Ban Chấp hành Trung ương”.

Cơ sở để Đại hội thông qua chủ trương trên là do nước ta đang trong chặng đường đầu của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, với trình độ phát triển thấp kém của lực lượng sản xuất. Nhiệm vụ trung tâm hiện nay là phát triển kinh tế, giải phóng mạnh mẽ các tiềm năng phát triển trong xã hội, trong đó có trên 3 triệu đảng viên. Đó là thực hiện lời dạy của V.I. Lênin, phải qua “ những bước trung gian”, “ bắc những nhịp cầu nhỏ” từ sản xuất nhỏ lên chủ nghĩa xã hội.

Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta, các thành phần kinh tế cùng phát triển bình đẳng và đều là bộ phận cấu thành hữu cơ của nền kinh tế; kinh tế tư nhân không đối lập với kinh tế nhà nước. Phát triển kinh tế tư nhân cũng là để phát triển nền kinh tế thị trường định hướng lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Tuy nhiên, kinh tế tư nhân, do chịu tác động của các quy luật thị trường có thể có những những tác động tiêu cực đến tiêu chuẩn của người đảng viên. Để hạn chế những tác động tiêu cực đó, Nghị quyết Đại hội X yêu cầu đảng viên phải khác với những công dân khác là ngoài việc chấp hành đầy đủ chính sách, pháp luật của Nhà nước, còn phải chấp hành Điều lệ Đảng và những quy định trong Đảng, để làm kinh tế tư nhân nhưng vẫn đảm bảo tiêu chuẩn và giữ đúng tư cách đảng viên.
Thực hiện Nghị quyết Đại hội X, Hội nghị Trung ương 3 khóa X đã thông qua những quy định đối với đảng viên làm kinh tế tư nhân. Nhiệm vụ của mỗi đảng viên khi làm kinh tế tư nhân là phải thực hiện tốt những quy định này.

Phần III. Công tác vận động nhân dân của người đảng viên
Phần III. Công tác vận động nhân dân của người đảng viên

1. Quan điểm chỉ đạo công tác vận động nhân dân trong công cuộc đổi mới

2. Nhiệm vụ chủ yếu công tác vận động nhân dân của người đảng viên trong giai đoạn mới


1. Quan điểm chỉ đạo công tác vận động nhân dân trong công cuộc đổi mới

Một là, cách mạng là sự nghiệp của dân, do dân, vì nhân dân.

Tư tưởng “lấy dân làm gốc” được Chủ tịch Hồ Chí Minh kế thừa, nâng lên tầm cao mới, với những nội dung mới.
- Đại hội X của Đảng đã nêu năm bài học chủ yếu rút ra sau 20 năm đổi mới, trong đó có bài học: “đổi mới phải vì lợi ích của nhân dân, dựa vào nhân dân, phát huy vai trò chủ động, sáng tạo của nhân dân, xuất phát từ thực tiễn, nhạy bén với cái mới” .


Hai là, động lực thúc đẩy phong trào quần chúng là đáp ứng lợi ích thiết thực của nhân dân, kết hợp hài hoà các lợi ích, thống nhất lợi ích và nghĩa vụ công dân.
Trong sự nghiệp giải phóng dân tộc, giành độc lập tự do cho đất nước, Đảng đã vạch ra được đường lối, chủ trương đúng đắn, đáp ứng lợi ích, nguyện vọng của mọi tầng lớp nhân dân, đó là đấu tranh cho quyền dân sinh, dân chủ và lợi ích cao nhất là độc lập, tự do của đất nước. Nhờ đó đã tập hợp được các tầng lớp nhân dân đi theo Đảng làm cách mạng.
Trong điều kiện phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, việc giải quyết quan hệ lợi ích theo nguyên tắc: lợi ích cá nhân, lợi ích tập thể và lợi ích toàn xã hội gắn chặt và thống nhất với nhau, trong đó lợi ích cá nhân là động lực trực tiếp. Kết hợp hài hoà lợi ích trước mắt và lợi ích lâu dài, lợi ích địa phương và lợi ích cả nước. Coi trọng lợi ích cá nhân nhưng không tuyệt đối hoá, không chấp nhận chủ nghĩa cá nhân, ích kỷ dẫn đến mâu thuẫn xã hội gay gắt, làm tổn hại đến lợi ích chung của cộng đồng. Nhờ đó, qua 20 năm đổi mới, chúng ta đã đạt được những thắng lợi to lớn và có ý nghĩa lịch sử.
Đại hội X của Đảng khẳng định “kết hợp hài hoà các lợi ích cá nhân, tập thể và xã hội...” là một động lực chủ yếu để phát triển đất nước. Quán triệt quan điểm này mới tạo ra được phong trào hành động cách mạng rộng rãi của các tầng lớp nhân dân.

Ba là, các hình thức tập hợp nhân dân phải đa dạng.
Trong giai đoạn mới của cách mạng phải đa dạng hoá các hình thức tập hợp nhân dân, vì cơ cấu xã hội - giai cấp, xã hội - dân cư, xã hội - nghề nghiệp... có sự phát triển mới cùng với sự phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, làm cho nhu cầu lợi ích của xã hội, của tổ chức và mỗi cá nhân hết sức đa dạng, phong phú. Mặt khác, trình độ của các tầng lớp nhân dân không đồng nhất, do đó phải có cấp độ khác nhau về hình thức tập hợp. Đa dạng hoá các hình thức tập hợp nhân dân là hợp với quy luật phát triển của xã hội trong nền kinh tế thị trường với nhiều thành phần kinh tế ở nước ta.
Cùng với hình thức tập hợp nhân dân, Đảng cũng nhấn mạnh đến phương thức và khẩu hiệu vận động nhân dân sao cho phù hợp với trình độ từng đối tượng nhân dân, coi trọng việc vận động bằng các điển hình tiên tiến.
Theo tinh thần Đại hội X của Đảng, để phát huy dân chủ trong đời sống xã hội đòi hỏi phải phát triển nhiều hình thức trong sinh hoạt xã hội. Vì vậy, bên cạnh việc củng cố, đổi mới tổ chức và hoạt động của các đoàn thể chính trị - xã hội truyền thống, cần khuyến khích phát triển những tổ chức mang tính xã hội, nghề nghiệp, nhân đạo, hữu nghị..., thu hút đông đảo nhân dân thực hiện đường lối đổi mới của Đảng.

Bốn là, công tác vận động nhân dân là trách nhiệm của Đảng, chính quyền và các đoàn thể nhân dân.
Đảng phải lãnh đạo toàn bộ hệ thống chính trị làm công tác dân vận nhằm thường xuyên củng cố mối quan hệ gắn bó mật thiết với nhân dân, coi trọng công tác kiểm tra việc thực hiện các chủ trương về dân vận, nhất là đối với hệ thống chính quyền.
Các cấp chính quyền phải chăm lo công tác quần chúng, vì Nhà nước của ta là Nhà nước của dân, do dân, vì dân. Cần khắc phục tình trạng nhiều cấp chính quyền còn có những biểu hiện coi nhẹ công tác dân vận và coi nhẹ việc xây dựng các tổ chức quần chúng.

Các tổ chức đoàn thể, các hội nghề nghiệp... cần phải coi trọng công tác vận động đoàn viên, hội viên, phải tiếp tục đổi mới tổ chức và phương thức hoạt động cho phù hợp với tình hình mới.

Mọi cán bộ, đảng viên, mọi công chức, viên chức nhà nước đều phải làm tốt công tác dân vận theo chức trách của mình.

2. Nhiệm vụ chủ yếu công tác vận động nhân dân
của người đảng viên trong giai đoạn mới
Một là, trọng dân, gần dân, hiểu dân, học dân và có trách nhiệm với dân.
“Trọng dân” là điểm đầu tiên, điểm gốc, xuất phát từ quan điểm “cách mạng là sự nghiệp của dân, do dân, vì dân” và Đảng “phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ trung thành của nhân dân”.
“Gần dân”, đòi hỏi người cán bộ phải có cách tiếp cận tốt với nhân dân, từ thái độ, tác phong, lối sống của mình.
“Hiểu dân” tức là phải hiểu rõ tâm tư, nguyện vọng, những yêu cầu và những bức xúc của dân, cả những điều dân nói ra và còn để trong lòng. Đây là vấn đề rất hệ trọng.
“Học dân” vì trí tuệ và vì sức mạnh của dân là vô tận. Bác Hồ thường dạy cán bộ phải “học dân chúng” để “nâng cao dân chúng”.
“Có trách nhiệm với dân” chính là quan điểm vì dân. Bác Hồ dạy cán bộ không phải là “quan cách mạng” mà là “người đày tớ thật trung thành của nhân dân”.
Hai là, tuyên truyền, vận động nhân dân, đưa mọi người tham gia vào các tổ chức thích hợp để hoạt động.

Để làm tốt công tác dân vận phải đặc biệt quan tâm đến việc vận động quần chúng tham gia các tổ chức chính trị – xã hội. Ngay khi về nước, Bác Hồ đã thành lập Mặt trận Việt Minh, tập hợp tất cả các giai cấp, tầng lớp vào tổ chức Việt Minh vận động "không trừ một ai", nhờ đó đã tạo ra cao trào Cách mạng Tháng Tám, giành được chính quyền trong điều kiện rất khó khăn, phức tạp.
Trong công tác vận động nhân dân phải lấy thuyết phục làm chính, đó là vấn đề có tính nguyên tắc. Phải kiên trì giáo dục, thuyết phục quần chúng, làm cho quần chúng hiểu rõ chủ trương, chính sách để mọi người tự giác chấp hành. Việc tổ chức động viên quần chúng cần gắn với việc thực hiện các chương trình kinh tế - xã hội, an ninh, quốc phòng, chăm lo lợi ích thiết thực của nhân dân, đồng thời nâng cao giác ngộ chính trị cho quần chúng trong các tổ chức Mặt trận, đoàn thể, các hội quần chúng, đưa quần chúng vào các hoạt động trong phong trào cách mạng, phù hợp với trình độ từng đối tượng nhân dân.
Ba là, bồi dưỡng và nhân rộng điển hình và sử dụng quần chúng tiên tiến.
Phương châm công tác vận động quần chúng là lấy quần chúng vận động quần chúng. Người cán bộ, đảng viên phải biết dựa vào những người tiên tiến, biết nhân rộng, để động viên, thúc đẩy mọi người làm theo.
Việc bồi dưỡng và nhân rộng điển hình tiên tiến cần phối hợp và thông qua các tổ chức đoàn thể chính trị - xã hội và các tổ chức hội quần chúng. Trong khi sử dụng quần chúng tiên tiến thì tránh việc bỏ rơi quần chúng chậm tiến, cần kiên nhẫn giáo dục, động viên, khích lệ họ tham gia phong trào chung, không nên lạm dụng tổ chức để đả kích, chê trách, dẫn quần chúng dần đến chỗ bất mãn và có khi trở thành những người chống đối, ngăn cản phong trào.
Bốn là, nêu gương cho quần chúng noi theo.
Đảng lãnh đạo quần chúng không chỉ bằng đường lối, chính sách mà còn thông qua vai trò gương mẫu tiên phong trong nhận thức, trong hành động và trong đạo đức, lối sống, tác phong của từng đảng viên.
Nhiệm vụ người đảng viên là phải gương mẫu ở nơi làm việc; tuyên truyền vận động gia đình mình thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước. Mỗi đảng viên đều phải gương mẫu lôi cuốn mọi người thực hiện nghĩa vụ công dân ở nơi cư trú. Đảng viên tham gia các đoàn thể chính trị - xã hội phải gương mẫu để các hội viên khác noi theo. Đảng viên phải thực hiện lời dạy của Bác Hồ: “Đảng viên đi trước, làng nước đi sau”. Có như vậy, mới củng cố lòng tin của quần chúng đối với Đảng.
* Một số tài liệu cũ có thể bị lỗi font khi hiển thị do dùng bộ mã không phải Unikey ...

Người chia sẻ: Trần Thu Diễm
Dung lượng: | Lượt tài: 0
Loại file:
Nguồn : Chưa rõ
(Tài liệu chưa được thẩm định)